MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa . 1
Lời cảm ơn . 2
Mục lục. 3
DẪN LUẬN . 5
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ PHÊ BÌNH MÁC-XÍT VÀ PHÊ BÌNH
MÁC-XÍT Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
1.1. Tổng quan về phê bình Mác-xít . 18
1.1.1. Khái niệm phê bình Mác-xít . 18
1.1.2. Những nguyên tắc cơbản. 20
1.1.2.1. Về nguồn gốc và bản chất của vănhọc. 20
1.1.2.2. Về chức năng của văn học và vai trò củavăn nghệ sĩ . 25
1.1.2.3. Về thế giới quan và phương pháp sáng tác . 28
1.1.3. Sơ lược về quá trình hìnhthành và phát triển của phê bình
Mác-xít trên thế giới . 36
1.2. Khái quát về phê bình Mác-xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX . 51
1.2.1. Cơ sở xã hội - lịchsử . 51
1.2.2. Quá trình hình thành và pháttriển . 54
Chương 2. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA KHUYNH HƯỚNG PHÊ BÌNH
MÁC-XÍT Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
2.1. Các đặc điểm về nguyên tắc thẩm mỹ . 66
2.1.1. Khái niệm văn học .67
2.1.2. Mối quan hệ nhà văn - tác phẩm- ngườiđọc . 70
2.1.3. Trách nhiệm của nhà văn,phương pháp sáng tác và tự do
trong nghệ thuật . 78
2.1.4. Nội dung và hình thức. 88
2.1.5. Giá trị văn học . 99
2.2. Các đặc điểm về phương pháp phêbình . 107
2.2.1. Phương pháp lập luận . 108
2.2.1.1. Phương pháp xây dựng hệ thống mở . 108
2.2.1.2. Phương pháp so sánh – đối chứng khách quan . 111
2.2.1.3. Phương pháp giải thích xây dựng khái niệm. 113
2.2.2. Ngôn ngữ phê bình . 114
2.2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại. 115
2.2.2.2. Ngôn ngữ nhiều giọng điệu .116
Chương 3. ĐÓNG GÓP CỦA PHÊ BÌNH MÁC-XÍT NỬA ĐẦU
THẾ KỈ XX
3.1. Những đóng góp chung . 120
3.1.1. Xây dựng thành công nền tảng lí luận văn học hiện
đại đầu tiên ở Việt Nam . 120
3.1.2. Khơi nguồn sáng tạo, đưa văn học trở về phục vụ đời
sống nhân dân và thực tiễn cách mạng . 121
3.1.3. Kiến tạo cơ sở phương pháp khoahọc cho phê bình hiện đại . 123
3.1.4. Một nền phê bình giàu tínhvăn hóa, dân chủ và “nhiệt
tình trí tuệ” không ngừng tự vận động điều chỉnh . 124
3.2. Các nhà phê bình Mác-xít tiêu biểu nửa đầuthế kỉ XX . 125
3.2.1. Hải Triều (1908 - 1954) . 125
3.2.2. Đặng Thai Mai (1902 - 1984) . 131
3.3. Những hạn chế trong phê bình Mác-xít nửa đầuthế kỉ XX . 137
3.3.1. Đơn giản hoá phản ánh luận và nhận thức luận Mác-xít . 137
3.3.2. Hình thức nghệ thuật, giá trị thẩm mỹ và văn bản ngôn
từ tác phẩm chưa đượcquan tâm đúng mức . 139
3.3.3. Vấn đề vai trò của chủ thể sáng tạo còn bỏ ngỏ . 141
3.3.4. Tính thẩm mỹ trong ngôn ngữ phê bình còn hạn chế . 142
KẾT LUẬN . 144
TÀI LIỆU THAMKHẢO . 149
PHỤ LỤC . 159
148 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2647 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khuynh hướng phê bình Mác-Xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (1900 - 1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t” [166, tr.567].
“Nghệ thuật là phản ánh của một xã hội. Nó còn là con đẻ của sức sinh sản”
[45, tr.236].
Nhìn chung, luận điểm chính trong các bài viết khác cũng không có gì khác hơn
việc khẳng định và luận chứng cho quan điểm của Hải Triều. Cách nói “sức sinh
sản” – cái được phản ánh – của Trần Đình Long có thể hiểu là sức mạnh của qui
luật vận động tiến hoá trong thế giới khách quan. Hồ Xanh bổ sung một điểm mới:
văn học phải thoát li tinh thần luân lí – cũng nhằm mục đích nhấn mạnh khuynh
hướng văn học tả thực, gắn liền với dân sinh trên phương diện giải phóng văn học
khỏi qui phạm “văn sĩ tải đạo” của nền nghệ thuật phong kiến.
Mặt khác, theo quan điểm Mác-xít, tính xã hội trong mối quan hệ giữa nhà văn
và tác phẩm còn thể hiện ở mục đích và cứu cánh của văn học nghệ thuật như Hải
Triều đã xác định. Phê bình Mác-xít đề cao vai trò của tầng lớp văn nghệ sĩ cũng
như sứ mệnh cao quí của văn chương nghệ thuật nói chung nhưng tiêu chí của nó
không phải là tính độc đáo, tính sáng tạo của hình tượng thẩm mĩ hay văn phong bộc
lộ thiên tài của người sáng tạo mà chính là ở hiệu quả tác động đến người đọc tương
ứng với yêu cầu của thực tiễn xã hội và thời đại. Phê bình Mác-xít không coi hiệu
quả, vai trò xã hội của văn chương nghệ thuật là một “sự tình cờ” mà lấy nó
70
làm mục đích và thước đo giá trị tác phẩm. Từ khi ra đời, tác phẩm văn học có
một sự sống độc lập tương đối đối với nhà văn nhưng sự sống còn của nó hoàn toàn
thuộc về “quyền phán đoán” của xã hội thông qua vai trò của người đọc:
“Có khi tác giả viết cuốn sách vẫn không để ý đến cuốn sách mình đối với sự
thay đổi của xã hội về sau, nhưng đến khi cuốn sách ấy ra đời, công chúng hoan
nghênh, lại theo những tư tưởng trong sách. Như thế thì riêng phần tác giả đối với
sách cho là một sự tình cờ, nhưng sách đối với quần chúng và cái ảnh hưởng của nó
trong xã hội không phải là tình cờ được. Vì cuốn sách khi tiếp xúc với xã hội là
thuộc về quyền phán đoán suy diễn của xã hội, tác giả chỉ dự một phần thôi” [6,
tr.74].
Mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và xã hội cũng là một quan hệ biện chứng:
“Văn chương chịu ảnh hưởng của xã hội nhưng xã hội không phải là không thụ
ảnh hưởng của văn chương” [125, tr.482].
Chống lại khuynh hướng chú trọng vai trò thưởng thức của “văn chương chơi”,
Hải Triều cùng các đồng chí của ông chủ trương đưa văn học trở về cuộc sống và
trao nó tận tay người đọc với tư cách chủ thể tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật và
chủ nhân của một xã hội mới. Do vậy, văn học nghệ thuật cũng nhận lấy cho mình
một sứ mệnh vô cùng to lớn, nặng nề, đối với toàn thể nhân dân và mục tiêu tiến bộ
của lịch sử nhân loại. Cụ thể hơn, văn học thực hiện vai trò của nó đối với cuộc cách
mạng vô sản và công cuộc kiến thiết xã hội XHCN bằng cách giác ngộ nhận thức,
tư tưởng, tình cảm thôi thúc con người đi đến hành động cách mạng. Sức mạnh của
cái đẹp trong nghệ thuật văn chương trở thành phương tiện vũ khí:
“Văn học cố hết sức dùng cái mãnh lực của lời nói mỹ thuật để tham dự vào sự
kiến thiết XHCN, giúp ích cho phục hưng nhân loại” [128, tr.494].
Với mục tiêu là:
“Bao giờ người ta cũng căn cứ vào đa số, vào hạng người nào mà bị áp bức, bị
cực khổ nhất trong xã hội đó; người ta phải nhắm ngay vào tình cảm, nguyện vọng,
71
địa vị của họ mà thay đổi mục đích nghệ thuật hay tìm kiếm phương pháp gì khác để
nâng cao trình độ của họ lên. Vì thế mà phái nghệ thuật vị nhân sinh muốn dùng
nghệ thuật để phụng sự cho giai cấp hèn yếu, để giác ngộ họ, để khuyến khích họ,
làm cho họ có ý cương quyết hành động, mà chiến đấu với con ma áp bách, nghèo
nàn …” [116, tr.534].
Gánh vác trọng trách ấy trên vai, “nghệ thuật không còn là một thứ đồ chơi để
làm thỏa mãn cuồng vọng của bọn Tư sản, mà là một lực lượng để nâng cao trình độ
sinh hoạt của cả một giai cấp cần lao để kiến thiết XHCN” [95, tr.237]. Mà “phải là
một trợ lực để đưa nhân loại đến cõi đại đồng, phải là một yếu tố cho bước tiến hoá
xã hội” [97, tr.241].
Tóm lại, về mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - người đọc, Hải Triều và những
người đồng quan điểm với ông nhấn mạnh vai trò của yếu tố xã hội, yếu tố khách
thể trong quá trình phản ánh và vai trò của người đọc đối với quá trình sáng tác
và tiếp nhận. Xây dựng qui luật phản ánh nghệ thuật, nhóm Hải Triều có cái nhìn
tiến bộ hơn khuynh hướng hiện thực phê phán ở chỗ ông nhận ra qui luật vận động
của văn học, nguyên tắc phản ánh hiện thực trong sự phát triển và nội dung tình
cảm, tâm lí giai cấp của nhà văn trong phản ánh nghệ thuật. Phản ánh nghệ thuật
không phải là sự phản ánh siêu hình và máy móc. “Những ý kiến của Hải Triều nói
chung là chính xác, đã có những đóng góp quí báu vào việc đấu tranh để xây dựng
nền lí luận văn nghệ cách mạng” [18, tr.286] nhưng nó cũng không tránh khỏi
những hạn chế do điều kiện lịch sử - văn hóa - xã hội cụ thể lúc bấy giờ. Quan niệm
của ông về quá trình phản ánh nghệ thuật nói chung vẫn còn là sự phản ánh đơn
giản và trực tiếp, đồng nhất thế giới nghệ thuật – cái được phản ánh với thế giới
khách quan – cái phản ánh (những bài phê bình tác giả - tác phẩm của ông thể hiện
rõ điều này) mà chưa thấy được sự khúc xạ của nó bởi các yếu tố nghệ thuật và vai
trò của chủ thể sáng tạo. Đến Văn học khái luận, Đặng Thai Mai đã có một số bổ
sung cần thiết cho vấn đề này.
72
Theo nhà phê bình Đặng Thai Mai, yếu tố khách thể trong phản ánh nghệ thuật
không phải là hình ảnh trực tiếp hay một lát cắt siêu hình của hiện thực bởi sự chi
phối của ba qui luật cơ bản của một hình thái ý thức: luật biến thiên, luật đoàn kết
và luật kế thừa; nhưng quan trọng hơn nữa là sự chi phối của yếu tố tưởng tượng
trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Là một hình thái ý thức xã hội, văn học “có thể
trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến đời sống xã hội”; nhưng đồng thời văn học
cũng chịu tác động qua lại với các bộ môn văn hóa khác bởi chúng đều gây dựng
trên nền tảng sinh hoạt kinh tế của xã hội. Vì vậy, phạm vi phản ánh của văn học,
nằm trong mối quan hệ giao thoa sâu rộng với nhiều bộ phận khác thuộc kiến trúc
thượng tầng trong toàn bộ đời sống con người chứ không chỉ phản ánh cơ sở hạ tầng
kinh tế xã hội. Mặt khác, “trên tràng kì lịch sử, ngôn ngữ, văn tự, tâm duy, tư duy
của nhân loại không phải là những thực thể cố định vĩnh viễn không di dịch” mà
ngược lại, nó “luôn luôn biến hoá trong không gian và thời gian”. Vì vậy, “dưới qui
luật biến hoá văn học vẫn sẵn có một động tính rất nhạy” [14, tr.104]. Hơn nữa, “ghi
nhớ và lợi dụng kinh nghiệm các lớp người ngày trước là một năng lực quí hoá của
loài người”, do đó “Cũng như luật biến hoá, luật tiếp tục là một qui luật cơ bản của
sinh hoạt và của nghệ thuật” [14, tr.142]. Mỗi tác phẩm văn học kế thừa trong tinh
hoa của toàn bộ nền văn học quá khứ, cơ sở phát triển của ngôn ngữ, tư duy, truyền
thống tư tưởng - văn hóa v.v.. Xem xét văn học trong sự ảnh hưởng của ba qui luật
này, Đặng Thai Mai đã cho thấy cấu trúc phức hợp của thế giới nghệ thuật: cái
được phản ánh là sự tổng hoà các yếu tố thực tại trong hoàn cảnh xã hội lịch sử cụ
thể; tinh hoa của toàn bộ lịch sử quá khứ và mầm mống tương lai trong mối liên hệ
với các liên hệ khác thuộc kiến trúc thượng tầng. Điều đáng lưu ý là, thế giới nghệ
thuật không hoàn toàn là cái khách thể được phản ánh bởi nó còn là sản phẩm
của trí tưởng tượng. Tác giả phân biệt hai loại tưởng tượng: tưởng tượng tái tạo và
tưởng tượng sáng tạo và cho rằng chúng đều xuất phát từ hiện thực. Nhấn mạnh vai
trò của yếu tố tưởng tượng, tác giả đã cho thấy một khoảng cách nhất định giữa cái
73
phản ánh và cái được phản ánh và phần nào vai trò của chủ thể sáng tạo trong thế
giới nghệ thuật. Yếu tố tưởng tượng không chỉ giữ vai trò quan trọng trong khuynh
hướng văn học lãng mạn mà văn học hiện thực chủ nghĩa cũng không thể thiếu được
yếu tố này:
“Một điều chắc là muốn biểu hiện sự thực một cách linh động, cũng phải có đủ
sức tưởng tượng để tìm những hình tượng cụ thể” [14, tr.171].
“Biết quan sát thực tế, biết bồi dưỡng trí tưởng tượng thì nhà văn mới có thể
vận dụng ý tứ mình vào công cuộc khái quát nghệ thuật” [14, tr.172].
Việc đề cao vai trò của yếu tố tưởng tượng trong tác phẩm văn học nghệ thuật
của Văn học khái luận có một ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng mô hình
phản ánh luận nghệ thuật của phê bình Mác-xít Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Nó
thể hiện sự quan tâm hợp lí đến một trong những thành phần đặc trưng của nghệ
thuật và vai trò của chủ thể sáng tạo – đây cũng là một điểm yếu của phê bình
Mác-xít nói chung bên cạnh vấn đề về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Có thể hình dung một cách sơ lược mô hình phản ánh nghệ thuật của phê bình
Mác-xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX qua sơ đồ sau:
Nhà văn Tác phẩm Người đọc
Hoàn cảnh xã hội - lịch sử
+ Luật biến thiên
+ Luật đoàn kết
+ Luật tiếp tục
+ Giai cấp – Ý thức
hệ
+ Tài năng - phẩm
chất
+ Phương pháp sáng
tác
+ Nội dung được phản
ánh
+ Hình thức nghệ thuật
+ Tâm lí giai cấp của
nhà văn
+ Yếu tố tưởng tượng
+ Giai cấp – Ý thức hệ
+ Vốn văn hóa
+ Tiếp nhận, chịu ảnh
hưởng
+ Phán đoán giá trị tác
phẩm
74
2.1.3. Trách nhiệm của nhà văn, phương pháp sáng tác và tự do trong
nghệ thuật:
Chính vì vai trò vô cùng cao quí của văn học nghệ thuật đối với xã hội, phê
bình Mác-xít cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm của nhà văn và phương pháp sáng tác
theo tiêu chí giá trị của yếu tố trong khách thể tác phẩm. Đề cao yếu tố nhận thức,
tác dụng giác ngộ tư tưởng cách mạng của văn học, phê bình Mác-xít không chủ
trương nhà văn phải gò lưng, bó mình trong căn phòng hẹp để uốn chữ, gọt câu mà
ngược lại, phê bình Mác-xít yêu cầu nhà văn phải đặt mình vào trong cuộc sống
rộng lớn của đại đa số quần chúng nhân dân, hướng theo xu thế vận động của lịch sử
theo phương châm “sống đã … hãy viết văn”. Bởi vì chỉ có “sống” thật trong lòng
thời đại, sống bằng tất cả trái tim và khối óc vì đồng loại và cho đồng loại, nhà văn
mới có thể nghe được hết ý nguyện của nhân dân, nắm được qui luật lịch sử tiến
hoá, để từ đó có thể hoà tình cảm cá nhân mình vào tình cảm của cả cộng đồng và
tạo điều kiện cho thiên tính – tài năng cá nhân được rèn luyện và thăng hoa trong
tác phẩm. Có như thế nhà văn mới có thể thực hiện được sứ mạng to lớn của mình:
làm người “kĩ sư tâm hồn” của nhân dân và một “người thầy kinh nghiệm dẫn
đường” của thời đại. Trong Phê bình và Cảo luận (năm 1933), Thiếu Sơn cũng từng
ca ngợi công lao của một nhà văn tả thực biết “hi sinh vì chân lí, khổ công cho văn
học” khi dấn thân vào cuộc sống để “diễn tả được cái bản sắc” giúp cho người đọc
“biết người, biết mình, biết cái phần cao thượng của nhân loại mà cảm phục, biết
những chỗ yếu hèn của nhân loại mà xót thương, biết nhân những cảm giác đó mà
phát sinh ra những tư tưởng thâm trầm về cái nhân sinh triết học”. Nhưng so sánh
với cách nhìn của các nhà phê bình Mác-xít giai đoạn này, rõ ràng quan niệm của
Hải Triều và các đồng chí của ông có cái nhìn hợp lí và toàn diện hơn. Các nhà phê
bình Mác-xít đầu tiên ấy đã xây dựng những chuẩn mực cụ thể, lí tưởng của một nhà
văn tiến bộ - nhà văn bình dân - nhà văn của giai cấp vô sản bằng tất cả tâm huyết
đối với nền văn hóa nghệ thuật nước nhà. Nhà văn bình dân không chỉ có tài năng,
75
tâm huyết mà còn phải có vốn sống, vốn tri thức và hơn thế nữa, họ còn phải biết
xác định đúng đối tượng phụng sự của mình, mục đích của tác phẩm văn học và sử
dụng phương pháp sáng tác phù hợp. Nói cách khác, ngoài việc rèn luyện tri thức,
nhà văn còn phải tự xây dựng cho mình thế giới quan khoa học và tiến bộ theo lập
trường của chủ nghĩa Marx để nhận lấy trách nhiệm của mình đối với thời cuộc:
“Tình thế kinh tế xã hội ngày nay đã lâm vào trong thời kì khủng hoảng nguy
ngập… Các nhà văn phải góp sức vào công việc cứu chữa sự nguy cơ ấy của xã hội”
[116, tr.534].
Để đạt được mục tiêu cao cả ấy, “một nhà văn bình dân cần phải có tâm tính
con người, không có lòng vị kỉ. Phải hiểu thấu nỗi thống khổ của bình dân, đem tài
năng sẵn có của mình để biểu lộ sự tàn khốc của xã hội, sự thiệt thòi mà nhất là ao
ước của bình dân (…) bênh vực quyền lợi cho họ, phấn khởi tinh thần cho họ (…) phải
dắt họ đi cho đến cái đích cuối cùng của họ: chống lại những quan niệm và chủ
trương (…) có trở ngại cho bình dân trên bước đường của họ (…) phải làm cho họ
không một phút nào mà quên được cái sứ mệnh của họ trên con đường tiến hoá của
loài người” [120, tr.529].
Không chỉ là yêu cầu về phẩm chất, “nhà văn bình dân” còn phải rèn luyện
những năng lực đặc biệt:
“Nhà văn có đủ tâm, tài, học thức biết hoà hợp cái bản ngã của mình với bản
ngã của bao nhiêu người khác (…) biết xem đời bằng cặp mắt khách quan, biết giải
thích hiện tượng xã hội bằng duy vật biện chứng pháp” [158, tr.526].
Bàn về chuẩn mực của một nhà văn bình dân, phía nghệ thuật vị nghệ thuật
cũng có bài của tác giả Lê Tràng Kiều nhưng ý kiến của ông lại tạo ra những ý kiến
tranh luận từ phía các nhà phê bình Mác-xít:
“Nhà văn bình dân phải là người có thiên tài, phải là người có tâm tình hơn
người, phải có một sức sống cảm mãnh liệt, phải là người biết phát triển hết cái
76
phần sâu sắc, dồi dào, cao quí ở trong tâm linh giản dị của người bình dân, và ở
trong cái hoàn cảnh tựa hồ khô khan của người bình dân” [89, tr.531].
Lời dẫn này chứng tỏ quan niệm của tác giả Lê Tràng Kiều chủ yếu nhấn
mạnh vai trò chủ thể của nhà văn về phẩm chất, thiên tính, tài năng sáng tạo hơn là
điều kiện sống của nhà văn để phát huy những phẩm chất đó; ngoài ra, khi đề cập
đến đề tài người bình dân, tác giả cũng lưu ý vấn đề cái đẹp tâm linh có tính chất ổn
định của họ hơn là những vấn đề thiết thực và bức xúc của tầng lớp người bình dân
trong xã hội lúc bấy giờ. Phê bình Mác-xít phê phán cách nhìn này nhưng cũng
không vì thế mà phủ nhận vai trò của yếu tố tài năng, thiên tư của người nghệ sĩ.
Chỉ có điều là phê bình Mác-xít quan niệm đó là yếu tố khách quan, lịch sử, và nó
chỉ có thể phát huy trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định cùng với vai trò chủ
động rèn luyện, nâng cao của nhà văn trong khi dấn thân vào đời sống.
Ngoài vấn đề thế giới quan, phê bình Mác-xít còn nhấn mạnh vai trò của
phương pháp sáng tác. Các nhà phê bình Mác-xít ở Việt Nam giai đoạn này chủ
trương và đề cao phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa. Đây không phải là vấn
đề hoàn toàn mới mẻ. Trong Phê bình và Cảo luận, Thiếu Sơn cũng từng đề cập đến
phương pháp sáng tác tả thực này:
“Tả thực là đem những sự mắt thấy tai nghe cho vào văn chương sách vở”
“Nhà văn học tả thực thì chẳng chịu bỏ sót một cái gì mà không nói đến. Cả
những cái xưa nay người ta vẫn chê là tầm thường thô tục không được nói vào văn
học mà nay cũng thấy họ đem làm tài liệu cho vào văn chương”
Và ông cho rằng:
“Tệ là những nhà văn tả thực thường có ý muốn phô trương những cái xấu hơn
những cái tốt, đem bề trái của xã hội ra mà vẽ hơn là đem bề mặt của nó mà tả
diễn” [34, tr.100-101].
Rõ ràng, quan niệm về khuynh hướng tả thực chủ nghĩa của Thiếu Sơn là chủ
nghĩa hiện thực phê phán. So với Thiếu Sơn, quan niệm của Hải Triều cùng các
77
đồng chí của ông đã có bước tiến bộ hơn rõ rệt. Tả thực chủ nghĩa, theo ông, không
phải là sự sao chép trực tiếp hiện thực mà là phản ánh hiện thực ấy trong sự vận
động phát triển của nó, với mục tiêu cải tạo xã hội ấy. Như vậy khuynh hướng tả
thực mà nhóm Hải Triều đã quan niệm cũng chính là CNHT XHCN sau này. Trong
bài Văn học và chủ nghĩa duy vật, ông đã nói rõ hơn về đường lối văn học đó:
“Nền văn học cách mệnh là cốt nhìn vào sự thật, sự thật trong xã hội hiện tại,
họ phân tích, họ chỉ vạch tất cả những xấu xa, mục nát và sự bất bình của quần
chúng, cùng sự đấu tranh của dân chúng để đánh đổ chế độ ác liệt ấy đi, và xây
dựng lại một cái xã hội khác mà họ hằng mong mỏi cho “bình đẳng” hơn, cho “tự
do” hơn, cho “nhân đạo” hơn. Cái hình thức của văn chương cách mệnh cốt ở sự tả
thực là vì thế” [6, tr.96-97].
Vận dụng phương pháp này, Hải Triều viết bài phê bình tiểu thuyết Lầm than
của Lan Khai, chỉ ra những yếu tố tả thực, giá trị tố cáo sâu sắc của tác phẩm:
“Luôn luôn đứng trên chủ nghĩa tả thực, tác giả không quên chỉ vạch một cách
đau đớn mà sống sượng những tâm lí cộc cằn, những cách ăn nói thô tục, những
thành kiến hủ bại, cho đến những tập quán xấu xa như rượu, thuốc phiện, như cờ
bạc, là cái bướu nó bám víu theo giai cấp thợ thuyền trong chế độ bóc lột người.
Tuy vậy tác giả nên nhận thấy dưới những nét mặt cau có (…) vẫn ẩn nấp biết
bao nhiêu là tâm hồn trong sạch, biết bao nhiêu là tinh thần cương quyết về đoàn
thể và danh dự, biết bao nhiêu là cảm tình chan chứa đối với người đồng giai cấp,
đối với loài người.
… Giá trị tố cáo của tác phẩm Lan Khai là đã nhận thấy cái đặc điểm cao quí
ấy…” [6, tr.131].
Cũng đứng trên lập trường tư tưởng này, Trần Huy Liệu viết lời tựa cho quyển
tiểu thuyết:
“Các bạn đọc tập sách này… sẽ nhận thấy những tình cảnh, những phong tục
cho đến tâm lí của đám dân nghèo hèn mà tác giả đã mô tả rất đúng (…) sẽ không
78
tin vào số phận và sẽ tìm cách giải quyết số phận ở trong chỗ tìm ra nguyên nhân”.
[93, tr.256].
Như vậy, phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa nhấn mạnh yếu tố khách
thể xã hội trong tác phẩm nhưng cũng không vì thế mà phương pháp này mâu thuẫn
với chủ nghĩa nhân đạo và trở thành khuôn khổ máy móc hạn chế tự do và cảm
hứng của nhà văn trong sáng tác. Bản thân Hải Triều cũng nhiều lần khẳng định nhu
cầu tự do của nhà văn và phản bác việc gây dựng tác phẩm theo một khuôn khổ
nhất định, nhưng tác giả chưa lí giải đầy đủ về vấn đề này với những giới hạn và
mối quan hệ của nó:
“Tôi thiết tưởng bao giờ và ở đâu cũng thế, nên để cho nhà văn được tự do,
không nên buộc họ phải uốn nắn theo những khuôn khổ của mình… Nhà văn cần có
tự do thì mới sáng tạo ra được những công trình bất hủ” [6, tr.126].
“Mặc dù họ có gây dựng một tác phẩm đúng như cái khuôn khổ đã định, thì tác
phẩm ấy phần nhiều cũng có vẻ ngượng nghịu, cơ giới, không có gì sanh sắc” [6,
tr.131].
Tiếp lời Hải Triều về vấn đề tự do của nhà văn, còn có Hải Thanh, Văn Minh
và Trọng Minh. Hải Thanh không trực tiếp bày tỏ ý kiến tranh luận của mình mà
ông chỉ được ra lời phát biểu của bảy nhà văn vô sản Nga như một đối chứng thực tế
để khẳng định rằng, sáng tác theo nguyên tắc của chủ nghĩa Marx mới là tự do theo
đúng bản chất ý nghĩa của nó. Nhà văn tự do hoàn toàn không phải khi đứng trên
hết thảy mọi thực tế, mà ngược lại tự do ấy chỉ có được khi nhà văn sống trong thực
tế, hoà nhập vào đời sống để xoá nhoà được khoảng cách giữa cái Tôi và cái Ta như
lời V. Baknétiev:
“Cái xã hội mà nghệ sĩ sống, làm việc càng đầy đủ, sự liên lạc giữa nghệ sĩ và
sự sinh hoạt xã hội ấy càng mật thiết, thì nghệ sĩ hiểu biết cái thời đại của mình
càng thâm thúy, và có thể mới được hoàn toàn độc lập, hoàn toàn tự do ở trong nghề
trước thuật của mình”.
79
Tự do theo quan điểm Mác-xít, không có nghĩa là thoát li thực tại, bởi vì
“không có sự tự do gì mà không lệ thuộc với cái đời thực tại” (P. Gladkov). Tự do
bao giờ cũng gắn với tự do đeo đuổi mục đích nào đó và do đó, tự do sáng tạo nghệ
thuật trong CNXH là tự do đeo đuổi mục đích kiến thiết xã hội: “Tự do không phải
tự do sáng tạo nào cũng được mà phải hiểu là tự do sáng tạo trong những giới hạn
nhất định, trong khuôn khổ của nền lí luận giai cấp” [127, tr.491,492]. Đó cũng là
những thông điệp mà Hải Thanh gửi đến nhóm Hoài Thanh, trả lời cho yêu cầu tự
do nghệ thuật theo quan điểm đứng trên thực tại của họ.
Bài viết của Văn Minh (Nghệ thuật và tự do, năm 1939) sau đó tiếp tục bàn về
vấn đề tự do của người nghệ sĩ trên phương diện cảm hứng sáng tạo. Dẫn lời phát
biểu của Marx, tác giả lí giải tự do của người nghệ sĩ là sáng tạo theo cảm hứng của
mình; trong xã hội XHCN, khi đã giác ngộ được sự cần thiết của công cuộc kiến
thiết XHCN thì nó sẽ trở thành nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ: “Sự tự do
của nhà nghệ sĩ Liên bang Xô viết là lòng biểu đồng tình thành thực và nhiệt liệt
với cuộc kiến thiết XHCN đương thực hiện quanh mình” [107, tr.626]. Tác giả
Trọng Minh trong bài viết Phải tuyên bố một lần cuối cùng… nghệ thuật và tự do
(năm 1939) cũng tiếp tục khẳng định, bổ sung cho luận điểm này trên phương diện
mối quan hệ giữa quyền tự do sáng tác và quyền tự do công dân để kết thúc cuộc
tranh luận. Tác giả cho rằng biểu hiện của tự do là “hành động theo đúng bản chất
tự nhiên của mình” và “dùng văn chương ca tụng sự kiến thiết một xã hội trong đó
vô sản thoát khỏi xiềng xích bóc lột, chính là đã thực hiện cái quyền tự do của mình
đó” Như vậy, người nghệ sĩ, trong chế độ XHCN, sáng tác theo cảm hứng công
dân đồng nghĩa với việc thực hiện quyền tự do công dân của mình; không còn sự
phân biệt giữa cá nhân và cộng đồng, đó mới là tự do thực sự của người nghệ sĩ.
Tóm lại, trong khoảng thời gian chưa đầy một thập kỉ, Hải Triều cùng các đồng
chí của ông đã khai thác khá đầy đủ những vấn đề về vai trò, trách nhiệm của nhà
văn và phương pháp sáng tác của nền văn học cách mạng. Những nhà Mác-xít tiên
80
phong này đã lần lượt trình bày, phân tích các mối quan hệ giữa nhà văn với xã ho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN002.pdf