MỤC LỤC
Phần mở đầu Trang
Chương I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KHỞI SỰ DOANH NGHIỆP VỪAVÀ NHỎ 04
1.1 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ 04
1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ 04
1.1.2 Tiêu chí phân loại DNVVN 04
1.2 Những vấn đề cơ bản về khởi nghiệp 05
1.2.1 Người khởi nghiệp 05
1.2.2 Đặc trưng của khởi nghiệp 05
1.3 Cơ sở lý luận của khởi nghiệp 06
1.3.1 Lập bản kế hoạch kinh doanh 06
1.3.1.1 Kế hoạch marketing 08
1.3.1.2 Quá trình phát triển sản phẩm 11
1.3.1.3 Tên doanh nghiệp và thương hiệu hàng hoá, dịch vụ 11
1.3.1.4 Kế hoạch định vị doanh nghiệp 12
1.3.1.5 Kế hoạch nhân sự 13
1.3.1.6 Chọn loại hình doanh nghiệp 15
1.3.1.7 Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp 16
1.3.1.8 Kế hoạch tài chính và kế toán 17
1.3.1.9 Kế hoạch bán hàng 18
1.3.2 Đăng ký kinh doanh 20
1.3.2.1 Cơ sở pháp lý và thủ tục ĐKKD 20
1.3.2.2 Trình tự thủ tục ĐKKD 20
1.3.3 Kinh nghiệm về khởi nghiệp ở một số nước 21
Chương II: THỰC TRẠNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 26
2.1 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân 26
2.1.1 Vai trò kinh tế 26
2.1.2 Vai trò xã hội 28
2.2 Thực trạng về các DNVVN và hoạt động khởi nghiệp các DNVVN ở Việt
Nam giai đoạn hiện nay 28
2.2.1 Thông tin chung về DNVVN 28
2.2.1.1 Số lượng DNVVN ở Việt Nam 28
2.2.1.2 Quy mô của các DNVVN ở Việt Nam hiện nay 28
2.2.1.3 Sự phân bố của các DNVVN ở Việt Nam hiện nay 30
2.2.1.4 Hiệu quả kinh doanh của các DNVVN 31
2.2.1.5 Các DNVVN Việt Nam chưa chú trọng vào chất lượng 31
2.2.2 Thực trạng khởi nghiệp 32
2.2.2.1 Thực trạng trong việc lập kế hoạch kinh doanh 32
2.2.2.2 Thực trạng quản lý, hoạt động của DNsau khi hoạt động 34
2.2.2.3 Đăng ký kinh doanh, thủ tục và chính sách hỗ trợ 38
Chương III:ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH KHỞI NGHIỆP VÀ CÁC KIẾN NGHỊ VỀ THỦ TỤC
ĐKKD VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DNVVN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 43
3.1 Mô hình kế hoạch kinh doanh để khởi nghiệp DNVVN ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay 43
3.1.1 Quan điểm phát triển DNVVN 43
3.1.2 Lập bản kế hoạch khởi sự doanh nghiệp 44
3.1.2.1 Phân tích thị trường 45
3.1.2.2 Xây dựng các sản phẩm, dịch vụ 48
3.1.2.3 Phân tích tài chính 50
3.1.2.4 Kế hoạch nhân sự và tổ chức doanh nghiệp 55
3.1.2.5 Các chiến lược thực hiện 59
3.1.2.6 Lập bảng tóm tắt khởi sự doanh nghiệp 63
3.2 Làm thủ tục thành lập doanh nghiệp 63
3.3 Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện phát triển các DNVVN 63
3.3.1 Kiến nghị về pháp luật 63
3.3.2 Chính sách về tài chính, tín dụng 64
3.3.3 Chính sách thị trường 66
Phần kết luận 68
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6039 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lập kế hoạch khởi sự cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm lý với một văn
phòng hoành tráng để cảm thấy hãnh diện khi khởi nghiệp, nhưng đó có thể khiến
nhà khởi nghiệp phá sản trước khi kịp phát triển vì chi phí quá cao khi doanh thu
không như dự kiến. Trong điều tra, 35% được điều tra trả lời chi phí văn phòng
chiếm tỷ lệ lớn, 42% ở mức trung bình. Điều này dẫn đến những khó khăn về tài
chính trong giai đoạn đầu doanh nghiệp hoạt động.
Việc định vị doanh nghiệp cũng không được nhiều doanh nghiệp chú ý, không tính
toán đầy đủ các khía cạnh của vị trí doanh nghiệp tác động đến sản xuất kinh doanh
nên các doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong vận chuyển hàng hoá, thuê nhân
công, xử lý môi trường...
d. Không đủ khả năng cung ứng những đơn hàng.
Với 60% doanh nghiệp từng không đáp ứng đủ đơn hàng mặc dù hầu hết đều lập
kế hoạch hoạt động cho doanh nghiệp từ 1-5 năm. Đây cũng là vấn đề của việc lập
kế hoạch kinh doanh không chu đáo, không dự trù được nhu cầu thị trường cũng như
mối liên hệ với các nhà cung cấp và cả sự liên kết trong kinh doanh giữa các doanh
nghiệp cùng ngành.
Tóm lại, hầu hết các doanh nghiệp không có bản kế hoạch kinh doanh chi tiết, chưa
thực hiện đúng các trình tự thành lập một doanh nghiệp có cơ sở khoa học. Người
khởi nghiệp bắt đầu chọn mặt hàng kinh doanh theo sở thích và ý chí chủ quan của
mình, đặt cho doanh nghiệp một cái tên và nộp hồ sơ để đăng ký kinh doanh, một
số ít nghiên cứu thị trường trước khi chọn sản phẩm. Hơn nữa, rất ít người khởi
nghiệp khảo sát kênh phân phối và cách thức đưa được hàng hoá đến tay người tiêu
dùng dẫn đến tình trạng nhu cầu thị trường vẫn có mà hàng hoá không bán được.
2.2.2.2 Thực trạng quản lý, hoạt động của các doanh nghiệp sau khi đi vào hoạt
động.
Một số vấn đề còn tồn tại trong các DNVVN
a. Thực trạng quản lý trong các DNVVN
Vấn đề thứ nhất là nhiều người cho rằng rằng lợi nhuận là điều quan trọng nhất đối
với công ty, nhưng lợi nhuận chỉ là thứ yếu với một doanh nghiệp mới đi vào hoạt
động. Thị phần và dòng lưu chuyển tiền mới là điều quan trọng nhất nhưng ít người
khởi nghiệp nhận ra điều này. Như cơ thể đang lớn cần nhiều dinh dưỡng, một công
Page 35
ty phát triển nhanh cần rất nhiều tiền mặt để cho các lần đầu tư mới. Không có
nhiều người khởi nghiệp có kiến thức về tài chính nên họ chỉ tính toán lợi nhuận và
khái niệm dòng tiền là tương đối khó khăn với họ. Bằng chứng là hầu hết DN chọn
lợi nhuận là quan trọng nhất, không ai đánh giá cao vai trò của khả năng thanh
toán. Có tới 53% người trả lời lợi nhuận là quan trọng nhất, nhưng chỉ có 42% trả
lời thị phần là quan trọng và chỉ 1% người chọn khả năng thanh toán của doanh
nghiệp là quan trọng nhất.
Vấn đề thứ hai là khả năng quản lý không theo kịp tốc độ phát triển của công ty.
Họ nhìn vào doanh số, nhìn vào dự báo lợi nhuận. Những thứ đó khiến họ nghĩ rằng
họ sẽ phát tài vào năm tới, họ sẽ kiếm được nhiều tiền nhưng họ không biết rằng họ
không còn khả năng quản lý công ty nữa. Lúc đầu, người sáng lập tự mình làm tất
cả, rồi bỗng mọi việc trở nên tồi tệ, chất lượng thoái hoá, khách hàng thanh toán
không đúng hạn, DN không giao được hàng đúng hạn nữa, có tới 60% trả lời từng
không đáp ứng được đơn hàng.
b. Thực trạng tài chính của các DNVVN
Vốn là khó khăn lớn nhất cho những người khởi nghiệp, hầu hết các DNVVN có
lượng vốn rất nhỏ. Thủ tục vay vốn chưa thông thoáng, chi phí sử dụng vốn lớn, sức
ép nợ nần cao. Với bản điều tra thì không khó để nhận ra vốn là điều khó khăn nhất
khi khởi nghiệp với 60% DN cho biết khó khăn lớn nhất của họ khi khởi nghiệp là
vốn.
Hệ thống tài chính yếu kém, tài chính không rõ ràng, minh bạch, mức độ am hiểu
về tài chính của chủ doanh nghiệp ở mức thấp. Khả năng huy động vốn kém. Số
liệu sổ sách của công ty phản ánh không chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và
tài chính của mình. Việc tuân thủ các nguyên tắc tài chính, kế toán không chỉ giúp
doanh nghiệp kiểm soát được hoạt động mà còn thuận lợi hơn trong việc vay vốn,
tìm kiếm tài trợ...
Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính cũng một phần do không đánh giá
đầy đủ các tác động trong quá trình thực hiện dự án, không tính toán thời gian thu
hồi vốn, không tính toán được dòng tiền, đặc biệt là không phân tích đúng mức độ
rủi ro.
Đại diện cả phía chủ DNVVN và ngân hàng đều đồng thuận rằng, việc thiếu vốn có
nguyên nhân ngay từ phía các doanh nghiệp. Không ít doanh nghiệp “mất tích”
khỏi địa chỉ đăng ký thành lập, một số doanh nghiệp hoạt động trái chức năng được
phép, cố ý làm trái pháp luật, buôn lậu, trốn thuế, sử dụng giấy tờ giả mạo, lừa đảo
cơ quan chức năng để thành lập doanh nghiệp, góp vốn liên doanh, lừa đảo vay vốn
ngân hàng, hoàn thuế VAT...
Page 36
Điều này đã làm cho các DNVVN khó tiếp cận vốn vay của các tổ chức tài chính.
Hiện nay, các khoản vay của các DNVVN Việt Nam chiếm tới 80% là của các tổ
chức phi tài chính và người thân, chỉ có khoảng 20% từ các ngân hàng. Theo cục
phát triển doanh nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư thì chỉ có 32,38% doanh
nghiệp có thể tiếp cận với nguồn vốn của các ngân hàng nhà nước, 35,24 khó tiếp
cận và 32,38% không thể tiếp cận được nguồn vốn này.
Trong khi đó, việc tiếp cận nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn. Chỉ có 48,65% số
doanh nghiệp có khả năng tiếp cận; 30,43% số doanh nghiệp khó tiếp cận và
20,92% không tiếp cận được. 18
Mặc dù các ngân hàng đang nỗ lực cho các doanh nghiệp vay vốn song với tài sản
thế chấp không có hoặc thấp của các DNVVN thì cũng rất khó, nhất là thời gian
qua khủng hoảng tài chính cũng có nguyên nhân từ những khoản vay dưới chuẩn.
Đồ thị 2.2 Cơ cấu vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2007
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
50.00%
60.00%
70.00%
80.00%
1st Qtr
Nguồn tự cĩ(72,05%)
Nguồn từ ngân sách(0,083%)
Nguồn vốn vay(22,32%)
Nguồn khác(5,54%)
Nguồn : Tổng cục thống kê
c.Thực trạng công nghệ của các DNVVN
Bên cạnh tài chính thì yếu tố công nghệ cũng là mặt rất hạn chế của các DNVVN
Việt Nam. Với 68% các doanh nghiệp dùng thiết bị sản xuất cũ kỹ sản xuất trước
năm 80, máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu, khoảng 15-20 năm so với thế giới
trong ngành điện tử, 20 năm trong nghành cơ khí, 70% công nghệ trong ngành dệt
may sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của DN
Việt Nam là 5-7% so với 20% của thế giới. Thực trạng này dẫn đến chi phí cao hơn
khoảng 30% so với các nước ASEAN.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số lượng
có sử dụng máy tính cao nhưng chỉ có 11,55% số doanh nghiệp có mạng nội bộ
(LAN), số doanh nghiệp có webside chỉ chiếm 2,16%. Đây là kết quả rất đáng lo
18 Hoàng Văn Dũng, chương trình VCCI trong hội nghị lãnh đạo tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy mạnh các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, HN 13.10.2007.
Page 37
ngại vì việc triển khai hoạt động thương mại điện tử còn rất hạn chế, hiện chỉ có
33,1% DNVVN tiếp cận thương mại điện tử. 19 Theo kinh nghiệm của một số nước
đã xét thì công nghệ được chú trọng hàng đầu để doanh nghiệp cạnh tranh và phát
triển.
d.Thực trạng nhân sự của các DNVVN
Các doanh nghiệp yếu kém trong việc tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh, một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên
môn, một phần là đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có người chuyên theo
dõi diễn biến thị trường nên chưa theo kịp thị trường.
Thị trường lao động Việt Nam khá dồi dào, nhất là lực lượng lao động trẻ, song thực
tế, các doanh nghiệp luôn thiếu lao động có tay nghề chuyên môn giỏi, tính chuyên
nghiệp không cao. Hơn nữa, trong các DNVVN có nhiều hạn chế về môi trường
làm việc chuyên môn, chế độ đãi ngộ, chế độ chính sách… rất nhiều các DN nhỏ
không làm hợp đồng với người lao động và họ không được đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế. Các doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam chủ yếu là tận dụng lao động
nhàn rỗi, giá rẻ mà không đặt ra cho công việc một tiêu chí về chất lượng lao động,
không chú trọng đào tạo để phát triển cho tương lai. Vì những lý do trên, kết hợp
với phong cách quản lý nên khó thu hút được lực lượng làm việc lâu dài từ đó dẫn
đến biến động nhân sự thường xuyên, ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh. Các
doanh nghiệp nhỏ chỉ như là nơi thực tập của người lao động, khi có kinh nghiệm họ
sẽ tìm đến các DN lớn hơn.
Ở cấp quản lý, số chủ doanh nghiệp có trình độ tiến sỹ chỉ chiếm 0.66% ; thạc sỹ là
2.33% ; tốt nghiệp đại học 37.82% ; cao đẳng chiếm 3.56% ; trung cấp chiếm
12.33% còn lại có trình độ thấp hơn. 20
Với bản điều tra thì tỷ lệ chủ doanh nghiệp có trình độ đại học là cao nhất (54%),
nhưng do các doanh nghiệp được khảo sát đều là doanh nghiệp mới thành lập gần
đây nên tỷ lệ này được cải thiện.
Mặc dù trình độ về quản lý, pháp lý của hầu hết các chủ doanh nghiệp còn hạn chế
nhưng rất ít người sử dụng các dịch vụ tư vấn khi thành lập doanh nghiệp (32%)
trong khi hiện nay có rất nhiều những công ty tư vấn, những trung tâm và tổ chức tư
vấn ưu đãi hoặc miễn phí. Điều này nói lên sự chuẩn bị không chu đáo của các
doanh nghiệp trong quá trình thành lập hoặc chủ quan, xem nhẹ những kinh nghiệm
từ những chuyên gia.
19 Thời báo kinh tế Việt Nam
20 Nt đã dẫn
Page 38
Trên đây là những điều chưa hợp lý trong quá trình thành lập doanh nghiệp và
những yếu kém trong các DNVVN, trong đó có nhiều vấn đề hoàn toàn có thể khắc
phục được.
2.2.2.3 Đăng ký kinh doanh, thủ tục và các chính sách hỗ trợ.
a. Thực trạng của thủ tục hành chính ở Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế như hiện nay, Việt Nam đã có tiến bộ
vượt bậc trong việc cải cách luật lệ kinh doanh và hành chính. Từ khi có những cải
cách mạnh mẽ về thành lập doanh nghiệp của luật doanh nghiệp năm 1999, số
lượng doanh nghiệp đăng ký ở nước ta tăng rất nhanh, nhưng cũng còn nhiều hộ
kinh doanh cá thể (ước tính khoảng 2,7 triệu) chưa gia nhập khu vực chính thức.
Theo báo cáo toàn cầu về môi trường kinh doanh năm 2006 cho thấy một nhà đầu
tư phải mất 50 ngày để hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh, trải qua 11 thủ tục với
chi phí hơn 50% thu nhập bình quân đầu người 1 năm, trong đó thủ tục đăng ký kinh
doanh là 15 ngày, khắc dấu 14 ngày, đăng ký mã số thuế 15 ngày, trong khi đó ở
Canada là 3 ngày qua 2 thủ tục và chi phí 0,9% , ở Australia là 2 ngày qua 2 thủ tục
với chi phí 1.9%. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ
quan quản lý nhà nước được coi là nhân tố chủ yếu để thực hiện được những cải
cách đột phá trong lĩnh vực đăng ký thành lập doanh nghiệp. 21
Ở cấp tỉnh, các cơ quan chịu trách nhiệm chính đối với 3 lĩnh vực này là Sở kế
hoạch và đầu tư, Sở công an và Cục thuế. Do qua 3 cơ quan nên doanh nghiệp phải
làm rất nhiều hồ sơ với các thông tin kê khai nhiều lần một nội dung. Gần đây,
Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện cơ chế “một cửa”, theo đó doanh nghiệp chỉ
phải đến làm hồ sơ 1 lần cho việc ĐKKD, đăng ký dấu và mã số thuế nên được dư
luận đánh giá cao và cần nhân rộng ra cả nước.
Tuy nhiên, sự cải cách vẫn chưa được thực hiện triệt để và nhanh chóng, những nội
dung cải cách còn hạn chế khi đi vào cuộc sống bởi các cấp thực hiện. Thủ tục hành
chính còn rườm rà, thiếu đồng nhất, còn nhiều tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu
gây khó khăn cho công tác hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy thủ tục thì rườm rà nhưng khả năng kiểm soát, quản lý lại buông lỏng, thiếu
hậu kiểm nên các doanh nghiệp thành lập và làm sai chức năng đăng ký còn nhiều.
Các cơ quan hành chính chưa coi các doanh nghiệp như là đối tác phục vụ, họ vẫn
thể hiện tính quan liêu, cửa quyền, điều này được thể hiện trong bảng điều tra với
việc cho điểm rất thấp về vấn đề này.
21 Thời báo kinh tế Việt Nam
Page 39
Kế hoạch 5 năm phát triển DNVVN từ 2006 đến 2010 đã thể hiện cam kết mạnh
mẽ của Chính phủ tiếp tục đơn giản hóa thủ tục kinh doanh để khuyến khích nhiều
doanh nghiệp mới ra đời. Bước cải cách đầu tiên trong lĩnh vực này là thông tư liên
tịch số 02/2007/TTLT-BKH-BTC-BCA ngày 27 tháng 2 năm 2007 giữa 3 bộ (Kế
hoạch và đầu tư, Bộ Công an và Bộ Tài chính) thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả
giữa 3 ngành này nhằm giảm thời gian và số lần phải đi lại giữa các cơ quan nhà
nước để hoàn thành 3 thủ tục là Đăng ký kinh doanh, Làm con dấu và Mã số thuế.
Khả năng thực thi của thông tư này có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công của các
cải cách tiếp theo như xây dựng hệ thống đăng ký kinh doanh trực tuyến và cơ sở
dữ liệu thông tin doanh nghiệp toàn quốc năm 2009. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn
tương đối bức xúc về hai vấn đề lớn. Thứ nhất thông tư hiện chỉ quy định thời hạn
tối đa phải trả hồ sơ là 15 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, đối với
việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện là 12 ngày. Nhưng cứ mỗi lỗi sai trong
bộ hồ sơ là thêm một lần doanh nghiệp phải đi lại cơ quan nhà nước. Quan trọng
hơn, trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận hồ sơ trong việc tư vấn và hỗ trợ doanh
nghiệp hoàn tất hồ sơ đầy đủ hợp lệ vẫn chưa quy định trong dự thảo.
Thứ hai là sau khi nhận được kết quả của 3 thủ tục thuộc điều chỉnh của thông tư
này, chủ doanh nghiệp vẫn chưa được coi là hoàn thành thủ tục thành lập doanh
nghiệp vì doanh nghiệp chưa có con dấu chính thức mà mọi giấy tờ của doanh
nghiệp chỉ được coi là hợp pháp khi được đóng dấu chính thức của doanh nghiệp.
Hiện nay, Việt Nam là một trong rất ít quốc gia còn quy định bắt buộc phải sử dụng
con dấu. Ở hầu hết các nước, khắc dấu là một thủ tục tự nguyện của doanh nghiệp,
họ không cần xin phép chính quyền và tất nhiên không cần giấy phép khắc dấu. Ở
Hàn Quốc, Chính phủ cho phép đăng ký kinh doanh qua mạng để khuyến khích
người dân kinh doanh.
Trong thông tư cũng còn mơ hồ về trách nhiệm của các cơ quan liên quan. Dự thảo
quy định phòng đăng ký kinh doanh sẽ là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chuyển
thông tin đầu vào của doanh nghiệp đến cơ quan công an và cơ quan thuế và trả kết
quả cuối cùng cho doanh nghiệp. Hiện trong thông tư chưa quy định cụ thể việc
cung cấp thông tin qua lại cũng như trách nhiệm của từng cơ quan đối với việc phản
hồi lại doanh nghiệp, đặc biệt trong trường hợp chỉ phát hiện sai sót khi đã chuyển
sang cơ quan công an hay cơ quan thuế. Cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm cuối cùng
trước doanh nghiệp và giải đáp thắc mắc của doanh nghiệp trong quá trình thụ lý hồ
sơ. Qua khảo sát cũng cho thấy có tới 95% đánh giá sự thuận lợi trong thủ tục đăng
ký kinh doanh ở mức trung bình, đối với thủ tục hành chính cũng ở mức tương tự
(94%)
Page 40
b. Sự hỗ trợ của Chính phủ
Thời gian gần đây, chính phủ đặc biệt quan tâm đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ
nhưng chưa có việc làm cụ thể. Bằng chứng là Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sau hai năm thành lập vẫn trong tình trạng thiếu thốn đủ bề, không trụ sở,
không được cấp kinh phí. Trong khi rất cần có một ngân hàng riêng hỗ trợ các
doanh nghiệp nhưng khi hiệp hội làm đề án gửi đi hai năm mà không thấy ngân
hàng nhà nước trả lời.
- Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định số 115/QĐ-TTg ngày 25/6/2004 sửa
đổi, bổ sung quyết định 193, Bộ Tài Chính ban hành thông tư số 93/2004-TT-BTC
về việc khuyến khích các địa phương thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng (QBLTD)
DNVVN. Tuy nhiên, đến giữa năm 2007 mới có 3 địa phương là Tây Ninh, Trà
Vinh và Yên Bái thành lập QBLTD và đưa vào hoạt động, các địa phương như Hà
Nội, TP HCM, Đồng Tháp, Đà Nẵng... đang xúc tiến nhưng tiến độ rất chậm.
- Chính phủ mới chỉ dừng lại ở việc ưu đãi về tài chính (giảm lãi suất, miễn, giảm
các chi phí về đào tạo) nhưng đây không phải là trở ngại lớn của các DNVVN mà
khó khăn cần giúp đỡ là vượt qua được “quy mô nhỏ”. Doanh nghiệp không vay
được vốn không phải do lãi suất cao, các doanh nghiệp thậm chí còn đi vay nặng
lãi.
- Về chính sách hỗ trợ xuất khẩu và xét thưởng xuất khẩu cũng chưa thực sự công
bằng. Theo quy định, những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD
mới được hưởng, và như vậy những doanh nghiệp nhỏ với quy mô nhỏ khó có thể
đạt được. Bên cạnh đó, việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của nhà
nước cũng gặp khó khăn. Chỉ có 5,2% số doanh nghiệp đã được tham gia, 23,12%
khó tham gia và 71,67% doanh nghiệp không tham gia.22
- Về mặt hỗ trợ đào tạo cũng có nhiều sự hỗ trợ tích cực từ phía Chính phủ. Tại nghị
quyết số 143/2004/QĐ-TTg ngày 10.08.2004 phê duyệt chương trình đào tạo cho
các DNVVN trong giai đoạn 2004-2008. Mục tiêu của chương trình là cung cấp
những kiến thức cần thiết về thành lập doanh nghiệp cho doanh nhân và người lập
nghiệp, khắc phục những kiến thức còn thiếu, trợ giúp doanh nghiệp xây dựng
chiến lược kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu... Tuy nhiên việc triển khai
chưa đồng đều ở các địa phương nên nhiều doanh nghiệp chưa được tiếp cận hoặc
chưa có hiệu quả rõ rệt. Theo điều tra của Cục Phát Triển Doanh Nghiệp- Bộ Kế
hoạch và đầu tư thì các doanh nghiệp có rất nhiều nhu cầu đào tạo, trong đó 33,64%
số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về tài chính, kế toán; 31,62 số doanh nghiệp có
22 Thời báo kinh tế Việt Nam
Page 41
nhu cầu đào tạo về quản trị doanh nghiệp; 24,14% có nhu cầu đào tạo về phát triển
thị trường; 20,17% có nhu cầu đào tạo về lập chiến lược kinh doanh...23 Những
doanh nghiệp có nhu cầu về đào tạo trên chưa được đáp ứng.
Một trở ngại nữa là chủ trương chính sách của Chính phủ tháo gỡ vướng mắc cho
các doanh nghiệp là khá cởi mở nhưng xuống cấp dưới thực hiện là bị ách tắc.
Trong cuộc điều tra có 57% DN không được trợ giúp từ chính phủ hay các tổ chức
nào, trong khi đó hầu hết các DNVVN đều cần đến sự trợ giúp không mặt này thì
mặt khác.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Ari Kokko, 24 không thấy vai trò hỗ trợ của Chính phủ
với các DNVVN. Ba lời giải thích được đưa ra trong nghiên cứu là:
Thứ nhất là hành vi của doanh nghiệp. Nếu các công ty thấy rằng Chính phủ cung
cấp tài chính thì thông thường họ không thụ động ngồi chờ Chính phủ tới công ty
mình để xác nhận xem họ có khả năng nhận được hỗ trợ hay không mà họ tích cực
vận động Chính phủ hỗ trợ cho họ. Do đó có thể thấy có cuộc trao đổi ở đây, doanh
nghiệp nào có sự chủ động thì được hỗ trợ và ngược lại.
Thứ hai là có hai loại doanh nghiệp vận động rất mạnh nhằm nhận được hỗ trợ của
Chính phủ. Loại hình thứ nhất là các doanh nghiệp yếu, gần phá sản cần hỗ trợ để
tồn tại. Nếu như họ không nhận được sự hỗ trợ từ Chính phủ thì sẽ phải chấm dứt
hoạt động nhưng khi nhận được hỗ trợ, ý nghĩa của khoản hỗ trợ là không nhiều, họ
chỉ vừa đủ để tồn tại nên vẫn hoạt động yếu kém, vẫn không phải là công ty hoạt
động hiệu quả. Loại hình doanh nghiệp thứ hai khá mạnh nhưng đang phải đối mặt
với kiểu “nút thắt cổ chai” làm hạn chế tiềm năng tăng trưởng của họ trong quá
trình phát triển và đưa đến việc họ tìm kiếm sự hỗ trợ của Chính phủ. Câu hỏi đặt ra
là Chính phủ chọn các công ty để hỗ trợ như thế nào và kết quả mong đợi của hỗ trợ
là gì.
Thứ ba là việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp thường không dựa trên những cân nhắc
kỹ lưỡng về việc ai nên được nhận hỗ trợ, gần như các DNVVN Việt Nam đều được
nhận hỗ trợ không ở thời điểm này thì thời điểm khác, nhưng những khoản hỗ trợ
này không mang lại nhiều khác biệt để doanh nghiệp bứt phá.
TÓM TẮT CHƯƠNG II
Hầu hết người khởi nghiệp chưa có được bản kế hoạch kinh doanh chi tiết, thực
hiện không đầy đủ và đúng trình tự các bước cần thiết trong quá trình thành lập
doanh nghiệp, đặc biệt là thiếu nghiên cứu thị trường. Các doanh nghiệp hình thành
23 Nt đã dẫn
24 Nhóm nghiên cứu của trường đại học kinh tế Stcokholm công bố ngày 28-2-2006 tại Hà Nội
Page 42
nhiều nhưng hoạt động chưa đúng chức năng, chưa hiệu quả. Đặc biệt là năng lực
tài chính, năng lực khoa học kỹ thuật và quản lý còn thấp kém, không đủ sức mạnh
cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa, chứ chưa nói đến thị trường xuất khẩu,
ngoại trừ một số mặt hàng đang có lợi thế cạnh tranh như nông sản, hàng thủ công
mỹ nghệ... Các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực ngành nghề có giá trị
gia tăng thấp, không có những đóng góp tương xứng như khu vực này ở các nước
phát triển.
Về phía nhà nước cũng đã có nhiều quan tâm hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát
triển như cải cách thủ tục hành chính, luật kinh doanh nhưng những hỗ trợ chưa
mang tính thiết thực, cấp bách. Các hiệp hội hình thành nhưng chưa thể hiện được
vai trò giúp đỡ của mình, chưa đi sâu giải quyết các vướng mắc cụ thể cho các
doanh nghiệp. Chính các doanh nghiệp cũng chưa tận dụng hết quyền lợi của mình
trong các chương trình hỗ trợ của chính phủ cũng như các hiệp hội. Bên cạnh đó, cơ
sở hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam còn nhiều hạn chế, nhất là giao thông vận tải, đất
đai sản xuất kinh doanh.
Từ những thực tế còn tồn tại kết hợp với kinh nghiệm khởi nghiệp của một số nước,
những lý thuyết đã nêu, tác giả tiến hành xây dựng những đề xuất để người khởi
nghiệp có được cơ sở khoa học cho việc khởi sự doanh nghiệp của mình, bên cạnh
đó cũng có những đề xuất chính sách với nhà nước để tháo gỡ những tồn tại phân
tích trong chương II này.
Page 43
CHƯƠNG III.
ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH LẬP KẾ HOẠCH KHỞI SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
VỀ THỦ TỤC ĐKKD VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DNVVN VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1 MÔ HÌNH LẬP KẾ HOẠCH KINH DOANH ĐỂ KHỞI NGHIỆP DNVVN Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
3.1.1 Quan điểm phát triển DNVVN.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mà chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ là một
lực lượng tất yếu và không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường. Vai trò, vị trí
của đối tượng này đối với sự phát triển kinh tế, xã hội đã đư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lap ke hoach khoi su cho cac doanh nghiep vua va nho Viet Nam..pdf