Luận văn Lịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Xu hướng công vụ trong thế kỷ XXI có nhiều thay đổi để phù hợp với bối cảnh mới đó là việc chuyển từ nền công vụ cai trị sang nền công vụ phục vụ, cung cấp các dịch vụ công cho nên chúng ta học tập kinh nghiệm các nước trong vấn đề hoàn thiện cơ chế tuyển dụng thông qua thi cử công khai, minh bạch chọn được những nhân vật xứng đáng đứng vào hàng ngũ CBCC. Pháp luật phải tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội cạnh tranh như nhau thông qua cơ chế, chính sách thích hợp, đồng bộ để công tác tuyển dụng thật sự khoa học, nghiêm túc. Muốn làm tốt điều này pháp luật phải định lượng được các tiêu chuẩn cụ thể và lượng hoá được càng nhiều tiêu chuẩn càng tốt. Xác định các hình thức, nội dung thi tuyển thích hợp với đặc điểm, yêu cầu cụ thể của từng loại CBCC. Đối với CBCC ở các cơ quan tham mưu (cơ quan xây dựng và hoạch định chính sách) thì sử dụng phương pháp khác với CBCC ở các cơ quan tổ chức điều hành. CBCC làm công tác tham mưu là người có khả năng vạch ra đường lối chính sách, trong khi đó CBCC điều hành loại giỏi về khả năng tổ chức, quản lý. Phải xây dựng được các tiêu chuẩn chặt chẽ, rõ ràng cùng với thủ tục minh bạch trong công tác thi tuyển để nâng cao chất lượng người được tuyển dụng. Kinh nghiệm từ các nước có nền hành chính hiện đại công chức hành chính cũng áp dụng hình thức hợp đồng, ở ta có thể vận dụng kinh nghiệm này đối với một số trường hợp nhất định: "Sử dụng chế độ hợp đồng cho một số vị trí của công chức hành chính để có thể tuyển mộ những người có tài năng vào làm việc lâu dài hoặc một thời gian ở các bộ với tư cách là chuyên gia về một lĩnh vực" [20, tr.16].

doc107 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2338 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BCC một cách có hiệu quả, rèn luyện phẩm chất đạo đức, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công vụ, giải quyết tốt chế độ chính sách đối với CBCC là những giải pháp sau khi chúng ta tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới. Kết luận chương 1 Pháp luật CBCC là một hệ thống những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về CBCC, hay nói cách khác nó là tổng hợp các QPPL để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến hoạt động của CBCC như: tuyển dụng, sử dụng, quản lý CBCC; các điều kiện phát sinh thay đổi, chấm dứt các quan hệ về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của CBCC; địa vị pháp lý của CBCC; các chế độ đãi ngộ, những bảo đảm về chức vụ; khen thưởng kỷ luật CBCC. Trên cơ sở khái niệm pháp luật CBCC, cũng như phân tích đặc điểm, vai trò của pháp luật CBCC cho thấy được pháp luật CBCC là phương tiện quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước, là hành lang pháp lý cho CBCC thực thi đúng chức trách, nhiệm vụ của mình trong hoạt động công vụ cũng như vai trò quan trọng của pháp luật CBCC trong việc bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở các đặc điểm, vai trò của pháp luật CBCC tác giả nêu ra các tiêu chí để đánh giá hệ thống pháp luật CBCC qua các giai đoạn đồng thời cũng đánh giá, phân tích, nêu lên được hệ thống pháp luật về CBCC của một số nước thông qua đó để có thể rút kinh nghiệm cho chúng ta trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật CBCC hiện nay. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của BMNN nói chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng phụ thuộc chủ yếu vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ CBCC. Muốn có một đội ngũ CBCC có đủ đức đủ tài, vừa hồng vừa chuyên có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập đòi hỏi chúng ta phải đánh giá lại hệ thống pháp luật trong các thời kỳ trước và pháp luật hiện hành để có phương hướng và giải pháp hoàn thiện. Chương 2 quá trình phát triển, thực trạng và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật cán bộ công chức ở Việt Nam 2.1. Quá trình phát triển của pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam 2.1.1. Pháp luật cán bộ, công chức thời kỳ 1945 - 1954 Cách mạng tháng 8 - 1945 thành công đã đập tan bộ máy thống trị của bọn thực dân, phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á. Lịch sử đất nước bước sang một trang mới, toàn thể dân tộc bắt tay vào xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước dân chủ đầu tiên trong khu vực. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc ấy đã đề cao vai trò của công tác tổ chức nhân sự, Người cho rằng, điều hành bộ máy nhà nước phải có một đội ngũ CBCC vừa có tài vừa có đức, tận tuỵ với công việc của Chính phủ, biết làm những gì có lợi cho dân. Muốn làm được điều đó phải có quy định để định rõ nghĩa vụ, quyền lợi cho CBCC. Ngày 29/5/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 188/SL về việc thiết lập một chế độ công chức mới và một thang lương chung cho các công chức Việt Nam: Gồm 28 bậc (trừ nhân viên quốc phòng, quân đội và dân quân tự vệ) theo một quy định riêng. Nội dung của Sắc lệnh 188/SL nhằm sửa đổi chế độ công chức hiện thời, đơn giản hoá chế độ công chức, cụ thể hoá và cải thiện đời sống cho công chức. Sắc lệnh đã chia công chức thành 5 nghạch: Ngạch tá sự: từ bậc 1 đến bậc 10; Ngạch cán sự: từ bậc 5 đến bậc 15; Ngạch tham sự: từ bậc 10 đến bậc 19; Ngạch kiểm sự: Từ bậc 12 đến bậc 22; Ngạch giám sự: Từ bậc 16 đến bậc 25 Sắc lệnh 188/SL gồm 16 điều bao gồm những nội dung sau: Quy chế thang lương chung, các khoản phụ cấp (phụ cấp gia đình, phụ cấp khu vực, phụ cấp gạo đắt); trọng dụng thành tích và tài năng, quy định đối với công chức là phụ nữ, đồng bào miền núi, công chức gia nhập quân đội; chế độ đối với công chức cũ trở lại làm việc hoặc được Chính phủ trưng tập; các quy định đối với công chức tạm thời và đối với công chức chính ngạch đang tại chức. Có thể nói, Sắc lệnh 188/SL là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về chế độ công chức, tạo môi trường pháp lý cho chế độ công chức được thực hiện trên thực tế. Sắc lệnh đã chính thức bãi bỏ các bất công, đặc quyền đặc lợi của chế độ quan lại, thực dân phong kiến đặt nền móng cho việc xây dựng một chế độ công chức nhà nước mới, thể hiện rõ tính ưu việt của nhà nước cách mạng tiến bộ và góp phần từng bước xây dựng và ổn định đội ngũ CBCC. Như vậy, ngay từ khi thành lập nước những nội dung căn bản nhất, cấp bách nhất về công chức nhà nước đã được điều chỉnh bằng pháp luật. Điều đó có tác dụng động viên mọi tầng lớp lao động, trí thức, nhân dân tham gia vào việc xây dựng bảo vệ chính quyền, kiến thiết một nhà nước kiểu mới, đồng thời tạo ra một đội ngũ công chức trung thành với tổ quốc, tận tâm với công vụ, phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Sắc lệnh đã định ra được một hệ thống hạng, ngạch mới và một thang lương chung cho các ngạch, bậc đồng thời xây dựng chế độ ưu đãi đối với những công chức là đối tượng đặc biệt như phụ nữ, đồng bào miền núi, người có công trong công cuộc giải phóng dân tộc và những người có thành tích và tài năng. Tuy nhiên Sắc lệnh 188/SL có những hạn chế nhất định đó là: Sắc lệnh chưa định ra được một hệ thống các chế định pháp lý đồng bộ về chế độ công chức làm cơ sở xây dựng BMNN vững mạnh; có đủ khả năng quản lý đất nước. Hơn nữa, BMNN trong kháng chiến dần dần đi vào ổn định và hoạt động có hiệu quả, tổ chức BMNN đã được chấn chỉnh, nhiệm vụ quản lý điều hành của BMNN ngày càng tăng, đặt ra nhu cầu tuyển dụng thêm công chức mới. Vì những lý do trên, Sắc lệnh 188 không còn đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Ngày 22/05/1950 Hồ Chủ tịch với tư cách là Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký Sắc lệnh số 76/SL ban hành bản quy chế công chức nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nội dung và mục đích của bản quy chế công chức Việt Nam là nhằm xây dựng một đội ngũ công chức kiểu mới, vững mạnh để thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Quy chế bao gồm 7 chương, 92 điều quy định các nội dung sau: Đối tượng điều chỉnh; Nghĩa vụ, quyền lợi của công chức; Tuyển dụng; Các vấn đề về tập sự, bãi chức, chuyển ngạch; Khen thưởng, kỷ luật; Chế độ nghỉ ngơi của công chức Quy chế công chức Việt Nam đã đưa ra được khái niệm công chức Việt Nam. Điều 1: "Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan của Chính phủ ở trong hay ngoài nước đều là công chức Việt Nam theo quy chế này trừ trường hợp riêng biệt cho Chính phủ quy định". Đây là quan niệm đầu tiên về công chức ở nước ta thể hiện sự điều chỉnh của pháp luật đối với một đối tượng chuyên biệt gần với quan niệm về công cụ, công chức của các nước trên thế giới. Theo quy chế thì phạm vi công chức là rất hẹp chỉ những người làm việc trong các cơ quan của Chính phủ. Quy chế công chức 1950 quy định rất rõ vấn đề quyền lợi và nghĩa vụ của công chức cũng như các điều kiện và hình thức tuyển dụng công chức thời bấy giờ Hình thức tuyển dụng: Tuyển bổ qua kỳ thi, theo học bạ hoặc văn bằng hoặc theo đề nghị của hội đồng tuyển trạch. Khi vào ngạch công chức phải qua thời gian tập sự là 1 năm, muốn xếp lên ngạch trên phải qua kỳ thi tuyển ngạch, công chức không đủ năng lực để làm việc theo ngạch mình thì bị xếp xuống ngạch dưới hoặc buộc thôi việc. Công chức ra khỏi ngạch trong các trường hợp: Từ chức, thôi việc vì lý do sức khoẻ, hoặc thiếu năng lực, từ chức bắt buộc nếu chết, mất tích, về hưu. Chế độ khen thưởng kỷ luật công chức được quy định rất rõ ràng, nghiêm minh, các hình thức, thẩm quyền, trình tự khen thưởng được quy định rõ. Nếu công chức tận tuỵ với công vụ hoặc có công trạng sẽ được khen thưởng. Công chức phạm lỗi tuỳ theo mức độ nặng nhẹ sẽ phải chịu một trong các hình thức trừng phạt như: cảnh cáo, khiển trách, hoãn dụ thăng thưởng trong hạn một hoặc hai năm, xoá tên trong bảng thăng thưởng, giáng một hoặc hai trật, từ chức bắt buộc hoặc cách chức. Ngoài các hình thức kỷ luật này, theo điều 66 của bản quy chế "Công chức phạm pháp sẽ bị truy tố trước toà án theo luật lệ chung". Có thể nói, bản quy chế công chức Việt Nam năm 1950 kèm theo Sắc lệnh số 76/SL có rất nhiều ưu điểm. Bản quy chế thể hiện tính khoa học, dân chủ, với nội dung khá hoàn chỉnh, phù hợp với nền công vụ, công chức hiện đại, gần với chế độ công vụ, công chức của các nước trên thế giới. Nội dung của bản quy chế thể hiện rõ tính chuyên nghiệp trong công việc của công chức theo chế độ chức nghiệp, nhưng phải có nghĩa vụ phục vụ nhiệm vụ chính trị, trung thành với Chính phủ đúng như Hồ Chủ tịch đã nói: "Cán bộ là công bộc của dân". Theo quy chế công chức 1950 khi công chức "ra ngạch" (chương VII) phải theo nguyên tắc hội đồng là những người đại diện cả phía cơ quan nhà nước và của công chức trong quá trình thi tuyển, thăng, khen thưởng, kỷ luật... thành phần Hội đồng gồm có người đại diện cấp quản trị là cơ quan quản lý và sử dụng công chức từ một hoặc hai người do công chức đoàn thể cử ra và bắt buộc phải có một công chức cùng ngạch trên trật hoặc dưới trật tuỳ từng trường hợp do cơ quan quản trị chỉ định. Đặc biệt quy chế còn quy định cụ thể: "Việc hoãn dự thăng thưởng, xoá tên trong bảng thăng thưởng, giáng trật, từ chức bắt buộc, cách chức do cấp quản trị quyết định theo đề nghị của Hội đồng kỷ luật". Điều này thể hiện tính công khai, dân chủ, công bằng, bình đẳng trong các xử sự hết sức thận trọng đối với danh dự, sinh mệnh chính trị của công chức. Trong lời nói đầu quy chế công chức Việt Nam nhắc lại có tính khẳng định điều 1 chương I của Hiến pháp 1946: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân", đồng thời nhấn mạnh "... Công chức Việt Nam cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình. Địa vị ấy được đề cao trong quy chế này". Quy chế công chức Việt Nam đã thể hiện sự cố gắng lớn lao, tính cấp thiết của chế định công chức trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mặc dù trong điều kiện vừa dành được chính quyền lại vừa kháng chiến nhưng nhà nước ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành kịp thời các văn bản pháp luật về công chức nhà nước. Tóm lại, pháp luật CBCC giai đoạn này đánh dấu một bước tiến trong quá trình xây dựng chế độ công chức, thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đội ngũ CBCC. Đặc biệt là quy chế công chức đã góp phần tăng thêm hiệu lực hoạt động của BNMN, củng cố chính quyền cách mạng thúc đẩy công cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Sau này do hoàn cảnh lịch sử nên quy chế công chức năm 1950 được thực hiện không lâu, và bị các văn bản khác thay thế, nhưng các quy định của quy chế vẫn là khuôn mẫu về sự điều chỉnh của pháp luật, là cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về CBCCtheo hướng điều chỉnh chuyên biệt giữa các đối tượng khác nhau. 2.1.2. Pháp luật cán bộ, công chức thời kỳ 1954 đến 1975 Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn phải chịu sự kiểm soát của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Như vậy đến năm 1954, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta mới căn bản hoàn thành trên miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã xác định và đề ra nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kỳ này chúng ta chưa có điều kiện đào tạo, quy hoạch đội ngũ CBCC nên việc tuyển dụng cán bộ, nhân viên vào làm việc trong các cơ quan nhà nước được thực hiện một cách rộng rãi, không qua thi tuyển, mà được tuyển thẳng từ các nguồn như: lực lượng vũ trang, công nhân quốc phòng, dân công hoả tuyến và được gọi chung là "cán bộ, công nhân viên chức nhà nước". Tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng, đoàn thể, hội quần chúng và các xí nghiệp quốc doanh đều được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Thời kỳ 1954 đến 1956 để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, nhà nước ta đã ban hành một số các văn bản pháp luật, những văn bản này nhằm quy định những chế độ, thể lệ đối với cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước, trên cơ sở điều chỉnh từng lĩnh vực riêng rẽ đối với từng đối tượng. Như vậy, pháp luật trong giai đoạn này không đi theo hướng điều chỉnh chuyên biệt các đối tượng phục vụ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị sự nghiệp mà vẫn kế thừa phát triển theo xu hướng điều chỉnh chung. Vì vậy, chúng ta thực hiện chế độ công nhân viên chức và cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, có bậc lương từ cán sự 1 trở lên làm việc trong các cơ quan từ trung ương đến địa phương trong các cơ quan đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân. Công chức nhà nước trở thành một bộ phận của giai cấp công nhân tuân theo các quy định chung của Luật Lao động. Ngày 31/05/1958 Nhà nước ban hành Nghị định số 270/CP quy định chế độ trả lương cho khu vực hành chính, sự nghiệp. Việc phân loại, xếp ngạch viên chức được quy định tại Thông tư số 46-NV/CB ngày 3/7/1958 của Bộ Nội vụ hướng dẫn việc sắp xếp cho cán bộ, nhân viên, công nhân cơ quan thuộc khu vực hành chính sự nghiệp; Thông tư số 08/LĐTT ngày 16/4/1958 hướng dẫn sắp xếp cấp bậc cho công nhân, nhân viên kỹ thuật, nhân viên hành chính quản lý xí nghiệp thuộc khu vực sản xuất. Năm 1959, miền Bắc cơ bản hoàn thành công cuộc khôi phục và cải tạo kinh tế, bước vào thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. miền Nam sau những biện pháp đàn áp tàn khốc của Mỹ, nguỵ nhân dân ta đã vùng lên đấu tranh cả về chính trị và quân sự, với mục tiêu giành độc lập, thống nhất tổ quốc. Sự thay đổi đó đặt ra những yêu cầu mới cho việc xây dựng nhà nước và pháp luật. Sau một thời gian dài nghiên cứu và dự thảo ngày 31/12/1959 Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới. Điều 6 hiến pháp 1959 quy định: "Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp, pháp luật, hết lòng phục vụ nhân dân" Trên cơ sở hiến pháp mới, hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng, đoàn thể xã hội, các đơn vị sản xuất kinh doanh do Nhà nước quản lý ngày càng mở rộng kể cả quy mô, và số lượng. Nhưng khi đó chúng ta chưa có điều kiện đào tạo nên đại bộ phận CBCC không qua thi tuyển theo quy định trong quy chế công chức 1950. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Nhà nước ta đã ban hành các VBQPPL để bổ sung, thay thế các quy định của quy chế công chức 1950. Ngày 30/6/1960 Chính phủ ban hành Nghị định số 23/CP về phân loại tổ chức, phân loại chức vụ cán bộ viên chức trong khu vực hành chính sự nghiệp nhằm xác định hệ thống tổ chức và chức vụ cán bộ, viên chức. Nội dung của Nghị định là việc phân loại tổ chức được quyết định theo cấp, theo ngành và lĩnh vực công tác. Căn cứ vào 3 tiêu chuẩn là: tính chất công tác, khối lượng công tác và phạm vi trách nhiệm. Về chức vụ cán bộ căn cứ vào hai tiêu chuẩn là: Nhiệm vụ công tác và trình độ đào tạo, từ đó phân loại thành các hệ thống sau: Hệ thống chức vụ lãnh đạo trong bộ máy hành chính từ trung ương đến huyện và các cơ quan chuyên môn, sự nghiệp. Hệ thống chức vụ các cán bộ nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, xí nghiệp từ trung ương đến địa phương. Hệ thống chức vụ các nhân viên làm công tác hành chính quản trị ở các cơ quan hành chính và sự nghiệp. Có thể nói Nghị định số 23/CP là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị thực tiễn cao về phân loại cán bộ, viên chức ở thời kỳ này. Tiếp sau đó, ngày 1/07/1960 Chính phủ ban hành Nghị định số 24/CP quy định chế độ tiền lương thuộc khu vực sản xuất để điều chỉnh các quan hệ tiền lương theo nguyên tắc phân phối theo lao động. Ngày 05/07/1960 Chính phủ ban hành tiếp Nghị định số 25/CP quy định chế độ tiền lương thuộc khu vực hành chính sự nghiệp. Cả hai Nghị định này đều quy định việc áp dụng nguyên tắc hưởng lương theo lao động đối với tất cả các đối tượng là cán bộ, công nhân, viên chức. Ngày 27/12/1961 Chính phủ ban hành Nghị định số 218/CP về điều lệ tạm thời quy định các chế độ bảo hiểm xã hội: Đối tượng điều chỉnh của Nghị định bao gồm toàn cán bộ, công nhân viên chức được tuyển vào lực lượng lao động thường xuyên trong các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, trường học, bệnh viên, các đoàn thể nhân dân từ cấp huyện trở lên, cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Ngày 13/3/1963 Chính phủ ban hành Nghị định số 24/CP ban hành điều lệ tuyển dụng và cho thôi việc đối với công nhân viên chức nhà nước. + Chế độ tuyển dụng mới được xác định trên hai căn cứ: - Căn cứ vào nhu cầu sản xuất và công tác. - Căn cứ vào chỉ tiêu lao động, và chỉ tiêu biên chế đã được Chính phủ quy định cho các cơ quan, xí nghiệp. Điều kiện và tiêu chuẩn tuyển dụng là: - Có quyền công dân, có lý lịch rõ ràng, tự nguyện phục vụ. - Có trình độ thích hợp với công việc. - Có đủ sức khoẻ và đủ 18 tuổi * Chế độ thôi việc được quy định trong các trường hợp sau đây; Công nhân viên chức xin thôi việc; Công nhân viên chức bị buộc thôi việc; Công nhân viên chức bị buộc phạt giam vì tội có liên quan đến công tác của mình. Có thể nói Nghị định số 24/CP quy định khá đầy đủ về điều kiện, trình tự, thủ tục, căn cứ để tuyển dụng và cho thôi việc đối với công nhân, viên chức chúng ta có thể vận dụng cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật CBCC sau này. Nhưng trên thực tế lúc bấy giờ việc tuyển dụng các cán bộ vào các cơ quan nhà nước chủ yếu là tuyển thẳng từ các lực lượng vũ trang chuyên ngành, từ các phong trào quần chúng và từ nguồn đào tạo trong và ngoài nước cho nên đội ngũ CBCC đa số không được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là kiến thức về quản lý nhà nước. Điều này dẫn đến đội ngũ CBCC luôn có sự điều động, thuyên chuyển không ổn định, năng lực tổ chức quản lý chủ yếu bằng kinh nghiệm. Ngày 31/12/1964 Chính phủ ban hành Nghị định 195/CP ban hành điều lệ về kỷ luật lao động trong các xí nghiệp, cơ quan nhà nước. Nghị định 195CP đã có những quy định làm cơ sở cho các hình thức kỷ luật, trình tự cũng như thủ tục xét kỷ luật công nhân, viên chức. Theo Nghị định các hình thức kỷ luật được xác định lại so với quy chế công chức 1950 gồm: khiển trách, cảnh cáo hạ bậc công tác, hạ cấp bậc kỹ thuật, chuyển đi làm việc khác, buộc thôi việc. Tiếp sau đó Chính phủ ban hành Nghị định số 49/CP ngày 30/4/1968 ban hành chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân viên chức đối với tài sản của Nhà nước. Như vậy, trong điều kiện đất nước vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh các văn bản pháp luật trên đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nhà nước quản lý có hiệu quả đối với đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức đông đảo lúc bấy giờ. Pháp luật CBCC giai đoạn này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho đội ngũ cán bộ công nhân, viên chức được đặt dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Các văn bản pháp luật thời kỳ này còn có tác dụng huy động được nguồn lực CBCC tham gia vào quản lý đất nước và công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội góp công sức vào công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Tuy nhiên, pháp luật CBCC giai đoạn này còn có một số những hạn chế sau: Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, hệ thống VBQPPL về CBCC được ban hành khá nhiều, nhưng việc xác định phạm vi không được rõ ràng. Tất cả được gom vào một khái niệm quá chung và rộng: "Cán bộ, công nhân viên nhà nước" với thành phần và nguồn gốc hình thành đa dạng và phong phú. Do không phân biệt được từng đối tượng chuyên biệt nên tất cả đều phải điều chỉnh theo một quy chế pháp lý chung. Phạm vi điều chỉnh rộng nên ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người không đúng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực, trình độ dẫn đến chế độ đãi ngộ cũng bất hợp lý, tình trạng kỷ luật thiếu nghiêm minh, điều động thuyên chuyển, tuỳ tiện. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử đặc thù của đất nước chúng ta lúc đó những hạn chế, bất cập nêu trên là không tránh khỏi: Đất nước còn nhiều khó khăn; miền Nam đang đấu tranh giành độc lập, miền Bắc đang tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật CBCC sau này, chúng ta cũng phải tính đến điều kiện lịch sử đặc thù của đất nước để xây dựng hệ thống pháp luật CBCC mới, vừa bảo đảm yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, lại phải tính đến các yếu tố lịch sử cụ thể. Có như vậy, trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước chúng ta đã huy động được một lực lượng cán bộ, công nhân đông đảo của nhiều ngành, nhiều cấp, của cả hệ thống chính trị góp một nguồn nhân lực quan trọng cho sự nghiệp cách mạng. 2.1.3. Pháp luật cán bộ, công chức thời kỳ 1975 - 1986 Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 toàn thắng đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử Việt Nam. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong cả nước. Từ đây cách mạng Việt Nam đã bước sang một chương mới: Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất. Đó là một tất yếu lịch sử. Giai đoạn này cả nước bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, mọi thiết chế nhà nước được tổ chức theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Đây là đặc trưng nổi bật nhất chi phối cả hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật CBCC nói riêng. Thời kỳ này, về cơ bản chúng ta vẫn sử dụng chế độ, chính sách cũ đã ban hành từ những năm 1960 và cả trước đó. Còn các văn bản pháp luật CBCC mới ban hành cũng chỉ là những văn bản pháp quy đơn lẻ, rời rạc trên từng lĩnh vực hoặc là những văn bản có nội dung hướng dẫn giải quyết những vấn đề mâu thuẫn tồn tại từ trước chưa được giải quyết. Pháp luật CBCC lúc này tạo thành một hệ thống quy chế áp dụng chung cho tất cả các đối tượng là: Viên chức nhà nước, cán bộ Đảng, đoàn thể và người lao động. Nội dung chủ yếu tập trung vào việc điều chỉnh chế độ tiền lương, bảo hiểm và một số quyền lợi về vật chất cho cán bộ, công nhân, viên chức theo cơ chế bao cấp. Thời kỳ này không có văn bản pháp luật CBCC nào có tính đồng bộ như quy chế công chức 1950. Tuy nhiên, trong giai đoạn này có một số văn bản đề cập đến việc đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ, công nhân viên chức cho phù hợp với tình hình thực tiễn lúc bấy giờ. Trước tình hình cán bộ, công nhân, viên chức phát triển mạnh mẽ về số lượng và cơ cấu để giám sát và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm kỷ luật lao động được nhà nước rất quan tâm. Ngày 8/6/1979 Chính phủ ban hành Nghị định số 217/CP quy định về chế độ trách nhiệm, kỷ luật, chế độ bảo vệ của công, chế độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công nhân viên cơ quan nhà nước. Nghị định đề cao pháp chế xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm và kỷ luật. Đây là một quy chế tổng hợp về chế độ trách nhiệm của cán bộ, công nhân viên chức nhà nước. Nghị định 217/CP cũng quy định rõ các hình thức khen thưởng, cũng như kỷ luật đối với công nhân viên chức, bổ sung thêm hình thức xử phạt so với Nghị định 195/CP ngày 31/12/1964 là "Không xét khen thưởng định kỳ 6 tháng, hàng năm, bị kéo dài thời hạn xét nâng bậc lương". Như vậy, ở đây đã có hướng tăng cường các hình thức xử phạt bằng các biện pháp kinh tế. Tiếp theo ngày 25/7/1979 ban hành Quyết định số 274/CP về việc đặt chế độ, bậc lương thường xuyên hàng năm cho công nhân, cán bộ, viên chức nhà nước. Thời kỳ này do cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp nên đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước rất lớn. Trước tình hình đó ngày 8/5/1982 HĐBT ra Nghị quyết số 16/HĐBT về tinh giản biên chế hành chính nhằm giảm bớt số lượng người hoạt động trong các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan quản lý hành chính cấp trên của các đơn vị cơ sở (tổng công ty, các liên hiệp) nâng cao hiệu xuất công tác, tiết kiệm lao động tăng cường hiệu lực của BMNN. Tiếp theo, ngày 15/7/1982 HĐBT ban hành Quyết định số 117/HĐBT về bản danh mục một số chức vụ viên chức nhà nước là căn cứ để xây dựng chức danh đầy đủ và tiêu chuẩn nghiệp vụ cụ thể các chức vụ viên chức nhà nước về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước đồng thời có căn cứ lập ra kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tuyển chọn, bố trí cán bộ, công nhân viên chức và sắp xếp các loại tiền lương, phụ cấp. Theo Quyết định số 117/HĐBT phân loại viên chức nhà nước thành 3 loại, 10 nhóm khác nhau. Loại A: Viên chức lãnh đạo là người thực hiện chức năng quản lý lãnh đạo viên chức dưới quyền có quyền ban hành quyết định pháp luật. Loại B: Viên chức chuyên môn là người có học vấn nhất định và thực hiện một công việc đòi hỏi phải có sự hiểu biết trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Loại C: Viên chức thừa hành nghiệp vụ và kỹ thuật là những người làm công tác chuẩn bị, thu thập tài liệu phục vụ cho lãnh đạo ra quyết định. Việc phân loại này tạo điều kiện cho việc quy định quyền, nghĩa vụ cho từng chức danh bảo đảm việc phân công trách nhiệm cụ thể cho từng loại. Thời kỳ này, pháp luật về chế độ đãi ngộ đối với công nhân viên chức cũng được chú trọng. Bởi vì, đời sống của cán bộ, công nhân viên chức là vấn đề có liên quan mật thiết tới chất lượng công việc, chuyên môn, nghiệp vụ mà họ đảm nhận. Do đó, ngày 17/8/1982 HĐBT ban hành Quyết định số 134/HĐBT về một số chế độ đãi ngộ đối với công nhân viên chức nhà nước. Đặc biệt ngày 18/9/1985 HĐBT ban hành Nghị định số 235/HĐBT về cải cách chế độ tiền lương của công nhân viên chức và lự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan