MỤC LỤC
Lời nói đầu . 1
Chương 1: Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc (ACFTA) . 6
1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA . 6
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do
(FTA) trên toàn cầu . 6
1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của
khu vực kinh tế năng động ASEAN. . 20
1.1.3. Những thành tựu hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc . 34
1.2. Sự hình thành ACFTA . 54
1.2.1. Các mốc thời gian chính . 54
1.2.2. Nội dung cam kết . 61
Chương 2: Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc tới các quốc gia thành viên . 77
2.1. Cơ hội . 77
2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn . 77
2.1.2. Tạo ra vị thế mới về chính trị trong các vòng thương lượng,
đàm phán đa phương toàn cầu . 105
2.1.3. Tạo ra môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác . 110
2.2. Thách thức . 114
2.2.1. Loại hình tổ chức của ACFTA . 114
2.2.2. Tình trạng phân hóa hai cực . 116
2.2.3. Cạnh tranh . 117
2.2.4. Yếu tố chính trị . 136
Chương 3: Việt Nam và ACFTA . 147
3.1. Quan hệ hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc . 147
3.1.1. Hợp tác chính trị, ngoại giao . 148
3.1.2. Hợp tác thương mại . 149
3.1.3. Hợp tác đầu tư . 158
3.2. Tác động của ACFTA đối với Việt Nam. . 160
3.2.1. Cơ hội đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA . 160
3.2.2. Thách thức đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA . 178
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào ACFTA188
3.3.1. Chuyên môn hoá sản xuất và chế biến những mặt hàng xuất
khẩu mà Việt Nam có năng lực cạnh tranh hơn so với Trung Quốc189
3.3.2. Thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cường tự do hoá thương mại
và xúc tiến đầu tư . 195
3.3.3. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại . 200
3.3.4. Phát huy lợi thế về vị trí địa lý để nâng cao kim ngạch
thương mại song phương, trở thành đầu cầu và cửa ngõ của Trung
Quốc ở thị trường ASEAN . 205
3.3.5. Tiến hành đàm phán với Trung Quốc để được hưởng các
điều kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện
nguyên tắc tối huệ quốc cũng như trong việc cung cấp hỗ trợ kinh
tế kỹ thuật . 209
3.3.6. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước
ASEAN khác . 211
3.3.7. Tích cực hợp tác với với các nước trong khối ASEAN để đi
đến nhất thể hoá thị trường khu vực nhằm cạnh tranh với thị
trường Trung Quốc. . 215
Kết luận . 223
Danh mục tài liệu tham khảo . 228
Chú thích: . 228
Tài liệu tham khảo khác . 238
Phụ lục . 241
268 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4408 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho dù những hàng hoá này đến từ một vài nước có chi phí sản
xuất thấp. Đây chính là hiện tượng chuyển hướng thương mại. Không
nghi ngờ gì nữa, Trung Quốc đã tự xếp mình như một trong những nhà
sản xuất hàng đầu các sản phẩm công nghiệp giá rẻ và đang chuyển
hướng về sản xuất những sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng lớn
hơn. Tuy nhiên, trao đổi thương mại với Trung Quốc không phải là trò
chơi một mất một còn, khi Trung Quốc tiếp nhận toàn bộ lợi ích, phần
còn lại của ASEAN sẽ lên tiếng phản đối. Chắc chắn sẽ có cạnh tranh,
đặc biệt là để tìm thị trường xuất khẩu, tuy nhiên sự khác biệt giữa các
sản phẩm sẽ bổ sung lẫn cho nhau.
2.2.3.2. Cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Về đầu tư, với một thị trường rộng lớn lại có sự ổn định chính trị
xã hội cao, có nền kinh tế đang công nghiệp hoá tăng trưởng cao và ổn
định, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ có sức hút mạnh
mẽ đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên rủi ro có thể xảy ra là
phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thu hút bởi Khu vực mậu dịch
tự do này sẽ do Trung Quốc chiếm giữ.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 124 -
Thật vậy, chế độ đầu tư tự do hơn của Trung Quốc cũng như chi
phí sản xuất thấp của nước này so với các quốc gia khác sẽ rất có thể kéo
một số nhà đầu tư ra xa các nước ASEAN. ASEAN và Trung Quốc đều
là những nước đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế cần thu
hút một khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sau khủng hoảng
tài chính tiền tệ châu Á năm 1997, đầu tư nước ngoài bắt đầu rút khỏi
các nước Đông Nam Á, trong khi đó, Trung Quốc với thị trường nội địa
khổng lồ và với sự điều hành kinh tế vĩ mô vững chắc đã khiến cho
nguồn vốn bên ngoài ồ ạt chảy vào. Năm 2000, tỷ lệ FDI vào 10 nước
ASEAN trong tổng ngạch đầu tư vào các nước đang phát triển châu Á
vẫn thấp hơn mức trước khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ, từ trên 30% thời
kỳ giữa thập kỷ 90 xuống còn 10% vào năm 2000, trong khi đó đầu tư
trực tiếp của nước ngoài vào Trung Quốc từ 14.38% năm 1990 tăng vọt
lên 45.9% vào năm 2001 [28].
Mặt khác, phần lớn các nước ASEAN trong 30 năm qua chủ yếu
dựa vào đầu tư trực tiếp từ bên ngoài, nhất là vốn từ Nhật Bản. Nhưng
việc ASEAN thiết lập khu mậu dịch tự do với Trung Quốc sẽ gạt các thế
lực truyền thống như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản ra ngoài, do vậy trước hết
sẽ phải chịu sức ép từ phía Nhật Bản, cụ thể đầu tư của Nhật Bản tại khu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 125 -
vực có thể sẽ giảm mạnh gây nên tổn thất trực tiếp về kinh tế. Đồng thời,
Trung Quốc lại có sức thu hút to lớn đối với các nhà đầu tư Nhật Bản,
Mỹ, Hồng Kông, thậm chí Đài Loan. Hiện nay có tới 80% [28] vốn quốc
tế đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc, điều này tạo nên một sức ép rất lớn
đối với sự phát triển kinh tế và là một thách thức mới đối với ASEAN.
Hơn nữa, tuy nguồn vốn đầu tư từ Hồng Kông, Đài Loan chiếm vị
trí quan trọng trong đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc nhưng từ khi gia
nhập WTO, chính phủ Trung Quốc đã sửa đổi “Danh mục chỉ đạo ngành
đầu tư ngoại thương” và “Quy định chỉ đạo hướng đầu tư ngoại
thương”, mở rộng lĩnh vực đầu tư nước ngoài, đồng thời nới lỏng hạn
chế tỷ lệ cổ phần đầu tư nước ngoài. Do vậy, những năm gần đây, Mỹ,
Nhật Bản và Châu Âu đã đẩy mạnh đầu tư vào Trung Quốc. Theo thống
kê của Bộ Tài chính Nhật Bản, 6 tháng đầu năm 2002, đầu tư trực tiếp
của Nhật Bản vào Singapore giảm 30.5%, vào Thái Lan giảm 44.4%,
vào Indonesia giảm 31.7%, vào Malaysia giảm 55% và vào Việt Nam
giảm 47.6%; trong khi đó đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc lại tăng
23.2% [28]. Nguyên nhân chủ yếu khiến Nhật Bản giảm đầu tư vào
ASEAN và chuyển vốn đầu tư sang Trung Quốc là do Trung Quốc có ưu
thế giá nhân công rẻ, thị trường lớn. Ví dụ, công ty sản xuất đồ điện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 126 -
NEC của Nhật Bản đã đóng cửa cơ sở sản xuất máy vi tính cá nhân ở
Malaysia, chuyển sang sản xuất tại Trung Quốc. Hay trong ngành công
nghiệp sản xuất ô tô cũng vậy, các nhà hoạch định chính sách đang lo
ngại rằng Trung Quốc sẽ thu hút hết nguồn đầu tư nước ngoài vào ngành
này và sẽ dần “xoá sổ” thị phần của ASEAN trên thị trường Trung
Quốc. Như vậy, có thể thấy triển vọng thị trường Trung Quốc đang ngày
càng có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Và đây chính là
điều mà các nước ASEAN đều lo ngại.
Mặc dù thách thức cạnh tranh với Trung Quốc, cả hiện tại và tương
lai, là rất lớn song đứng ở góc độ chiến lược, hội nhập của ASEAN và
Trung Quốc là cần thiết bởi lẽ căn cứ vào tình hình xuất nhập khẩu của
các nước ASEAN, có thể thấy, cơ cấu ASEAN có tính hướng ngoại với
hơn 77% khối lượng ngoại thương diễn ra với bên ngoài khối, giao dịch
nội khối chỉ chiếm 23% [25]. Xét rộng ra, không chỉ các nước ASEAN
mà các nước thuộc khu vực Đông Á nói chung như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Trung Quốc đều mang thuộc tính này. Không những
thế, cơ cấu sản phẩm của các nước cũng tương đối giống nhau. Chính
thuộc tính này làm cho các nước xích lại gần nhau hơn trong những năm
qua. Các nước ASEAN dường như bị chi phối bởi ảnh hưởng của Nhật
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 127 -
Bản, song cũng được lợi từ mối quan hệ này. Rõ ràng cạnh tranh trong
xuất khẩu mới là nguy cơ lớn nhất, làm chia rẽ các nước. Điều này xét
về mặt nào đấy chỉ có lợi cho bên thứ ba.
Hơn nữa, bài học từ khối các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cho
thấy một cơ cấu tương tự là rất cần thiết đối với các nước trong khu vực,
không chỉ ASEAN mà cả Trung Quốc. Thế giới ngày nay đang đứng
trước trào lưu tự do hoá thương mại và ngày càng có xu hướng trở thành
thị trường chung bị chi phối bởi các công ty đa quốc gia. Trong bối cảnh
đó, những nước đang phát triển chịu nhiều thiệt thòi và bất lợi đang có
xu hướng xích lại gần nhau hơn để tự bảo vệ và tạo điều kiện phát huy
sức mạnh tập thể, hỗ trợ và tăng cường khả năng cạnh tranh. Xét trên
quan điểm này, một sự hợp nhất ASEAN - Trung Quốc có lợi hơn là đối
đầu lẫn nhau, đúng như nhận định của Cựu tổng thư ký ASEAN Rodolfo
C. Severino: “Cạnh tranh là điều không còn phải bàn cãi. Toàn bộ hàm
ý của toàn cầu hoá chính là cạnh tranh, thương mại như vậy, kinh tế
cũng là như vậy. Cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh tự do công bằng thì
không phải là điều xấu, cũng không đáng lo sợ” [28]. Như vậy, xây
dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ khiến cho
ASEAN và Trung Quốc trở thành một thị trường thống nhất và đây
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 128 -
chính là con đường hiệu quả để khắc phục cạnh tranh “ác tính” giữa hai
bên.
2.2.3.3. Cạnh tranh tại thị trường thứ ba
Sau hơn 20 năm cải cách và thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh
tế Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng với tiềm lực kinh tế to lớn,
đứng thứ hai trên thế giới sau Mỹ về GDP tính theo sức mua tương
đương. Đồng thời, cả GDP và ngoại thương của Trung Quốc đều phát
triển với tốc độ nhanh. Sức mạnh kinh tế đó của Trung Quốc đang tác
động rất mạnh đến các nước ASEAN, đặc biệt tại thị trường thứ ba.
Trước hết, ASEAN, với tư cách là một khối thống nhất, đang dần
mất đi vị trí trung tâm chế tạo hàng giá thành thấp của thế giới. Trung
tâm này đã dần dần chuyển sang Trung Quốc. Đó là do Trung Quốc và
đa số các nước ASEAN đều có nguồn nhân lực và nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú, trình độ phát triển và cơ cấu ngành về cơ bản
cùng thứ hạng, còn những nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và các
nước công nghiệp mới khác lại đều là đối tác thương mại và nguồn thu
hút vốn chủ yếu. Theo điều tra của báo Nikkei (Nhật Bản), năm 2000,
Trung Quốc chiếm 40% tổng lượng sản xuất máy điều hoà không khí,
24% tivi màu, 11% máy tính cá nhân và 10% điện thoại di động của thế
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 129 -
giới [30]. Hơn nữa, với chất lượng hàng công nghiệp ngày càng được cải
thiện rõ rệt, Trung Quốc đã nhanh chóng thâm nhập vào các thị trường
quan trọng trên thế giới như Mỹ và Nhật Bản, đây đồng thời cũng là
những thị trường xuất khẩu quan trọng nhất đối với cả phần lớn các
thành viên ASEAN và Trung Quốc. Lấy ví dụ với bốn nước ASEAN có
trình độ phát triển gần với Trung Quốc là Thái Lan, Malaysia,
Philippines và Indonesia. Thị phần của các nước này tại Mỹ và Nhật Bản
có thể bị thu hẹp lại do sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc. Theo
thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), trong thập niên 90, thị phần của
Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia chỉ thay đổi đáng kể trong
khi thị phần của Trung Quốc lại tăng vượt bậc. Từ năm 1991 đến năm
2001, thị phần của 4 nước ASEAN này trong tổng nhập khẩu của Mỹ chỉ
tăng từ 3.7% đến 5% trong khi Trung Quốc tăng từ 2% lên 7%. Cũng
trong thời gian đó, trong tổng nhập khẩu của Nhật Bản, thị phần của 4
nước ASEAN: Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia tăng từ
11.1% đến 12.7% trong khi Trung Quốc tăng từ 4.9% lên 13% [30].
Như vậy, có thể thấy trong số những thị trường xuất khẩu chính
của các nước ASEAN, chừng nào cuộc cạnh tranh với Trung Quốc còn
tiếp diễn, Châu Âu, Nhật Bản và Mỹ sẽ là những thị trường cạnh tranh
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 130 -
lớn. Vì Trung Quốc đang hướng hàng xuất khẩu của họ vào cùng một thị
trường với ASEAN nên hàng hoá của các nước ASEAN sẽ phải cạnh
tranh trực tiếp với hàng Trung Quốc. Hiện nay, các thị trường chính của
Trung Quốc là Mỹ, EU và Nhật Bản với mức xuất khẩu trên tổng số
(khoảng 195.2 tỷ USD vào năm 2000) lần lượt là 45%, 26% và 22%
[31]. Thương mại của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào các sản phẩm
chế tạo bao gồm: hàng tiêu dùng (đồ chơi, các chương trình trò chơi,
thiết bị nội thất); trang thiết bị văn phòng và viễn thông, máy và dụng cụ
chạy điện, hàng dệt may và quần áo.
Thật vậy, từ cuối thập kỷ 80, với chiến lược trở thành trung tâm
của thế giới về hàng chế tạo, Trung Quốc đã là nước sản xuất và xuất
khẩu lớn nhất các mặt hàng chế tạo tập trung nhiều lao động. Trong giai
đoạn 1993 – 1998, nhóm hàng này bao gồm dệt may, giầy dép, đồ chơi
trẻ em, dụng cụ thể thao và đồ gỗ, ..., chiếm 36% [32] tổng kim ngạch
xuất khẩu của Trung Quốc. Đây cũng là những mặt hàng đóng góp nhiều
nhất cho thặng dư thương mại của Trung Quốc kể từ năm 1995 trở lại
đây. Hiện nay, khoảng 94% và 96% tổng lượng hàng xuất khẩu của
Trung Quốc sang thị trường Mỹ và EU là hàng chế tạo. Tại Nhật, gần
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 131 -
15% lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc là sản phẩm nông nghiệp và
khoảng 80% là hàng chế tạo [31].
Mặc dù xuất khẩu dệt may bị hạn chế bởi những quy định của Hiệp
định đa sợi nhưng dệt may vẫn là nhóm hàng xuất khẩu quan trọng nhất
trong giai đoạn kể trên. Ví dụ, tại thị trường hàng may mặc nhóm G7, thị
phần của Trung Quốc đã tăng gấp đôi lên mức 20% những năm 90, lợi
nhuận về thị phần này phần lớn thu được từ thiệt hại của các nhà xuất
khẩu của các nước công nghiệp mới Châu Á (NICs); tuy nhiên, thị phần
của các nước Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan vẫn còn khá
trì trệ ở mức khoảng 8% [34]. Thị trường hàng giày dép G7 hiện cũng
đang bị Trung Quốc chiếm lĩnh, với thị phần tương đối tăng từ 10% cuối
những năm 80 đến mức 38% [33] cuối những năm 90. Một lần nữa, việc
này đã gây thiệt hại không nhỏ cho ASEAN.
Sở dĩ như vậy là vì chi phí nhân công ở Trung Quốc rất thấp. Nếu
lấy giá nhân công làm tiêu chí để so sánh thì các nước ASEAN phải đối
mặt với sức ép rất lớn trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá. Từ bảng 12 có
thể thấy Trung Quốc là nước có đơn giá nhân công thấp nhất (0.07
USD), trong khi đơn giá nhân công của các nước ASEAN lại rất cao,
đặc biệt là Singapore, Thái Lan và Malaysia với chỉ số nhân công trên
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 132 -
dưới 0.5 USD. Điều này đã lý giải tại sao Trung Quốc lại có nhiều ưu
thế hơn so với các nước ASEAN trong quá trình xuất khẩu những mặt
hàng có hàm lượng lao động cao. Một nguyên nhân khác là do các nước
phát triển và một số nước công nghiệp mới đã thực hiện cải cách cơ cấu
công nghiệp theo hướng tập trung sản xuất các mặt hàng có hàm lượng
công nghệ cao và nhập khẩu các mặt hàng có hàm lượng lao động cao từ
các nước đang phát triển.
Bảng 12: So sánh đơn giá nhân công giữa Trung Quốc và một số
nước ASEAN
Đơn vị: USD
1985 1986 1987 1988 1999
Trung
Quốc
0.07 0.06 0.07 0.07 0.07
Indonesia 0.21 0.16 0.14 0.09 0.09
Malaysia 0.4 0.37 0.25 0.25 0.25
Philippine
s
0.29 0.3 n.a. n.a. n.a.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 133 -
Singapore 0.46 0.41 0.68 0.71 0.59
Thái Lan n.a. n.a. 0.28 0.36 0.33
Nguồn: Lee and Abeysinghe (1999) [33].
n.a. : không có số liệu
Có thể lấy ví dụ một nhóm hàng tập trung nhiều lao động của
Trung Quốc đang phát triển rất nhanh và chắc chắn sẽ là mối đe doạ
đáng kể cho lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá của các nước ASEAN, đó là
máy móc và đồ điện gia dụng như thiết bị ghi âm, linh kiện tivi và các
thiết bị viễn thông khác. Giá trị xuất khẩu của nhóm hàng này đã tăng từ
2.82% năm 1986 lên 23.75 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung
Quốc [32]. Theo thống kê của báo Nikkei (Nhật Bản), tại thị trường
Nhật Bản, hàng vải, may mặc nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ có 4 tỷ JPY
vào năm 1990 nhưng đã tăng lên 1,800 tỷ JPY vào năm 2000, làm cho tỷ
lệ nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng nhập khẩu các mặt hàng này của
Nhật Bản trong thời gian đó tăng từ 0.2% lên đến 68%. Vào năm 1990,
hầu như Trung Quốc chưa xuất khẩu đồ điện gia dụng sang Nhật Bản,
nhưng đến năm 2000 đã chiếm gần 30% tổng lượng nhập khẩu máy điều
hoà không khí của nước này, trên 30% máy giặt, 25% tivi và video [30].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 134 -
Thứ hai, xem xét từ cơ cấu xuất khẩu hàng hoá, những năm gần
đây, hệ số tương quan đẳng cấp hay còn gọi là “chỉ số đặc thù”
(specification index) [34] của hàng xuất khẩu Trung Quốc và ASEAN
ngày càng cao. Đánh giá của Viện nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) về
“chỉ số đặc thù” của hàng hoá công nghiệp của các nước Đông Á (xem
bảng 13) cho thấy hầu hết các nước ASEAN hiện đang trong tình trạng
cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc về thương mại, cơ cấu hàng xuất
khẩu của hai bên ngày càng giống nhau, sự cạnh tranh trên thị trường
thứ ba ngày càng quyết liệt. Trong đó, hệ số tương quan giữa Trung
Quốc và Thái Lan cao nhất, tới mức 0,98 (nghĩa là khả năng bổ sung
nhau rất thấp, cơ cấu hàng xuất khẩu hai nước giống nhau nhất và mức
độ cạnh tranh do đó cũng cao nhất).
Bảng 13: Chỉ số đặc thù của Trung Quốc và các nước ASEAN 5
trong một số ngành công nghiệp
Nước
Chế phẩm
Hoá chất
Công nghiệp có
hàm lượng nguy
liệu cao
Các loại
Máy móc
Công nghiệp
tạp phẩm
Trung Quốc - 0.40 - 0.02 -0.08 0.76
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 135 -
Indonesia - 0.31 0.52 -0.04 0.84
Thái Lan - 0.36 - 0.08 0.05 0.69
Malaysia - 0.29 - 0.09 0.13 0.34
Philippines - 0.80 - 0.54 -0.06 0.33
Singapore 0.15 - 0.28 0.06 -0.09
Nguồn : Viện nghiên cứu Nomura (Nomura Research Institute), Nhật
Bản, 2001, tính theo số liệu thống kê của ADB.
Hơn nữa, Trung Quốc và các nước ASEAN không chỉ có các mặt
hàng xuất khẩu giống nhau mà còn có nhiều thị trường xuất khẩu trùng
nhau. Về thị trường xuất khẩu, cả Trung Quốc và các nước ASEAN đều
dựa khá nhiều vào các nước phát triển. Các năm qua, Hồng Kông luôn là
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc (tham khảo Phụ lục 9),
nhưng một khối lượng lớn hàng hoá xuất qua Hồng Kông để vào các thị
trường khác. Vì vậy, nếu không tính lượng hàng hoá xuất khẩu qua trung
gian này, tính tới thời điểm năm 1998 thì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Trung Quốc, sau đó là Nhật Bản. Trong khi đó, đối với các
nước ASEAN, khoảng 20.5% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước
này là sang thị trường Mỹ; 16.3% sang thị trường Châu Âu và 11% được
xuất sang Nhật Bản [32].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 136 -
Như vậy, với việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do với Trung
Quốc, thoạt đầu các nước ASEAN sẽ thu được lợi nhờ cắt giảm quan
thuế của Trung Quốc nhưng ASEAN sẽ mất dần cho Trung Quốc thị
phần ở Mỹ, Châu Á và các thị trường khác.
2.2.4. Yếu tố chính trị
2.2.4.1. Vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông
Biển Đông (phía Trung Quốc gọi là Nam Hải, người phương Tây
gọi là biển Nam Trung Hoa) là vấn đề còn tồn tại và gây căng thẳng giữa
một số nước Đông Nam Á với Trung Quốc. Trong vấn đề biển Đông,
Trường Sa là điểm tranh chấp gay gắt nhất trong việc công nhận phạm vi
chủ quyền và lợi ích biển của các nước có liên quan. Biển Đông chiếm
25% vận tải biển của thế giới, trữ lượng dầu mỏ ước tính khoảng 23.5 tỷ
tấn và lượng khí đốt thiên nhiên khoảng 8269 tỷ m3 [35]. Cho nên có thể
nói, sự phức tạp của vấn đề Biển Đông mang tính tổng hợp, nó không
chỉ bao gồm yếu tố lịch sử, lợi ích chiến lược, chạy đua khai thác các
nguồn tài nguyên thềm lục địa như dầu lửa, khí tự nhiên mà còn gọi là
“tâm địa chấn” của mọi hoạt động trên biển giữa các nước trong khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 137 -
Trong những năm gần đây, quan hệ láng giềng giữa Trung Quốc
với các nước ASEAN đã có bước cải thiện và phát triển đáng kể làm cho
tình hình ở Biển Đông gió im sóng lặng, nhưng thực chất các nước vẫn
không hề nới lỏng sự khống chế quân sự của mình. Trung Quốc tăng
cường cơ sở hạ tầng trên biển như cảng, sân bay, đèn biển, doanh trại và
tăng cường kiểm soát hành chính, còn các nước ASEAN tăng chi phí
quốc phòng và tích cực tiến hành các cuộc diễn tập trên Biển Đông. Sau
4 năm vắng bóng tại vùng biển gần quần đảo Trường Sa, ngày 21/ 2/
2000, Mỹ cùng Philippine diễn tập quân sự mang tên “Tinh thần đồng
đội Mỹ – Philippine” với quy mô lớn. Tiếp đến, vào tháng 5/ 2000, lần
đầu tiên Singapore cùng Thái Lan và Mỹ diễn tập chung “Hổ mang
2000” trong vòng 14 ngày. Ngày 3/ 7/ 2000, các nước Singapore,
Malaysia, Australia, New Zealand và Anh tiến hành cuộc diễn tập “Cá
bay 2000” với 5000 lính, 34 tàu chiến và 98 máy bay chiến đấu. Đáp lại
những cuộc diễn tập của các nước Đông Nam Á, trung tuần tháng 4/
2000, đội tàu của hải quân Trung Quốc diễn tập với nội dung 35 hạng
mục, huấn luyện và kiểm tra phương hướng chiến đấu trong môi trường
chiến đấu biển. Với những cuộc tập trận này, Biển Đông trở nên không
yên ả. Nhiều nhà quan sát lo ngại rằng nó có thể trở thành thùng thuốc
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 138 -
súng của Châu Á và có thể gây ra bão táp và trở thành “Trung Đông thứ
hai”. Mặc dù Trung Quốc và các nước ASEAN có liên quan đã đề cập
đến vấn đề này trong các cuộc hội nghị riêng về Biển Đông hoặc trong
các diễn đàn chung giữa hai bên nhưng vẫn chưa đạt được kết quả đáng
kể.
Như vậy, rõ ràng là tình hình biển Đông luôn là vấn đề nhạy cảm
trong quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN. Đây cũng có thể là trở ngại
lớn nhất trong việc phát triển quan hệ Trung Quốc – ASEAN trong thế
kỷ mới. Chính vì vậy, làm thế nào để duy trì hòa bình, ổn định và phi hạt
nhân hóa tại Biển Đông đã trở thành vấn đề mà Trung Quốc và ASEAN
cần phải đối mặt trước tiên một khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc được thành lập. Sớm ký kết bộ quy tắc ứng xử Biển Đông
(COC) có thể sẽ là sự bảo đảm quan trọng cho việc duy trì ổn định trong
khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác chặt chẽ và toàn diện hơn
giữa ASEAN và Trung Quốc trong ACFTA.
2.2.4.2. Vấn đề về quyền chủ đạo trong ACFTA
Sự thành công của bất cứ một hiệp định thương mại khu vực nào
thường có xu hướng là nhờ vào một nền kinh tế vững mạnh hoặc phát
triển. Tuy nhiên, không thể cho rằng xu hướng này sẽ bất biến về lâu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 139 -
dài. Một khi Trung Quốc trở nên ổn định hơn với các cuộc cải cách của
mình với tư cách là thành viên của WTO, quốc gia này có thể sẽ tích cực
tìm cách gây ảnh hưởng đến quá trình tự do hoá thương mại trong khu
vực. Trong số các nước ASEAN, không một nước nào có thực lực kinh
tế bằng Trung Quốc, nhưng nếu coi ASEAN là một khối thì lại có thể so
sánh được với Trung Quốc. Việc ai sẽ đóng vai trò chủ đạo ACFTA
trong tương lai là một vấn đề khá hóc búa.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng đóng vị trí đầu tầu trong khu
vực mậu dịch tự do này sẽ là Trung Quốc. Do vậy, sẽ không có gì ngạc
nhiên khi nước này rất quan tâm đến việc triển khai hiệp định này.
Ngoài những nguồn lợi to lớn về kinh tế nhờ vào sự ra đời của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, Trung Quốc còn có thể đánh bật
Nhật Bản ra khỏi vị trí hàng đầu ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
như nhận định của Jonathan Anderson, phụ trách bộ phận nghiên cứu
Châu Á - Thái Bình Dương của công ty UBS Securities tại Hồng Kông:
“ Trong 5 năm qua, nền kinh tế Trung Quốc hoạt động tốt hơn hẳn so
với các nước khác trong khu vực, và giới chức Trung Quốc rõ ràng
muốn được đánh giá là họ đang nhường chút gì đó cho các nước láng
giềng của mình. Và một FTA do Trung Quốc dẫn đầu sẽ là một bước
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 140 -
tiến đáng kể hướng tới việc củng cố vai trò của họ như là nhà lãnh đạo
mới của khối này, khéo léo hất cẳng Nhật Bản trong tiến trình đó” [24].
Thật vậy, hiện nay, trong khi kinh tế Nhật Bản còn chưa thoát ra khỏi
khủng hoảng thì kinh tế Trung Quốc vẫn tiếp tục đạt được những thành
tựu rất đáng tự hào. Mặc dù quan hệ ASEAN – Nhật Bản đã có lịch sử
phát triển hơn 40 năm qua, song mối quan hệ này trong thời gian gần
đây đã trở nên mờ nhạt hơn. Quan hệ ASEAN – Nhật Bản dựa vào mô
hình “đàn nhạn bay”, trong đó Nhật Bản là con chim đầu đàn, song mô
hình này đã thay đổi khi đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở nên quan
trọng hơn. Trên thực tế, Nhật Bản và các nước ASEAN hiện không phải
là đối tác bình đẳng bởi sự chênh lệch quá lớn về thu nhập, lương và
tổng thu nhập quốc nội. Khác với Nhật Bản, các nước ASEAN hiện
đang rất phụ thuộc vào thương mại, cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Tại
các nước này, thương mại chiếm tới 134% GDP, trong khi đó chỉ tiêu
tương ứng của Nhật Bản chỉ là 18% GDP [23]. Đây là lý do của sự bất
đồng lớn, tuy rằng Nhật Bản cũng là một thị trường khá lớn. Trong khi
đó, Trung Quốc là một nền kinh tế khổng lồ và có nhiều nét tương đồng
với khu vực ASEAN, ví dụ như nước này còn có chênh lệch về kinh tế
giữa các khu vực duyên hải và những vùng sâu trong nội địa đang ngày
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 141 -
càng tăng lên. Mặc dù Trung Quốc phát triển mạnh các lĩnh vực như
điện thoại di động và máy tính cá nhân song 70% của nền kinh tế nước
này vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp [23]. Như vậy, nếu như trước đây
Mỹ và Nhật Bản đóng vai trò là các nhà đầu tư chủ yếu vào nền kinh tế
các nước Đông Nam Á thì hiện nay Trung Quốc đang dần thay thế các
vị trí đó.
Chính vì vậy, trước đề xuất của Trung Quốc về việc thành lập một
khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc, một số nước
ASEAN cho rằng họ đang bị Trung Quốc lôi cuốn vào cuộc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2.pdf