Trang bìa phụ
Lời cam đoan. i
Lời cảm ơn . ii
Mục lục . iii
Danh mục các từ viết tắt . iv
Danh mục các bảng. v
Danh mục biểu đồ. vi
MỞ ĐẦU . 1
1. Lí do chọn đề tài . 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề . 2
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu . 5
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu. 6
5. Đóng góp của đề tài . 8
6. Bố cục của luận văn. 8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN HẢI HẬU VÀ KINH TẾ, VĂN HÓA
TRƯỚC 1986 . 11
1.1. Khái quát về huyện Hải Hậu . 11
1.1.1. Vị trí địa lý. 11
1.1.2. Điều kiện tự nhiên. 11
1.2.3. Lịch sử hình thành . 16
1.2. Kinh tế - văn hóa huyện Hải Hậu trước 1986 . 19
1.2.1. Về kinh tế . 19
1.2.2. Về văn hóa. 29
Tiểu kết chương 1. 33
Chương 2. KINH TẾ NGƯ NGHIỆP CỦA NGƯ DÂN VEN BIỂN
HUYỆN HẢI HẬU TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2012. 34
2.1. Bối cảnh lịch sử . 34
111 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kinh tế ngư nghiệp và văn hóa của cư dân ven biển huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định từ năm 1986 đến năm 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuồng), đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, tôm cua bể, rong câu hoặc chế biến
40
nước mắm, cá khô, thức ăn chăn nuôi. Từ năm 1986 nghề cá phát triển tốt nhờ
chuyển từ lưới gai sang lưới ni lông, đồng thời chuyển dần phương tiện đánh
bắt bằng thủ công sang cơ giới, mở rộng được phạm vi hoạt động. Đồng thời
các HTX cũng mở rộng việc sửa chữa tàu thuyền phục vụ cho nghề cá. Từ khi
có cơ chế mới, nghề cá càng phát triển hơn, nhiều hộ còn sắm thuyền thu gom
hải sản đem xuất khẩu. Những năm này nguồn cá sẵn, nhiều mẻ rùng, mẻ lưới
kéo được hàng tạ, hàng tấn tôm he, tôm vàng.
Năm 1993, khai thác đánh bắt thuỷ hải sản ở xã Hải Triều đã vượt 12,5%
sản lượng cùng kì năm trước và vượt chỉ tiêu đại hội Đảng bộ lần thừ 17 xã đã
đề ra trước đó. Ở HTX Tân Hải (xã Hải Thịnh), chính quyền cùng với ngư dân
đầu tư 7 đôi tàu mới trị giá lên tới 1 tỉ đồng, phát triển thêm 30 mảng rùng và
hàng trăm xuồng lưới. HTX mua 2 đôi tàu đánh bắt cá xa bờ có công suất 200
mã lực, giá trị lên tới 1,5 tỉ đồng bằng vốn tự có. Bình quân sản lượng khai thác
hàng năm là 659 tấn (riêng HTX Tân Hải là 380 tấn), tổng giá trị 2,5 tỉ
đồng/năm, đạt 95% chỉ tiêu kế hoạch. HTX đã từng bước mở rộng diện tích
nuôi trồng thủy hải sản với gần 50 ha đầm hồ, hàng năm thu hoạch: 3,5 tấn cua,
3 tấn tôm, tổng giá trị trên 400 triệu đồng. Năm 1995 toàn xã Hải Triều có 5 đôi
rùng thưa và hàng trăm bè, mủng làm nghề đánh bắt cá thủ công. Thời kỳ này
nghề lộng, đạt sản lượng khá, hai năm 1994 - 1995 sản lượng đánh bắt đạt 1000
tấn. Bình quân thu nhập một lao động nghề cá đạt 3 - 3,5 triệu đồng/năm. Giá trị
tài sản có từ 2,5 - 2,8 tỉ đồng, trong đó 50% là vốn tự có của nhân dân. Nhờ đó
người dân có thu nhập khá hơn, nhiều hộ thu được hàng chục triệu đồng. Những
năm này, mỗi khi chiều về, ngoài bãi biển thường có hàng trăm chiếc thuyền,
mủng, mảng đậu san sát. Người đổ ra mua bán vận chuyển đông vui tấp nập.
Sự làm giàu từ khai thác và xuất khẩu hải sản đã thôi thúc việc tính toán làm ăn
vươn ra biển làm cho không khí của làng xóm cũng sôi động.
Thực hiện chủ trương của huyện, nhiều xã đã xây dựng đề án “phát triển
kinh tế biển”. Đồng thời, tiến hành điều tra, khảo sát, xây dựng quy hoạch, kế
41
hoạch, tập trung nguồn lực, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng. HTX tiến hành phổ
cập kĩ thuật cho ngư dân, cử đi đào tạo thợ máy có trình độ sửa chữa vừa và
nhỏ, tập trung vốn mua sắm các phương tiện phục vụ cho sản xuất.
Từ sau năm 1986, kinh tế ngư nghiệp ở Hải Hậu đã ngày càng có nhiều
đổi mới. Tình trạng khai thác đánh bắt cá và nuôi trồng thủy hải sản đang phát
triển theo chiều hướng ngày càng gia tăng, nhiều cơ sở sản xuất đã từng bước
tìm kiếm thị trường, định hướng sản xuất kinh doanh, xây dựng kế hoạch tiêu
thụ sản phẩm, huy động vốn.
Thực hiện theo chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, xóa bỏ
bao cấp, nhân dân Hải Hậu nói chung và nhân dân các xã ven biển đã phát huy
truyền thống tự lực tự cường, vượt khó khăn gian khổ, bám biển, bám đất, bám
làng cùng nhau phát triển sản xuất kinh tế địa phương. Trải qua 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới, năng suất lao động đã tăng dần lên, góp phần cải thiện
phần nào đời sống nhân dân vùng biển.
Bảng 2.1.Thống kê tình hình khai thác thủy sản
ở 6 xã ven biển năm 1996
STT Tên xã
Phương tiện
tàu ven bờ/ cái
Sản lượng/ tân
1 Hải Đông 10 170
2 Hải Lý 20 339
3 Hải Chính 20 339
4 Hải Triều 25 424
5 Hải Hòa 35 594
6 Thịnh Long 75 1730
[14,17,20,23,27]
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, như vậy những năm đầu của công
cuộc đổi mới theo đường lối CNH - HĐH đất nước, mặc dù còn nhiều khó
khăn, việc khai thác thủy sản mới chỉ là đánh bắt gần bờ chứ chưa có phương
42
tiện đánh bắt xa bờ, do thiếu vốn đầu tư, cơ sở vật chất còn nhiều lạc hậu,
nhưng nghề cá nhân dân đã đầu tư 30 tỷ đồng để đổi mới trang thiết bị thuyền
lưới, mở rộng ngư trường đánh bắt, đến năm 1996, riêng 6 xã ven biển đã có
180 tàu gắn máy với tổng công suất 10. 250 CV, tăng 341 % so với năm 1991.
Sản lượng đánh bắt bình quân hàng năm đạt trên 3000 tấn đã góp phần cải thiện
đời sống nhân dân, nâng cao thu nhập quốc dân trên địa bàn huyện. Tuy nhiên,
bên cạnh những chuyển biến tích cực, ngành khai thác thủy sản thời kì này vẫn
còn nhiều hạn chế do kinh tế hộ khai thác thủy sản, chủ yếu là các hộ ngư dân
nghèo, không có vốn để mua sắm phương tiện, ngư cụ lớn, nên chỉ làm các loại
nghề khai thác giản đơn. Các hộ này vốn ít, phương tiện là xuồng, mủng, mảng
gắn máy công suất nhỏ, cách đánh bắt chủ yếu là te, xúc, xiếc, ven bờ...Mỗi
phương tiện có từ một đến ba lao động trong gia đình, năng suất hiệu quả thấp.
Thời kì từ 1997 - 2012:
Đây là thời kì bắt đầu thực hiện đường lối CNH - HĐH đất nước. Đảng
và Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách quan tâm đầu tư phát triển kinh tế
ở các địa phương theo tinh thần của ĐH Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996),
ĐH đại biểu Đảng bộ huyện Hải Hậu lần thứ XXII đã xác định phương hướng
mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1996 - 2000) là: “. Xây dựng
cơ cấu kinh tế: Nông - công nghiệp - dịch vụ, đưa nhanh kinh tế biển, dịch vụ
và du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo sự biến đổi căn bản về cơ cấu
kinh tế trên địa bàn huyện với tốc độ tăng trưởng nhanh, để từng bước thực
hiện CNH - HĐH, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng
cường công tác quốc phòng an ninh...” [77, tr 125 ]
Chính quyền địa phương và nhân dân vùng ven biển Huyện Hải Hậu dưới
sự chỉ đạo của Đảng bộ các cấp đã nhanh chóng triển khai kế hoạch, biến
“quyết tâm thành hành động”, ra sứa lao động sản xuất, góp phần xóa đói giảm
nghèo và đưa đất nước tiến lên con đường công nghiệp hóa. Ở thời kì này, sản
lượng khai thác thủy sản của các xã ven biển Hải Hậu tăng nhanh so với các
huyện ven biển khác của tỉnh Nam Định.
43
Bảng 2.2: Sản lượng khai thác cá biển phân theo địa phương(1997 - 2000)
Đơn vị tính: tấn
Năm
Đơn vị
1997 1998 1999 2000
Quốc doanh
Giao Thủy
Nghĩa Hưng
Hải Hậu
250
1.800
2.688
4.150
700
1.464
3.700
6.203
800
2.300
4.500
9.090
850
3.508
4.783
10.298
Tổng số 8.888 12. 067 16.740 19.439
[77, tr. 24]
Theo dõi bảng thống kê về tình hình khai thác thủy sản trên của tỉnh
Nam Định, ta có thể thấy huyện Hải Hậu là đơn vị có sản lượng khai thác thủy
sản cao nhất của cả tỉnh là 10. 298 tấn, chiếm 52,9% sản lượng của cả tỉnh.
Biểu đồ 2.1. Sản lượng khai thác thủy sản phân theo địa phương
từ 1997 - 2000 (đơn vị : tấn)
Căn cứ vào biểu đồ minh họa, nếu so sánh tỉ lệ sản lượng khai thác thủy
sản giữa các huyện ven biển của tỉnh Nam Định là Nghĩa Hưng, Giao Thủy,
44
Hải Hậu với Nhà nước thì sản lượng khai thác thủy sản của huyện Hải Hậu
luôn đạt tỉ lệ % cao nhất , chiếm tỉ lệ trên, dưới 50% trong tổng số sản lượng
chung của các đơn vị trên.
Trong những năm 1996 - 2000, nghề đánh cá biển có thuận lợi mới, nhất
là việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nhà nước Việt Nam và
Trung Quốc, ngày 25/12/2000 Việt Nam và Trung Quốc đã chính thức kí Hiệp
định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ, đã mở ra khả năng mới cho ngành
thủy sản.
Quán triệt thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ IX (năm 2001) với mục tiêu: “Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km2 thềm lục địa.
Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế biển. Đẩy mạnh công tác nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm
dò, khai thác và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển;
mở mang du lịch;bảo vệ môi trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển.
Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực
cửa biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác ”
Đảng bộ huyện đã ra nghị quyết lần thứ 23 về chương trình phát triển
thủy sản của huyện thời kì 2001 - 2005. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện,
xã, thị trấn và chính quyền địa phương, nhân dân 6 xã ven biển của huyện Hải
Hậu quyết tâm thực hiện mục tiêu theo kế hoạch mà Đảng bộ huyện đã đề ra.
Trải qua 5 năm thực hiện,tình hình khai thác thủy sản của nhân dân các
xã ven biển huyện Hải Hậu có nhiều chuyển biến tích cực. Vai trò của ngành
kinh tế biển được nâng cao, nhất là từ khi UBND huyện ban hành đề án số 85 -
ĐA/UB, ngày 04 - 4 - 2001 về: đẩy mạnh khai thác nuôi trồng thuỷ hải sản.
Điểm nhấn ở đây là chú trọng phát triển nghề cá, xây dựng mô hình quản lý sản
xuất mang tính tập thể, duy trì đánh bắt hải sản bãi ngang, tìm tòi mở rộng ngư
trường khai thác. Đồng thời huy động mọi nguồn vốn nhân dân cùng với nguồn
vay vốn nhà nước để đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và phát triển nghề mới.
Ngoài ra các ngư dân còn đánh bắt sứa xuất khẩu sang Trung Quốc, cơ
bản giải quyết đủ việc làm, tăng thu nhập cho toàn xã. Riêng thị trấn Thịnh
45
Long mỗi năm đánh bắt được hàng nghìn tấn sứa. Đặc biệt năm 2005 thu nhập
từ sứa biển đạt gần 12,4 tỉ đồng. Năm 2002, tổng sản lượng khai thác cá biển
đạt 95,8% kế hoạch năm. Năm 2003 tổng sản lượng khai thác cá đạt 12.200 tấn,
bằng 101,7 % kế hoạch năm. Năm 2004 bằng năm sản lượng 2003. Năm 2005
đạt 14.300 tấn. Bình quân 5 năm là 12. 060 tấn/ năm, tăng 91,2 % so với nhiệm
kì trước, sản phẩm xuất khẩu tăng 28%. Bình quân thu nhập một lao động từ
7,5 đến 9 triệu đồng/năm. Năm 2006 là năm quán triệt thực hiện theo tinh thần
chỉ đạo của văn kiện ĐH Đảng toàn quốc lần thứ X: “Phát triển kinh tế ven
biển, biển và hải đảo theo định hướng Chiến lược biển đến năm 2020. Xây
dựng hợp lý hệ thống cảng biển, các khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị ven
biển gắn với phát triển công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, khai thác, chế biến
dầu khí, vận tải biển, du lịch biển. Phát triển mạnh kinh tế đảo, khai thác hải
sản xa bờ gắn với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền vùng biển
quốc gia. Đẩy mạnh việc điều tra cơ bản đối với một số loại tài nguyên biển
quan trọng”[97, tr.1249], nhân dân Hải Hậu được Đảng bộ các cấp và chính
quyền địa phương đã triển khai kế hoạch đẩy mạnh khai thác thủy sản địa
phương, nhằm thực hiện tốt chủ trương kế hoạch mà Đảng bộ cấp trên đã đề ra.
Bảng 2.3: Thống kê tình hình khai thác thủy sản
ở 6 xã ven biển năm 2006
Phương tiện
tàu đánh bắt/ cái STT Tên xã
Ven bờ Xa bờ
Sản lượng: tấn
1 Hải Đông 35 5 903
2 Hải Lý 105 8 2823
3 Hải Chính 50 10 1749
4 Hải Triều 135 12 3817
5 Hải Hòa 75 15 1551
6 Thịnh Long 130 20 3153
[77, tr. 36]
46
Nhìn vào bảng số liệu của nguồn phòng thủy sản cung cấp ta thấy, sau 10
năm thực hiện CNH - HĐH, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự quan
tâm chỉ đạo của Đảng bộ huyện, xã, nhân dân các xã ven biển đã phát huy tinh
thần tự lực tự cường, vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm thực hiện nhiệm
vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, ra sức thi đua lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động, vừa góp phần ổn định đời sống nhân dân, vừa tăng cao thu
nhập quốc dân và tăng cường bảo vệ an ninh chủ quyền biển đảo. Ở thời kì này,
do được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng bộ các cấp và thực hiện theo chủ trương
“Nhà nước và nhân dân cùng làm”, các tổ chức và cá nhân đã vay vốn của nhà
nước để sửa chữa các tàu đã cũ, đóng mới nhiều tàu đánh bắt xa bờ. Từ năm
1997 đến năm 2000, trong khoảng thời gian này do có sự quan tâm đầu tư vốn
của nhà nước cho ngành đánh bắt thủy sản xa bờ với số tiền lên tới 856 tỷ đồng
Tính đến 2006, trên địa bàn 6 xã ven biển huyện Hải Hậu đã có 70 tàu đánh bắt
xa bờ, làm cho năng suất sản lượng khai thác thủy sản tăng cao. So với các
huyện Nghĩa Hưng, Giao Thủy, sản lượng khai thác cá biển của Hải Hậu đạt
mức cao nhất, chiếm 52,9 % của cả tỉnh. Nhờ tích cực áp dụng các tiến bộ khoa
học kĩ thuật, về phương tiện khai thác như tàu đánh bắt xa bờ, lưới rê..., việc áp
dụng khoa học kĩ thuật đã tăng năng suất khai thác
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
Hải Đông Hải Lý Hải Chính Hải Triều Hải Hòa Thịnh Long
1996
2006
(Tấn)
Biểu đồ 2.2. Sản lượng khai thác thủy sản của 2 thời kì 1996 và 2006 (tấn)
47
So sánh sản lượng khai thác thủy sản của 2 thời kì 1996 và 2006 ta thấy sự
tăng trưởng nhanh chóng của ngành khai thác thủy sản ở vùng ven biển huyện
Hải Hậu nhờ chủ trương đường lối CNH - HĐH về kinh tế đất nước mà Đảng đã
đề ra. Tình hình khai thác thủy sản tăng vọt ở tất cả các xã vùng ven biển mà
tăng cao nhất là ở xã Hải Triều, Hải Lý, thị trấn Thịnh Long do chính quyền địa
phương nơi đây đã quan tâm khuyến khích nhân dân đầu tư vốn vào việc đóng
tàu đánh bắt xa bờ . Tuy nhiên việc khai thác đánh bắt gần bờ vẫn còn chiếm tiền
lệ khá lớn, có nguy cơ làm suy giảm nguồn lợi ven bờ và gây cạn kiệt nguồn tài
nguyên. Do vậy nó đòi hỏi Đảng bộ huyện và Đảng bộ các xã, thị trấn ven biển
phải có giải pháp đối phó, tăng số lượng tàu đánh bắt xa bờ hơn nữa và giảm số
lượng tàu đánh bắt ven bờ.
Năm 2011, ĐH Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra mục tiêu phát triển
kinh tế theo hướng hiện đại, trong đó đưa ra mục tiêu chiến lược cho ngành
thủy sản giai đoạn 2011 - 2020 như sau: “Khai thác bền vững, có hiệu quả
nguồn lợi thủy sản, phát triển đánh bắt xa bờ, gắn với bảo đảm quốc phòng, an
ninh và bảo vệ môi trường biển. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo quy hoạch,
tập trung vào những sản phẩm có thế mạnh, có giá trị cao; xây dựng đồng bộ
kết cấu hạ tầng vùng nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào
sản xuất và chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp
ứng yêu cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm. Xây dựng ngành thuỷ sản Việt Nam đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực.” [97, tr. 1293]
Dưới ánh sáng của nghị quyết ĐH Đảng toàn quốc, Đảng bộ huyện Hải
Hậu đã triển khai kế hoạch khai thác và nuôi trồng thủy sản trong giai đoạn mới
2011 - 2020 theo tinh thần chỉ đạo của TW Đảng. Chỉ sau một năm, kết quả của
ngành khai thác thủy sản đã có những chuyển biến đáng kể.
48
Bảng 2.4: Thống kê tình hình khai thác thủy sản ở 6 xã ven biển năm 2012
Phương tiện tàu đánh bắt/ cái
STT Tên xã
Ven bờ Xa bờ
Sản lượng/
tân
1 Hải Đông 65 15 1203
2 Hải Lý 130 26 3223
3 Hải Chính 70 18 2149
4 Hải Triều 165 20 4117
5 Hải Hòa 95 19 2051
6 Thịnh Long 150 23 3653
[77, tr.42]
Căn cứ vào bảng số liệu trên ta thấy: So với năm 2006, sản lượng khai
thác thủy sản 2012 của cư dân ven biển đã có sự phát triển cao hơn, trong đó
chiếm số lượng cao nhất là xã Hải Triều và thị trấn Thịnh Long.
Đến năm 2012 toàn huyện có 796 tàu khai thác thủy sản, trong đó có 675
phương tiện tàu khai thác ven bờ 121 tàu khai thác xa bờ (tăng 41 tàu xa bờ so
với năm 2006). Việc tăng số lượng tàu đánh bắt xa bờ đã làm tăng thu nhập của
nhân dân vùng biển, nó khuyến khích cho các chủ tàu nâng cấp hoặc đóng mới
để có thể phục vụ cho việc khai thác dài ngày trên biển, đem lại hiệu quả kinh
tế cao hơn.
Biểu đồ 2.3. Sự gia tăng sản lượng khai thác thủy sản
ở các xã ven biển năm 2006 và năm 2012 (tấn)
49
Đến năm 2012 toàn huyện có 796 tàu khai thác thủy sản, trong đó có 675
phương tiện tàu khai thác ven bờ 121 tàu khai thác xa bờ (tăng 41 tàu xa bờ so
với năm 2006). Việc tăng số lượng tàu đánh bắt xa bờ đã làm tăng thu nhập của
nhân dân vùng biển, nó khuyến khích cho các chủ tàu nâng cấp hoặc đóng mới
để có thể phục vụ cho việc khai thác dài ngày trên biển, đem lại hiệu quả kinh
tế cao hơn. Tuy nhiên để đầu tư đóng mới một con tàu xa bờ đòi hỏi kinh phi
rất lớn (ít nhất là 3 tỷ đồng 1 con tàu, có con tàu lớn phải cần hơn chục tỷ đồng)
nên số lượng tàu đánh bắt xa bờ có tăng nhưng còn rất chậm chưa đáp ứng
được tiềm năng kinh tế biển. Tàu khai thác ven bờ có tăng nhưng bị khống chế
do chủ trương của Đảng bộ huyện trong việc hạn chế khai thác nguồn lợi ven
bờ nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mặc dù sản lượng khai thác
thủy sản tăng lên, nhưng khâu tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là phục vụ các tỉnh
xa gần nơi đánh bắt với giá rẻ chứ không phải là mang về tỉnh, huyện do
phương tiện dịch vụ, bảo quản còn hạn chế. Trên địa bàn huyện Hải Hậu lại
chưa có nhiều nhà máy chế biến lớn có thể tiêu thụ hết sản phẩm thu được. Vấn
đề đặt ra cho các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương hiện
nay là làm thế nào vừa thúc đấy việc đánh bắt xa bờ để vừa nâng cao sản lượng
khai thác, giá trị thu nhập và tăng cường giữ vững an ninh chủ quyền biển đảo,
vừa thúc đẩy được các ngành công nghiệp chế biến, và dịch vụ...
2.3.2 Nuôi trồng thủy sản
Nghề nuôi trông thủy sản trên thế giới đã xuất hiện rất sớm, khoảng 3000
năm trước, sớm nhất từ Trung Quốc. Sau đó lan dần sang các nước khác như
Nga, Nhật. Đầu thế kỉ XX nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh trên toàn thế
giới, đặc biệt như ở các nước Đức, Canađa, Mĩ, Nhật Bản, Đan Mạch, Na Uy...
Ở Việt Nam, nghề thủy sản cũng phát triển tương đối sớm, có lịch sử
khoảng hàng trăm năm nay, bởi nước ta có chiều dài bờ biển lớn, nhiều sông,
suối, đầm, hồ...
50
Huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định có chiều dài 32 km bờ biển, có nguồn
nhân lực dồi dào, và nhiều điều kiện cần thiết để phát triển ngành nuôi trồng
thủy sản. Căn cứ vào tình hình thực tế ngành nuôi trồng thủy sản ở vùng ven
biển Hải Hậu hiện nay, tác giả thấy có những mặt thuận lợi đó là: Chính quyền
địa phương quan tâm đúng mức, chỉ đạo sát sao, tạo điều kiện tốt nhất cho ngư
dân, góp phần thúc đẩy phong trào sản xuất, NTTS phát triển nhanh và đạt hiệu
quả cao
Người dân Hải Hậu vốn có truyền thống cần cù nhẫn nại, “một nắng hai
sương” chống trọi với thiên nhiên khắc nghiệt nên không quản ngại khó khăn
gian khổ. Nhưng bên cạnh những mặt thuận lợi đó lại có nhiều khó khăn như:
Điều kiện kinh tế của người nuôi còn khó khăn nên mức đầu tư vốn vào NTTS
còn hạn chế. Lao động còn ở trình độ thấp gây cản trở cho quá trình CNH-
HĐH ngành sản xuất NTTS. Cán bộ chuyên ngành thủy sản còn thiếu, mỗi xã
chỉ có 1 cán bộ kiêm nhiệm, thiếu sự quản lí chặt chẽ, do đó hoạt động NTTS
của các địa phương diễn ra tràn lan không tuân theo kế hoạch.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó Đảng ủy - UBND huyện và xã, cùng
chính quyền địa phương nơi đây đã đề ra phương hướng và mục tiêu phát triển
của ngành cụ thể theo từng năm thông qua các báo cáo về tình hình kinh tế, văn
hóa huyện,cụ thể là:
Phương hướng
Phát triển NTTS trên cơ sở phát huy các tiềm năng, điều kiện tự nhiên,
nguồn lao động dồi dào với truyền thống cần cù, năng động sáng tạo của nông -
ngư dân phối hợp với xu thế, nhu cầu của thị trường tiêu thụ trong huyện, Tỉnh,
toàn quốc và thế giới. Phát triển NTTS nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn các vùng ven biển góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết công
ăn việc làm, đồng thời nâng cao thu nhập mức sống của cộng đồng dân cư sống
bằng nghề thủy sản. Phát triển NTTS với việc hình thành các vùng nuôi tập
51
trung được đầu tư thỏa đáng cả nước ngọt, mặn, nợ. Áp dụng công nghệ kĩ
thuật tiên tiến theo hình thức bán công nghiệp và công nghiệp đa dạng đối
tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa bảo đảm tính
ổn định, lâu dài, bền vững. NTTS phải đi từng bước có quy hoạch, sự đầu tư
đồng bộ, có sự quản lí, chỉ đạo tập trung, không phát triển nuôi công nghiệp
một cách ồ ạt dễ dẫn tới rủi ro làm sản xuất không hiệu quả và không bền vững.
Có các chính sách và biện pháp khuyến khích những vùng chuyển đổi từ
đất trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản. Chính sách
thuê, đấu thầu, quyền sử dụng đất, hỗ trợ vốn.
Các mục tiêu
Đảm bảo nhu cầu thực phẩm thủy sản cho nhân dân trong huyện và cho
khách du lịch tại khu du lịch Thịnh Long. Phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trên thị
trường ở các địa bàn lân cận trong và ngoài tỉnh Nam Định. Nâng cao thu nhập
của nhân dân, đảm bảo ổn định cuộc sống của nhân dân
Quán triệt theo tinh thần chỉ đạo của Đảng, đồng thời căn cứ vào điều
kiện của địa phương, Đảng bộ huyện Hải Hậu đã có những chính sách nhằm
đẩy mạnh kinh tế ngư nghiệp theo hướng hiện đại.
Về diện tích nuôi trồng
Thực hiện theo chương trình nuôi trồng thủy sản thời kì 1999 - 2010 theo
quyết định số 24/1999/QĐ - TTg ngày 8/12/1999 của thủ tướng chinh phủ cùng
nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ 16, nghị quyết đại hội Đảng
bộ huyện Hải Hậu lần thứ 23 về phát triển thủy sản, đề án phát triển kinh tế của
UBND huyện Hải Hậu. Năm 1999 phong trào NTTS phát triển mạnh mẽ trên
toàn huyện, đặc biệt là 6 xã vùng ven biển. Hầu hết diện tịch hoang hóa, diện
tích bãi triều ven biển đã được cải tạo thành đầm nuôi.
52
Chính quyền nhân dân vùng ven biển nhận thức được tầm quan trọng của
NTTS nên năm 2004 đã có 1 phần lớn diện tích trồng lúa và làm muối kém
hiệu quả được chuyển sang NTTS.
Bảng 2.5: Diễn biến diện tích NTTS của 6 xã ven biển huyện Hải Hậu
(Đơn vị: ha)
Năm
Địa phương
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Hải Đông 23,2 26,6 31,0 34,4 36,4 59,3 64 67
Hải Lý 8,2 8,6 9,3 9,7 10 20 20 30
Hải Chính 32 36 38,5 42 45,5 52 53,5 55
Hải Triều 42 45,5 48,7 49 50 62,5 65 67
Hải Hòa 46 49,5 52,5 55 57,4 64,7 70,3 74
TT Thịnh Long 17,3 18,5 19 19,8 20,6 46,6 72 42
[77,tr 46]
Đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO (2007), thị trường trong
nước và quốc tế ngày càng mở rộng, hàng thủy sản có nhu cầu xuất khẩu cao,
việc NTTS lại được các cấp chính quyền quan tâm chỉ đạo phát triển
mạnh.Diện tích nuôi trồng thủy sản lại không ngừng được mở rộng hơn với sự
đa dạng của các con giống: tôm he, tôm càng xanh,tôm sú, cá vược,cá diêu
hồng, cá lóc bông, cua biển...Sau khi thị trường được mở rộng, nhu cầu tiêu thụ
thủy sản tăng cao, giá trị của nguồn thủy sản mang lại hiệu quả cao hơn nhiều
so với trồng lúa và làm muối, nhân dân 6 xã ven biển thực hiện theo chủ trương
của Đảng bộ huyện, xã đã cải tạo đất đai, mở rộng hơn nữa diện tích nuôi trồng.
Do vậy suốt từ 2007- 2012 diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục tăng ở 6 xã
ven biển.
53
Bảng 2.6: Diễn biến diện tích NTTS của 6 xã ven biển huyện Hải Hậu
(Đơn vị :ha)
Năm
Địa phương
2007 2008 2009 2010 2011 2012
Hải Đông 79 88 98 109 122 135
Hải Lý 74 82 91 101 112 125
Hải Chính 56 62 69 77 86 95
Hải Triều 70 71 73 81 90 100
Hải Hòa 114 127 141 157 175 194
TT Thịnh Long 66 73 82 91 102 112
[14],17], [20], [23], [27]
Biểu đồ 2.4. Diễn biến diện tích NTTS của 6 xã ven biển huyện Hải Hậu
qua các năm (1999 - 2012)
54
Từ 2 bảng số liệu trên ta có thể thấy được diễn biến về diện tích nuôi
trồng thủy sản ở vùng ven biển huyện Hải Hậu qua các năm. Đặc biệt căn cứ
vào biểu đồ minh họa, ta có thể nhìn thấy dễ dàng diễn biến diện tích nuôi trồng
của từng xã, thị trấn vùng ven biển. Mặc dù có giai đoạn thăng trầm, có lúc lên,
xuống do những lí do khác nhau nhưng nhìn chung những năm từ 2009 trở lại
đây, diện tích nuôi trồng thủy sản vùng ven biển Hải Hậu tương đối ổn định
theo chiều hướng ngày càng gia tăng do những chủ trương chính sách quan tâm
động viên, hỗ trợ của Đảng bộ các cấp và chính quyền địa phương cùng sự
nhận thức đúng đắn của người dân vùng ven biển.
Bên cạnh việc mở rộng diện tích nuôi trồng, công tác chọn giống cũng là
yếu tố quan trọng.
Giống nuôi trồng
Trên cơ sở nghiên cứu về nguồn nước, khí hậu, địa bàn,nguồn giống
cung cấp, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của nhân dân, ngư dân ven biển đã rất chú
ý đến việc lựa chọn các con giống nuôi trồng cho phù hợp và đem lại hiệu quả
kinh tế cao hơn. Trung bình mỗi năm trên địa bàn 6 xã ven biển từ 2006 đến
2012 đã thả 180 triệu con con giống, gồm khoảng: Tôm Sú 15 triệu con; tôm
He chân trắng 90 triệu con; cua biển 3 triệu con; cá Lóc bông 35 vạn con; cá
Diêu Hồng 130 vạn con; ếch Thái Lan 30 vạn con; các loại khác trên 70 triệu
con trong đó chủ yếu là số lượng giống tôm. Tuy nhiên nguồn cung cấp giống
này trên địa bàn huyện còn kém phát triển, chủ yếu phải lấy cung cấp từ các
tỉnh phía Nam như Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang...chuyển ra nên giá cả còn
đắt, phụ thuộc vào nơi cung cấp.
Hiệu quả kinh tế
Trước đây do kinh nghiệm nuôi trồng thủy sản của nhân dân còn kém,
diện tích nuôi trồng còn hạn hẹp, vốn đầu tư ít nên thu nhập cũng còn thấp. Tuy
nhiên, từ sau đổi mới, đặc biệt sau khi thực hiện CNH - HĐH đất nước, nghề
nuôi trồng thủy sản được đẩy mạnh, thu nhập của ngư dân tăng lên, hiệu quả sử
55
dụng diện tích, lao động, tiền vốn đầu tư đều tăng, giá trị ngành thủy sản của
địa phương được nâng cao.
Bảng 2.7: Giá trị NTTS của các xã ven biển năm 2006
(Đơn vị: tỉ đồng)
Địa
phương
Hải
Đông
Hải Lý
Hải
Chính
Hải
Triều
Hải
Hòa
TT Thịnh
Long
Tổng
Giá trị 6 7 11,5 12,5 17 9,5 63,5
Tỉ lệ
(%)
9,5 11,0 18,2 19,6 26,8 14,9 100
[16], [19], [22], [29],[32],[37]
Bảng 2.8: Giá trị NTTS của các xã ven biển năm 2012
(Đơn vị: tỉ đồng)
Địa
phương
Hải
Đông
H
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_kinh_te_ngu_nghiep_va_van_hoa_cua_cu_dan_ven_bien_h.pdf