Luận văn Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường

MỤC LỤC

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài .1

2. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu .2

3. Lịch sử vấn đề .3

4. Đóng góp của luận văn .6

5. Phương pháp nghiên cứu .7

6. Kết cấu của luận văn . . 7

Chương 1: Hoàng Phủ Ngọc Tường và ký Việt Nam hiện đại

1.1 Hoàng Phủ Ngọc Tường - con người và sự nghiệp . .8

1.2 Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tiến trình ký của văn học Việt Nam hiện

đại . 13

1.2.1 Khái quát về thể “ký” . 13

1.2.2 Đặc điểm kýHoàng Phủ Ngọc Tường . 17

1.2.3 Vị trí ký Hoàng PhủNgọc Tường trong tiến trình ký của văn học Việt

Nam hiện đại . 24

Chương 2: Cảm hứng chủ đạo của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường

2.1 Cảm hứng thiên nhiên . 32

2.1.1 Một thiên nhiên tươi đẹp với nhiều dáng vẻ phong phú khác nhau . 33

2.1.2 Một thiên nhiên đầy khắc nghiệt, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh

con người . 42

2.2 Cảm hứng văn hoá - lịch sử . 45

2.2.1 Luôn hướng đến chiều sâu vănhóa . 46

2.2.2 Những khám phá mớivề lịch sử . 55

2.3 Cảm hứng trữ tình công dân . 60

2.3.1 Ca ngợi con người Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm 60

2.3.2 Ca ngợi con người Việt Nam trong công cuộc xâydựng, phát triển đất

nước . 64

2.3.3 Ca ngợi sự lựa chọn thái độ sống đúng đắn của người trí thức Việt

Nam

trước những bước ngoặc của lịch sử . . 67

2.4 Cảm hứng phê phán và cảm hứng thời sự . 71

2.4.1 Phê phán tội ác diệt chủng và diệt môi trường sống của kẻ thù xâm

lược . 71

2.4.2 Trăn trở với những vấn đề thời sự nóng hổi đáng báo động . 75

Chương 3: Phương thức biểu hiện của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường

3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật . 81

3.1.1 Sự tự biểu hiện củacái Tôi trữ tình . 81

3.1.2 Thế giới nhân vậtphong phú, sinh động . 86

3.2 Nghệ thuật xây dựngkết cấu . 90

3.2.1 Kết cấu “phi cốttruyện” . 90

3.2.2 Kết cấu theo trường liên tưởng . 96

3.3 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu . 101

3.3.1 Ngôn ngữ . 101

3.3.2 Giọng điệu . . 113

3.4 Cách ứng xửnghệ thuật đối với từng tiểu loại . 118

3.4.1 Với bút ký . 118

3.4.2 Với tùy bút . . 121

3.4.3 Sự xâm nhập giữa hai thể loại . 124

KẾT LUẬN.127

TÀI LIỆU THAM KHẢO.131

PHỤ LỤC.139

pdf171 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2355 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên trong mỗi người. Đó là với tấm lòng nhân hậu, bao dung truyền thống vốn có từ lâu đời, họ sẵn sàng từ bỏ mọi thù hằn cũ để cùng hướng đến chính sách hòa hợp dân tộc trên bước đường đổi mới, phát triển đất nước. Trong “Miếng trầu đỏ”, chị Cầm, tuy không thể nào quên được cái chết đau đớn, thảm khốc của anh Tùng, chồng chị nhưng chị vẫn sẵn sàng bỏ qua mọi chuyện cũ, đối xử thân thiện “vấn thuốc hút, vê một điếu bỏ vào tay người đánh xe” Trịnh Phò - kẻ mang món nợ máu đối với gia đình chị mười mấy năm chưa trả. Còn ông Hoài, người cựu chiến binh Việt Nam năm xưa đã bắt tay làm bạn với John - cũng là một cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam trong “cuộc tái ngộ của những kỳ phùng địch 77 thủ vốn từng chơi nhau tới số trong cuộc chiến” (Người Mỹ trở lại). Hơn thế nữa, với ý thức về vấn đề dùng người rất nhân văn “vứt bỏ một con người thì dễ, giúp người ấy sống cuộc đời thật của mình mới khó” mà HPNT trong tác phẩm “Còn mãi đến bây giờ” đã đánh động được tâm hồn cô Thoa, làm dịu đi cái ác cảm đối với cách mạng trong người đàn bà này bằng bài học dùng nhân nghĩa đối với kẻ thất thế của Nguyễn Huệ ngày xưa. Thế mới biết tấm lòng nhân ái, vị tha, luôn sống theo đạo lý “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại” luôn hiện diện trong mỗi con người Việt Nam từ xưa đến nay. 2.3.3 Ca ngợi sự lựa chọn thái độ sống đúng đắn của người trí thức Việt Nam trước những bước ngoặt của lịch sử Từ trước đến nay, tầng lớp trí thức vốn rất được coi trọng trong mọi chế độ xã hội bởi họ được xem là những chuyên viên trong mọi lĩnh vực, “giữ vai trò quyết định cho sự tồn tại của mọi chế độ xã hội” [120, tr.218]. Chính vì thế, khi đất nước rơi vào cảnh chiến tranh, loạn lạc thì người trí thức, đặc biệt là người trí thức trẻ cần có thái độ, suy nghĩ, hành động minh bạch, đúng đắn, kịp thời để chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trước thời cuộc. Bằng ngòi bút tài hoa được tiếp sức bởi trái tim tràn đầy nhiệt huyết về lí tưởng cách mạng, lí tưởng dân tộc, HPNT đã tái hiện lại một thời sôi nổi của cả một thế hệ tuổi trẻ trí thức tham gia vào phong trào chống Mỹ ở khắp các đô thị miền Nam lúc bấy giờ, đặc biệt là ở Huế. Trần Quang Long, Phan Duy Nhân, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Thanh Xuân, Trần Vàng Sao, Lê Minh Trường… đều là những chân dung tiêu biểu của cả một thế hệ tuổi trẻ đô thị đã “dùng chính trái tim làm trái phá - sống chết một lần thôi” (Hành lang của người và gió) trong cuộc chiến đấu gay go, ác liệt, không cân sức với kẻ thù xảo quyệt, tàn ác là bọn Đế quốc Mỹ xâm lược và bọn tay sai Ngụy quyền. 78 Trong quá trình tìm đường đi đến với cách mạng, ở giai đoạn đầu, lớp thanh niên trí thức này luôn có sự trăn trở, dằn vặt về sự lựa chọn con đường đi của mình bởi họ vốn được hệ thống nhà trường do Mỹ Ngụy lập ra “ru ngủ” trong những ảo tưởng về một thế giới bình yên, hạnh phúc. Bên cạnh đó, không thể không nói đến sự ảnh hưởng ảnh hưởng của triết học Hiện sinh (existentialism) trong quá trình lựa chọn con đường đi của lớp thanh niên trí thức trước lịch sử. Có thể nói, những năm 60 của thế kỷ XX, làn sóng triết học Hiện sinh với những ám ảnh về cái chết, cõi hư vô, nỗi cô đơn, tâm trạng lưu đày, sự tồn tại cá nhân với tính nhất thời, hữu hạn… đã khơi dậy những trăn trở, day dứt về sự lựa chọn, cống hiến của lớp trí thức đô thị miền Nam khiến có lúc họ rơi vào sự hoang mang, tuyệt vọng trong việc đi tìm lí tưởng sống của mình. Là một trí thức, hơn ai hết, HPNT hiểu rõ nỗi ám ảnh của chiến tranh đối với thanh niên trí thức đô thị miền Nam thời bấy giờ. Viết về họ, cũng là viết về chính mình. Ông đã xót xa, cay đắng, thành thật lột tả tâm trạng của họ, những nạn nhân của môt trạng thái tâm lý mà ông gọi là “trò chơi thần kinh”. Từ nhận thức mù mờ về chiến tranh, coi nó chỉ là “một mớ khói lửa hỗn loạn, khủng khiếp và không có nghĩa lý”, các trí thức dường như đã hoàn toàn bế tắc, mất phương hướng, không biết phải lựa chọn cái gì cho cuộc sống hiện tại của mình. Họ cố thu mình nhỏ lại trong cuộc sống khổ hạnh, cắm đầu trên những trang sách đầy nỗi lo âu về cái chết mặc dù cuộc sống quanh họ vẫn yên ổn, cái chết chưa hề đe dọa gì đến họ cả. Đã có lúc, ngay chính tác giả cũng chỉ biết lang thang trên những con đường vắng vào mỗi đêm khuya chỉ để “lắng nghe tâm hồn bị giày vò bởi muôn vàn nỗi khổ đau siêu hình về chiến tranh” (Rất nhiều ánh lửa). Còn những người bạn của ông, Thụy thì thức từng đêm trước khung vải để “tạo hình những mặt đất nứt nẻ của một thời hồng hoang nào đó” mà phải “mưa đến hàng triệu năm mới đủ ướt”, Ngô thì làm thơ về gỗ, đá, chim 79 sẻ và những bầy ngựa hoang, còn Giao thì cắm cúi viết “những bài thánh ca da vàng cho một quê hương nào đó đã mất” (Như con sông từ nguồn ra biển). Và trong bối cảnh dữ dằn, khốc liệt của cuộc chiến tranh, “cái chết”, một phạm trù kinh điển của triết học Hiện sinh đã trở thành nỗi “ám ảnh không rời trong tâm cảm quê hương của Trịnh Công Sơn” (Hành tinh yêu thương của hoàng tử Bé). Không chỉ thế, nó còn luôn hiện diện trong những điệu blu buồn, phảng phất hình ảnh những đứa bạn trai của Giao đã chết và chất đầy những ý nghĩ “ảm đạm của Giao về quê hương và chiến tranh, tuổi trẻ và tình yêu” (Như con sông từ nguồn ra biển). Nó như là một nỗi ám ảnh có sức hút lớn trong khát vọng tuổi trẻ của một thời. Nhưng trong sâu thẳm tâm linh của mỗi người, số phận dân tộc vẫn day dứt họ. HPNT hiểu thấu điều này qua những giai điệu gợi nhắc hình ảnh người con gái mất trí nhớ, đi lang thang trong cơn bão và goị tên người yêu mình bằng hai tiếng “Việt Nam” (Như con sông từ nguồn ra biển), đồng cảm chia sẻ với Trịnh Công Sơn con đường tìm về nguồn cội minh triết phương Đông, níu giữ lấy cái Tâm như một “giải pháp cứu vãn, để đối diện với chiến tranh và thù hận và nỗi gay gắt của thân phận con người” (Hành tinh yêu thương của hoàng tử Bé). Hơn thế nữa, chính tư tưởng tự do và trách nhiệm cá nhân theo quan niệm hiện sinh cũng tác động đến sự lựa chọn con đường đi của lớp thanh niên trí thức miền Nam, trong đó có HPNT . Với quan niệm “con người là nỗi sợ hãi của mình”, triết học Hiện sinh buộc con người phải có thái độ lựa chọn trước cái chết, trước hư vô, đặt ra vấn đề sự chịu đựng tinh thần của mỗi cá nhân trước những biến động của đời sống để từ đó tìm ra lối thoát cho họ. ý tưởng “con người trước hết là một dự phóng sống bằng cuộc sống của riêng mình thay vì là một đám rêu xanh mốc meo hoặc một bắp cải ôi” [54, tr.108] thực sự hấp dẫn họ và giúp họ quyết định con đường đi của mình trước lịch sử. 80 Khi sự bình yên ảo tưởng bị phá vỡ, người trí thức mới tỉnh ngộ, mới nhận ra được chỗ đứng của mình trong cuộc đời. Tình yêu đất nước, dân tộc đã xốc họ dậy, giúp họ can đảm vượt qua khỏi nỗi yếu hèn của bản thân, của đời sống để nhập vai vào cuộc đời dân tộc, chung lưng đấu cậc với bạn bè, với nhân dân trên những chặng đường đầy thử thách. Giao đã rời bỏ những điệu blu buồn của mình để hướng đến những nhịp hành khúc mới, tự tin cầm đàn “đi giữa những bạn bè phẫn nộ, giữa những bà mẹ nghèo le te áo cụt chân đất, những chị tiểu thương tay đàng xa hăm hở bước chân…” trong “Ngày tuổi trẻ quật khởi” ở Huế (Như con sông từ nguồn ra biển). Ngô Kha thì “rời bỏ tuổi Narcisse”, tiến vào “cuộc mạo hiểm của một dự phóng hành động” thực hiện “cuộc giác đấu đẫm máu giữa nhà thơ bức xúc về khát vọng sống” với thần chết để từ đó xuống đường, mang cây đàn lya của chàng Orphée trong tay “cất cao tiếng hát gọi mặt trời”. HPNT đã trân trọng gọi đó là “sự lựa chọn mang tính chung thẩm của người lính ra trận, có thể bị hủy diệt nhưng không bao giờ thất bại” (Cảm nhận thơ Ngô Kha). Được tôi luyện trong khói lửa chiến tranh, thế hệ trí thức trẻ đó ngày càng vững tin vào con đường cách mạng mà mình đã lựa chọn và nguyện cống hiến sức mình, cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Quyết tâm đó đã được thể hiện ở những hành động quyết liệt, cụ thể. Đã có lúc, họ đã bơi ra giữa dòng Bến Hải, ôm lấy trụ cầu để công khai bày tỏ lời thề quyết tâm bảo vệ đất nước trước sự xâm lược của quân Thát Đát thời đại và “xin Tổ quốc hãy chia cho chúng tôi phần đạn của mỗi người đủ dùng cho cuộc chiến đấu” (Hành lang của người và gió). Họ còn tổ chức nhiều cuộc hội thảo, biểu tình rầm rộ lôi kéo đươc nhiều tầng lớp nhân dân tham gia để phản đối sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam mà tiêu biểu là vụ đốt cờ Mỹ và Phòng thông tin Mỹ (23/01/1965) (Về chiếc panh-xô và khẩu súng của Trường). Không chỉ thế, với thế mạnh là những người trí thức, họ đã làm “báo phong trào” lấy việc “chống 81 chính phủ và nước bạn Hoa Kỳ” làm tôn chỉ mục đích, hoạt động rất sôi nổi ngoài tầm kiểm soát của nhà nước ngụy quyền. Tiêu biểu phải kể đến các tờ: “Sinh viên Huế”, “Dân”, “Việt Nam Việt Nam”... với nội dung phản chiến rất mạnh mẽ, quyết liệt khiến cho bọn ngụy quyền tức giận, cố tìm mọi cách dìm chết phong trào này nhưng bất lực (Tuyệt tình cốc, Một thời làm báo). Tuy nhiên, trong cuộc vật vã, trăn trở lựa chọn cho mình một thái độ sống đúng đắn, tích cực, có biết bao nhiêu người đã không vượt qua nổi cái triền dốc chênh vênh của tuổi trẻ, “sống vật vờ rồi biến đi, mất tích trong cơn lốc của cuộc chiến tranh”. HPNT đã gọi đó là “ những dòng nước rủi ro”, lạc đường. Nhưng trăm sông rồi cũng đổ về biển. Bằng một niềm tin tha thiết đối với con người, với ý thức cội nguồn về nhân cách, phẩm giá của con người trước lịch sử dân tộc, HPNT đã khẳng định “một khi những dòng nước đã nhập được vào sông thì nhất định nó sẽ ra tới biển” miễn là “người ta đừng nhắm mắt lại và đừng để trái tim tắt hết lửa trước cuộc sống” (Như con sông từ nguồn ra biển). Với quan điểm dân tộc rất rõ ràng, biện chứng kết hợp với tấm lòng nhân hậu của một con người đã từng nếm trải bao nỗi vui, buồn, được, mất ở đời, HPNT đã viết về quá trình đi tìm lí tưởng sống của người thanh niên trí thức miền Nam trong chiến tranh với một niềm thao thức về số phận con người trước cuộc tử sinh của dân tộc. Tuy quá trình đó gặp rất nhiều chông gai, trắc trở nhưng rồi với ý thức về cội nguồn, vận mệnh dân tộc, trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc, họ đã tìm ra được con đường đi đúng đắn cho mình trước những khúc ngoặt của lịch sử dân tộc. 2.4 Cảm hứng phê phán và cảm hứng thời sự Có lẽ, ở một con người yêu nước đến bất khuất như HPNT thì cảm hứng phê phán của ông chủ yếu tập trung vào bọn giặc xâm lược. Chúng đến từ nhiều quốc gia khác nhau, từ bọn thực dân Pháp, đến bọn đế quốc Mỹ và cả bọn bành 82 trướng Trung Quốc. Với âm mưu, thủ đoạn đê hèn, xảo quyệt, bọn chúng đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Và chưa bao giờ, ngòi bút phê phán của ông lại được cất lên mạnh mẽ, sục sôi đến như vậy. Bên cạnh đó, qua những trang ký tràn đầy tính nhân văn và tinh thần dân tộc, HPNT đã gửi gắm được những trăn trở, suy tư của ông về những vấn đề thời sự của cuộc sống hàng ngày đáng lên tiếng báo động. Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được sự phê bình nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc trên tinh thần xây dựng của con người luôn lấy sự bình yên, no ấm của nhân dân làm lẽ sống cho cuộc đời mình. 2.4.1 Phê phán tội ác diệt chủng và diệt môi trường sống của kẻ thù xâm lược Từ xưa đến nay, trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải liên tục chịu sự đô hộ của rất nhiều bọn giặc ngoại bang. Từ Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… trong thời kỳ phong kiến đến bọn thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, bọn bành trướng Trung Quốc ở thời hiện đại. Dù bọn chúng có là kẻ thù nào đi nữa thì tội ác mà chúng gây ra cho nhân dân Việt Nam từ bao đời nay thật không thể nào kể xiết. Bằng ngòi bút sắc sảo, đanh thép, HPNT đã từng bước tố cáo tội ác diệt chủng và diệt môi trường sống của kẻ thù xâm lược. Đặc biệt, bọn đế quốc Mỹ với âm mưu, thủ đoạn thâm độc được tiếp sức bởi hàng triệu tấn bom đạn và chất độc hóa học cùng với sự phục dịch đắc lực của bọn tay sai ngụy quyền càng có cơ hội thỏa mãn những cơn khát máu của mình. Thiên nhiên Việt Nam trước những năm chiến tranh vốn giàu đẹp và phong phú với những cánh rừng bạt ngàn, phủ xanh đất nước, là môi trường sống lí tưởng của nhiều loài động thực vật quý hiếm và của cả chính con người Việt Nam. Thế mà chỉ sau chiến tranh, bởi bom đạn và chất độc hóa học của Mỹ, những hình ảnh đó đã lùi sâu vào dĩ vãng như nó chưa từng được biết đến. Bây 83 giờ, trên bất cứ nơi đâu mà rừng bị hủy diệt, đất ngun ngút cỏ tranh và cỏ bối, mà theo HPNT, đó là “những loại cỏ lịch sử ghi dấu sự hiện diện của Đế quốc Mỹ ở Việt Nam” (Cồn Cỏ ngày thường). Nó có mặt ở khắp mọi nơi, từ vùng đất đỏ Gio Linh vốn là “mảnh đất quê hương đẹp nhất thế giới” đối với HPNT (Đánh giặc trên hàng rào điện tử), đến khu rừng tùng cổ A Sao mênh mông từng được ông trân trọng là “một di sản quý báu của Tổ quốc” (Đời rừng), đến tận dãy Bạch Mã, và đến cả “mảnh da thịt Trường Sơn nằm giữa biển khơi”- đảo Cồn Cỏ anh hùng (Cồn Cỏ ngày thường) (Chúng tôi đã phân tích ở phần 2.1.2). Không chỉ thế, với âm mưu “diệt chủng và diệt môi trường sống” vô cùng thâm độc, đế quốc Mỹ đã thực hiện nhiều chính sách bình định quy mô và khốc liệt nhằm đưa cuộc chiến tranh nhân dân của ta đi vào con đường bế tắc. Chẳng hạn, để chống lại sự thâm nhập của quân đội Bắc Việt vào miền Nam Việt Nam, kẻ thù đã cho tiến hành xây dựng hàng rào điện tử Mac Na-ma-ra theo đúng “mẫu mực quốc tế” nhằm biến Gio Linh thành một khu vực “không còn người và súc vật, không có màu xanh của lá cây và cỏ dại” theo đúng nghĩa “No man’s land” (Vùng-đất-không-của-ai-cả, Vùng-đất-không-người-ở) (Đánh giặc trên hàng rào điện tử). Có đến tận đây, HPNT mới cảm nhận được một cách cụ thể về “qui mô những tham vọng và tội ác của bọn xâm lược quanh cái hàng rào điện tử nọ” (Đánh giặc trên hàng rào điện tử). Cũng như có về tận Cà Mau, HPNT mới càng thấu hiểu được sự xảo quyệt của Mỹ Diệm khi mượn cớ dồn dân Mũi nhốt vô ấp chiến lược với chiến dịch có cái tên nghe rất “ba trợn” là “Sóng tình thương” vào năm 1963 (Đất Mũi). Chúng còn đẩy mạnh chính sách tố Cộng trong khi tiến hành “chiến tranh một phía”, mà theo HPNT, đó là “một cuộc phục hận quằn quại của đế quốc Mỹ, thay mặt thực dân Pháp trả thù Điện Biên Phủ (Vành đai trong lửa). Các cuộc tàn sát diễn ra khắp nơi, ác liệt, khẩn trương “như thể là bọn chúng 84 tranh thủ thì giờ để giết người” đồng thời với những biện pháp tố Cộng khốc liệt, hết sức khốn nạn đối với nhân dân vùng tạm chiếm. Ví như luật 10.59 lê máy chém khắp miền Nam, hay là trò “sám hối” mà bọn chúng dành cho những người có thân nhân đi kháng chiến. HPNT nhấn mạnh “cưỡng bức người Việt Nam phải sám hối về tội đã đánh bại thực dân Pháp, như kẻ có tội phải ân hận trước Chúa, đế quốc Mỹ đã tự bộc lộ cái dã tâm bỉ ổi chưa từng thấy so với bọn xâm lược qua các thời” (Vành đai trong lửa). Có khi chúng trơ trẽn đến mức cấm cả dân không được “ngó ra miền Bắc”, rồi còn hè nhau bật nắp hòm của người chết trôi đã được đồng bào bờ Bắc vớt lên khâm liệm tử tế để lột hết quần áo của người chết, nói là “trả hết lại cho cộng sản” (Đánh giặc trên hàng rào điện tử). Đê tiện hơn, bọn chúng còn dùng bọn thanh niên “Ba cùng” lăn xả vào nhà chị em có chồng đi cách mạng mà “ăn ở, gạ gẫm, hòng đánh bại giới phụ nữ bằng cách hủ hóa mà chúng trâng tráo gọi là “sinh lý kế”” (Vành đai trong lửa), rồi từng đêm, chúng lại kéo đi rểu khắp làng, vừa đi vừa lai rai cái tiết mục văn nghệ ba xu rất mất dạy của chúng: “Bà con ơi! Nếu mà Viêt Cộng tới làng thì làm sao? Thì cứ gậy dùi lựu đạn (cốc cốc… cốc) lựu đạn súng trường (cốc cốc…cốc), gậy dùi lựu đạn súng trường mà giết đi, ơ hò…ơ hò…” (Bản di chúc của cỏ lau). Rồi sau nhiều phen xúc dân không xong, địch cho cày ủi phát quang đất, dùng lửa thiêu sạch đến ngọn cỏ, mặt đất chỉ còn là đất trắng. Và mục tiêu chiến tranh còn lại duy nhất đối với chúng chính là “những con người”. Như ở đất Mũi, khi không thực hiện được chiến dịch “Sóng tình thương” thì vào năm 1965, bọn chúng xoay sang càn quét đất Mũi bằng hai chiến lược lớn “Mặt trời mọc” và “Phượng hoàng bay”. ác liệt nhất là năm 1971, cứ thoáng thấy bóng người là pháo của bọn hải thuyền quay cả sáu nòng lại mà xả đạn cho đến lúc “cả mảng rừng tan hoang mới thôi” (Đất Mũi). Điển hình nhất là vụ tàn sát ở Thủy Bồ, một thôn nhỏ thuộc xã Điện Thọ. Trong một trận càn vào vùng giải phóng vào 85 ngày 20/12/1966, bọn lính thủy đánh bộ Mỹ đã giết chết một lúc 145 người, hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ em, trong đó có 115 người đã chết ngay chỉ trong mười lăm phút đầu tiên của trận càn. Đến tận 20 năm sau, ba chục em bé sống sót trong trận càn lịch sử đó “vẫn làm lụng với nửa thân thể còn lại” (Vành đai trong lửa). Bên cạnh đó, HPNT còn vạch trần chính sách đối xử thô bạo, trắng trợn, không kém phần độc ác của Mỹ đối với tầng lớp trí thức ngả theo kháng chiến trong xã hội bấy giờ. Tiêu biểu là vụ tống xuất ba nhân sĩ lớn của phong trào Hòa bình miền Nam qua bên kia sông Bến Hải trong đó có cả giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (Hành lang của người và gió). Không thể kể hết những vụ bắt bớ, tra tấn, đánh đập dã man và bí mật thủ tiêu những thanh niên trí thức thành thị tham gia cách mạng trong suốt những năm cao trào chống Mỹ lên cao ở các đô thị (Một thời làm báo, Hành lang của người và gió, Về chiếc panh-xô và khẩu súng của Trường, Tuyệt tình cốc…). Và đó cũng chính là cái cách mà bọn thực dân Pháp đối xử với những sĩ phu yêu nước trong giai đoạn lịch sử nửa cuối thế kỷ XIX. Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Châu Thơ Đồng, Thái Bá Phiên… những thủ lĩnh tài giỏi xuất chúng của phong trào Duy Tân đều lần lượt bị chúng bắt giam, quản thúc hoặc xử tử tàn khốc, như vụ chém ngang lưng tiến sĩ Trần Quý Cáp nhằm dập tắt cái khát vọng cách mạng “của những con người chân đất áo vá” ở “điểm bốc cháy của nó” (Đứa con phù sa) hay bản án khắc nghiệt ba mươi năm “gian khổ và tù đày” rồi cuối cùng bị xử tử ở trường chém An Hòa mà giặc Pháp đã chọn và dành riêng cho Trần Cao Vân, “Con Người tự đặt mình vào trung tâm của lịch sử để hành động” (Thành kính tưởng niệm Trần Cao Vân)… Còn một loại kẻ thù mà bản chất man trá, xảo quyệt còn tinh vi hơn cả bọn thực dân Pháp, đế quốc Mỹ là bọn bành trướng Trung Quốc xâm chiếm biên 86 giới phía Bắc nước ta vào cuối những năm thập kỷ 70. Có lên tận biên giới phía Bắc, HPNT mới có dịp nhận thức chính xác hơn về chiến tranh và kẻ thù. Thực tế đã giúp ông khẳng định rằng “chiến tranh biên giới là một ý niệm tổng thể chứa đựng nhiều cuộc chiến tranh khác nhau” mà bọn bành trướng phương Bắc đã tiến hành trong cùng một lúc chống Việt Nam. Ví như cái trò thu mua rễ hồi, vỏ hồi của bọn chúng làm cho cây hồi Lạng Sơn chết khô là để “thay thế một cuộc chiến tranh hóa học nhằm tiêu diệt rừng hồi Việt Nam” (Rừng hồi). Còn hành động của chúng thì cũng tàn ác, bỉ ổi không kém, thậm chí chúng còn có một đạo quân chủ lực “cam tâm chui xuống gầm giường, bàn thờ, chui cả vào tủ áo nhà người ta để cài mìn”, rồi cả lối phi tang toàn bộ chiến trường rất trắng trợn, man trá: nhặt vỏ đạn đem về nước sạch sành sanh nhằm lấp liếm tội ác của mình trước thế giới được HPNT chửi là “lối phi tang kiểu chó”. Theo ông, “điều ấy có lẽ chỉ có trong binh pháp hiện đại của Trung Quốc” (Ai về châu xưa). Giờ đây, khi chiến tranh đã lùi vào quá khứ hơn ba mươi năm, những chứng tích tội ác của chúng vấn còn tồn tại hiện diện trong mỗi gia đình người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước. Nỗi đau đó không bao giờ có thể được xoa dịu hoàn toàn. Nó luôn như là một ám ảnh gợi nhắc các thế hệ người Việt may mắn được lớn lên trong thời đại đất nuớc hòa bình độc lập về một dĩ vãng tuy hào hùng nhưng cũng rất đau buồn của dân tộc. Với lương tâm và trách nhiệm của một nhà văn - chiến sĩ đã từng đi qua mọi nỗi đau chiến tranh, HPNT rất thấu hiểu những nỗi đau mà dân tộc mình phải chịu đựng. Càng đau xót, thương cảm bao nhiêu thì ông càng bày tỏ thái độ căm phẫn đối với những kẻ đã gây ra tội ác đó bấy nhiêu. Không chỉ thế, theo HPNT, còn một vấn đề đáng tố cáo nữa là những kẻ thua trận trong cuộc chiến khốc liệt đó cuối cùng đã bỏ chạy ngang cuộc “theo kiểu cờ gian bạc lận” (Đời rừng) để lẩn tránh trách nhiệm trước nhân dân Việt Nam và trước cả lịch sử. 87 2.4.2 Trăn trở với những vấn đề thời sự nóng hổi đáng báo động Tính thời sự của cuộc sống chính là điều mà bất kỳ người viết ký nào cũng quan tâm. Chọn thể ký, HPNT cũng không đi ra ngoài cái quỹ đạo ấy. Sự tồn tại, phát triển của đất nước, dân tộc trong thời đại mới là mảnh đất màu mỡ nhưng cũng nhiều gai góc cho ký bước chân vào tìm hiểu, khám phá và thể hiện. Cuộc sống kinh tế thị trường luôn đặt con người trước sự lựa chọn khốc liệt, không phải trong bom đạn, giữa cái sống và cái chết mà là miếng cơm manh áo thường nhật, giữa lợi ích cá nhân với nghĩa vụ, trách nhiệm, giữa đạo đức, lương tri với những cám dỗ vật chất đời thường. Trên bước đường đổi mới đất nước, đã có lúc, con người đã ngả theo những cám dỗ vật chất phù phiếm để vun vén cho lợi ích cá nhân tầm thường của mình, bỏ mặc lợi ích chung của cả cộng đồng. Chính điều này đã kìm hãm sự phát triển chung của toàn xã hội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN007.pdf