Luận văn Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Bình Định

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HOÁ 6

1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh tế 6

1.2. Đặc trưng và hình thức biểu hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa 22

1.3. Cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa 33

Chương 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HOÁ Ở BÌNH ĐỊNH 42

2.1. Vài nét về tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và quá trình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Bình Định 42

2.2. Tình hình thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Bình Định 49

2.3. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân về việc thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Bình Định 66

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HOÁ Ở BÌNH ĐỊNH 70

3.1. Quan điểm cơ bản nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Bình Định 70

3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Bình Định 78

KẾT LUẬN 97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99

 

 

doc102 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2701 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Bình Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kinh doanh hết sức khó khăn, có năm bị thua lỗ. Chẳng hạn, CTCP Xuất nhập khẩu với số vốn điều lệ rất lớn là 21.500 nhưng năm 2007 chỉ thu được mức lợi nhuận khiêm tốn là 1000 triệu đồng, đến năm 2008 lại bị thua lỗ - 4.951 triệu đồng. Hay CTCP Đầu tư và phát triển miền núi liên tục hai năm lợi nhuận đều ở mức âm: năm 2007 -750 triệu đồng, năm 2008 - 1.111 triệu đồng…[46]. Bảng 2.2: Tình hình hoạt động kinh doanh của các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định đến năm 2008 ĐVT: Triệu đồng TT Tên đơn vị Vốn điều lệ Doanh thu Lợi nhận Nộp ngân sách Năm 2007 Năm 2008 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2007 Năm 2008 1 CTCP In và bao bì Bình Định 12.000 34.736 48.576 850 850 1.058 1.516 2 CTCP Thủy sản Bình Định 3.100 275.000 275.000 2.500 2.500 760 800 3 CTCP Thủy sản Hoài Nhơn 7.000 360.000 360.000 1.500 1.200 2.500 2.500 4 CTCP Tàu thuyền 1.150 4.587 5.000 481 450 386 400 5 CTCP Xây lắp điện Tuy Phước 12.000 117.000 80.000 4.600 3.500 2.983 2.200 6 CTCP Xây dựng Bình Định 2.300 23.500 24.000 700 720 1.638 800 7 CTCP Hàng hải Bình Định 2.816 9.800 10.000 488 450 515 550 8 CTCP Vận tải và KDTH B.Định 2.551 34.000 34.000 700 600 800 800 9 CTCP Xây dựng thủy lợi 3.500 25.172 33.000 800 450 1.978 2.705 10 CTCP HC và BB Nhơn Thành 5.735 18.772 15.000 200 150 270 250 11 CTCP Xây lắp điện An Nhơn 8.500 24.153 15.000 1.154 1.000 2.221 800 12 CTCP VLXD Mỹ Quang 3.740 3.489 4.000 57 50 74 100 13 CTCP Xây lắp công nghiệp 3.000 16.000 16.700 835 700 500 750 14 CTCP Khoáng sản 82.618 110.641 129.306 49.566 50.628 8.360 28.000 15 CTCP PETEC Bình Định 30.600 748.887 .000.000 8.874 9.000 5.205 10.000 16 CTCP Xây lắp tổng hợp 3.364 22.505 20.000 550 500 1.556 2.000 17 CTCP Phân bón và DVTH 737 45.000 45.000 1.000 900 350 400 18 CTCP Gạch Tuynen 3.000 16.268 18.000 2.499 2.200 2.104 3.000 19 CTCP Đường Bình Định 34.000 220.843 272.000 19.900 9.500 12.800 20 CTCP Đông lạnh Quy Nhơn 10.000 98.000 100.000 2.000 1.700 2.000 2.000 21 CTCP Bến Xe Khách BĐ 8.500 6.440 7.000 1.940 1.700 2.067 2.350 22 CTCP Xây dựng giao thông 1.794 8.000 8.000 200 180 400 400 23 CTCP Tư vấn TK xây dựng 2.835 5.855 6.551 636 731 261 678 24 CTCP Tư vấn TK giao thông 2.052 10.000 10.000 910 850 800 1.000 25 CTCP TVTK Thủy lợi TĐ 2.000 1.973 2.500 150 200 201 210 26 CTCP Vật tư tổng hợp 2.721 27 CTCP Du lịch Bình Định 19.500 16.000 13.000 686 1.100 1.053 1.000 28 CTCP Giày Bình Định 15.500 78.384 170.888 2.300 4.470 400 894 29 CTCP Xuất nhập khẩu 21.500 254.873 253.713 1.000 4.951 23.300 1.000 30 CTCP VTKTNN Bình Định 20.000 533.530 781.078 6.667 20.969 5,101 9.400 31 CTCP Quản lý GT thủy bộ 5.339 35.000 35.000 1.000 900 1.500 2.500 32 CTCP Sách và TB giáo dục 5.000 33.454 3.500 1.166 1.680 641 850 33 CTCP XDPT đô thị 4.622 11.129 12.000 309 507 507 34 CTCP Đầu tư PT miền núi 4.211 71.150 92.181 750 1,111 615 200 35 CTCP Bia SG miền trung 87.000 159.261 197.031 18.160 22.155 75.904 97.167 Tổng cộng 434.285 3.433.402 4.097.024 133.010 126.421 157.508 190.527 Nguồn: UBND Bình Định, Sở Kế hoạch và đầu tư (Tháng 5 năm 2009), Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định đến năm 2008. Qua bảng 2.2 có thể nhận thấy, mặc dù sau CPH một số doanh nghiệp đã cho thấy rõ được năng lực yếu kém của mình khi không được sự bao cấp từ phía Nhà nước nhưng bên cạnh đó có nhiều doanh nghiệp đã bức phá, phát triển vượt bậc, đem đến nguồn thu lớn cho ngân sách của tỉnh. Tổng doanh thu năm 2008 của các DNNN sau CPH là 4.097.024 triệu đồng tăng 19,32% so với năm 2007; lợi nhuận thực hiện đạt 126.421 triệu đồng, đóng góp cho ngân sách của tỉnh là 190.527 triệu đồng tăng 21% so với năm 2007. Như vậy, tuy còn nhiều tồn tại, vướng mắc song không thể phủ nhận được hiệu quả về mặt kinh tế cũng như xã hội mà các DNNN sau CPH mang lại cho tỉnh Bình Định nói riêng, nền kinh tế đất nước nói chung.Vấn đề đặt ra là cần có những chính sách, quy định cụ thể, có tính khả thi để sớm khắc phục những yếu kém đó, phát huy hơn nữa những đóng góp cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. 2.1.3. Đặc điểm lao động trong các doanh nghiệp nhà n­íc sau cổ phần hoá ở Bình Định So với các tỉnh, thành khác trong cả nước, tỉnh Bình Định có mật độ dân số tương đối cao. Đến nay dân số Bình Định ước khoảng trên 1.590.946 người, mật độ dân số khoảng trên 261,5 người / km2. Dân số trong độ tuổi lao động là 978.200 người, trong đó khu vực thành thị là 275.400 người, nông thôn là 702.800 người. Số lao động tham gia hoạt động kinh tế là 840.000 người, trong đó khu vực thành thị là 218.000 người, khu vực nông thôn là 622.000 người, nếu chia theo nhóm ngành kinh tế thì số lao động tham gia trong nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ là 143.000 người, nông- lâm- ngư nghiệp là 566.000 người, dịch vụ là 131.000 người [44]. Là một tỉnh có nguồn lao động dồi dào, người lao động cần cù, chịu thương, chịu khó… nên đây là nơi thu hút được nhiều dự án đầu tư cả trong và ngoài nước. Chính sách giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh trong nhiều năm qua không ngừng được quan tâm và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhìn chung khi nghiên cứu về tình hình lao động ở Bình Định, có thể rút ra nhận xét sau: Lực lượng lao động ở Bình Định rất dồi dào (chiếm gần 2/3 dân số của tỉnh), đa số là lao động ở khu vực nông thôn (chiếm 2/3 số lao động tham gia hoạt động kinh tế). Đây là nguồn lực quan trọng trong sự phát triển kinh tế của tỉnh nhưng cũng là khó khăn vì lao động ở nông thôn chủ yếu chưa qua đào tạo. Năm 2008, số lao động của tỉnh làm việc trong các doanh nghiệp là 87.900 người (năm 2009 kế hoạch là 92.400 người). Trong đó, lao động làm việc trong các DNNN sau CPH là 7146 người. Về cơ cấu nhóm tuổi và cơ cấu trình độ chuyên môn của lực lượng lao động trong các DNNN sau CPH của tỉnh Bình Định như sau: - Về cơ cấu nhóm tuổi lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định [7]: + Dưới 18 tuổi: 5 người chiếm: 0,07% + Từ 18 tuổi đến 60 tuổi: 7137 người chiếm: 99,87% + Trên 60 tuổi: 4 người chiếm: 0,06% - Về cơ cấu trình độ chuyên môn trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định [7]: + Chưa qua đào tạo: 3461 người chiếm: 48,43% + THCN, Dạy nghề: 2485 người chiếm: 34,77% + Cao đẳng, Đại học: 1196 người chiếm: 16,73% + Thạc sĩ trở lên: 4 người chiếm: 0,07% Các số liệu trên cho thấy đa số lao động trong các DNNN sau CPH ở Bình Định là lao động trẻ, có trình độ học vấn cao và được đào tạo (trên 50%), có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, là nguồn lực quan trọng trong sự phát triển doanh nghiệp. Đây là đặc điểm quan trọng khác với lực lượng lao động trong các loại hình doanh nghiệp khác, đặc biệt là DNTN. Tuy nhiên, vẫn còn 48,43% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp này chưa qua đào tạo, vì vậy cần có chính sách thích hợp từ phía Nhà nước cũng như từ phía doanh nghiệp để số lao động này được cống hiến hết khả năng, đem đến lợi ích cho doanh nghiệp cũng như cho bản thân họ. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai có thể khẳng định rằng lực lượng lao động ở tỉnh Bình Định là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển của hệ thống các doanh nghiệp, đồng thời là nhân tố phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. 2.2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HOÁ Ở BÌNH ĐỊNH 2.2.1. Thực trạng thu nhập theo lao động, theo vốn góp và theo phúc lợi tập thể của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở tỉnh Bình Định Luật Lao động nước ta đã quy định rõ về mức lương và cách trả lương cho người lao động ở các doanh nghiệp. Hầu hết các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định đều thực hiện tốt và tuân thủ đúng quy định về tiền lương do Luật lao động và Nghị định 110/2008/NĐ-CP, ngày 10/10/2008 quy định: mức lương tối thiểu vùng dùng để trả công đối với người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường ở các doanh nghiệp quy định tại Điều 1 Nghị định này thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 theo các vùng như sau: 1. Mức 800.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I. 2. Mức 740.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng II. 3. Mức 690.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III. 4. Mức 650.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng IV. Và mới đây nhất là Nghị định 33/2009/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu chung thực hiện từ ngày 1/5/2009 là 650.000 đồng/ tháng. Các doanh nghiệp thường áp dụng các hình thức trả lương như: lương thời gian, lương sản phẩm hoặc lương khoán. Về lương thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế của người lao động. Căn cứ để trả lương thời gian là thỏa thuận mức lương được ghi trong hợp đồng lao động và thời gian làm việc thực tế của người lao động để tính lương tháng, tuần, ngày, giờ. Còn lương sản phẩm thường được áp dụng ở những cơ sở sản xuất ra sản phẩm và sản phẩm có thể định mức được. Căn cứ để trả lương sản phẩm là đơn giá sản phẩm trên cơ sở định mức lao động và cấp bậc công việc nhân với số lượng, chất lượng sản phẩm. Các DNNN sau CPH đã đạt được mục tiêu: quy mô về vốn điều lệ tăng, đa sở hữu về vốn, người lao động trong công ty đã làm chủ thực sự, đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, ổn định việc làm, tăng thu nhập, hoạt động kinh doanh bước đầu có hiệu quả hơn trước. Đến hết năm 2008, các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định đã tạo việc làm ổn định cho 7.146 lao động với mức thu nhập bình quân 2.758.000 đồng/tháng [45]. Đây là mức thu nhập bình quân khá cao so với mức thu nhập bình quân của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, trong bộ phận DNNN sau CPH lại có sự chênh lệch rõ rệt về thu nhập của người lao động. Chẳng hạn, CTCP Khoáng sản thu nhập bình quân của người lao động năm 2007 là 5.500.000 đồng, năm 2008 tăng lên 5.580.000; CTCP Tư vấn thiết kế xây dựng thu nhập bình quân năm 2007 là 4.100.000 đồng, năm 2008 tăng lên 4.150.000…Trong khi đó vẫn còn một số doanh nghiệp thu nhập bình quân dưới 1 triệu đồng/tháng như: CTCP Vật liệu xây dựng Mỹ Quang (876.984 đồng/tháng), CTCP Xuất nhập khẩu (965.564 đồng/tháng) [47]. Sự chênh lệch này phần lớn phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào làm ăn có lãi, lợi nhuận lớn thì thu nhập của người lao động cao và ngược lại (xem bảng 2.3). Trong các DNNN sau CPH ở Bình Định, phần lớn các doanh nghiệp lấy quy định về mức lương tối thiểu làm căn cứ chính để xây dựng định mức tiền lương và thu nhập đối với người lao động. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít người lao động trong các doanh nghiệp này hưởng lương theo mức khoán sản phẩm, tức là mức lương được xây dựng theo định mức lao động hoặc định mức đơn giá, bằng cách chọn một số người lao động có tay nghề cao làm mẫu rồi áp mức sản lượng đại trà cho người lao động. Cách xây dựng này gây thiệt thòi cho người lao động, do định mức lao động quá cao đã làm cho một số ít người lao động không thể đáp ứng được nên dẫn đến thu nhập thấp. Trong một số doanh nghiệp như CTCP Xuất nhậu khẩu … do làm ăn thua lỗ nên dẫn đến tình trạng trả lương chậm cho người lao động so với hợp đồng. Vì vậy vẫn còn một bộ phận nhỏ người lao động trong các doanh nghiệp này đời sống còn nhiều khó khăn. Bảng 2.3: Thu nhập bình quân của người lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định ĐVT: VNĐ TT Tên đơn vị Thu nhập bình quân Năm 2007 Năm 2008 1 CTCP In và bao bì Bình Định 2.243.000 2.500.000 2 CTCP Thủy sản Bình Định 1.500.000 1.600.000 3 CTCP Thủy sản Hoài Nhơn 1.400.000 1.500.000 4 CTCP Tàu thuyền 1.520.000 1.550.000 5 CTCP Xây lắp điện Tuy Phước 1.750.000 1.850.000 6 CTCP Xây dựng Bình Định 1.500.000 1.700.000 7 CTCP Hàng hải Bình Định 2.100.000 2.200.000 8 CTCP Vận tải và KDTH Bình Định 2.200.000 2.500.000 9 CTCP Xây dựng thủy lợi 1.600.000 1.650.000 10 CTCP Hóa chất và BB Nhơn Thành 1.208.333 1.200.000 11 CTCP Xây lắp điện An Nhơn 1.500.000 1.600.000 12 CTCP VLXD Mỹ Quang 876.984 876.984 13 CTCP Xây lắp công nghiệp 2.100.000 2.200.000 14 CTCP Khoáng sản 5.500.000 5.800.000 15 CTCP PETEC Bình Định 2.454.724 2.500.000 16 CTCP Xây lắp tổng hợp 1.450.000 1.500.000 17 CTCP Phân bón và DVTH 1.500.000 1.500.000 18 CTCP Gạch Tuynen 2.400.000 2.500.000 19 CTCP Đường Bình Định 2.405.000 2.405.000 20 CTCP Đông lạnh Quy Nhơn 1.200.000 1.250.000 21 CTCP Bến Xe Khách BĐ 1.880.000 1.900.000 22 CTCP Xây dựng giao thông 1.500.000 1.600.000 23 CTCP Tư vấn TK xây dựng 4.100.000 4.150.000 24 CTCP Tư vấn TK giao thông 3.800.000 3.900.000 25 CTCP TVTK Thủy lợi TĐ 1.680.000 1.680.000 26 CTCP Vật tư tổng hợp 2.000.000 2.000.000 27 CTCP Du lịch Bình Định 1.474.000 1.474.000 28 CTCP Giày Bình Định 920.000 1.390.000 29 CTCP Xuất nhập khẩu 965.564 965.564 30 CTCP VTKTNN Bình Định 4.343.664 4.343.664 31 CTCP Quản lý GT thủy bộ 1.700.000 1.700.000 32 CTCP Sách và thiết bị giáo dục 2.554.550 2.752.000 33 CTCP XDPT đô thị 1.000.000 1.000.000 34 CTCP Đầu tư PT miền núi 1.200.000 35 CTCP Bia SG miền trung 4.150.000 4.150.000 Nguồn: UBND Bình Định, Sở Kế hoạch và đầu tư (năm 2009), Báo cáo tình hình thu nhập của người lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định đến năm 2009. Ngoài tiền lương được nhận hàng tháng, tuần như đã ký kết trong hợp đồng, người lao động trong các DNNN sau CPH còn được nhận tiền thưởng nếu họ làm việc tốt hơn mức quy định của doanh nghiệp. Qua khảo sát thực tế một số DNNN sau CPH cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều xây dựng chế độ tiền thưởng để động viên khuyến khích tinh thần làm việc của người lao động. Theo báo cáo của Liên đoàn lao động tỉnh thì có trên 90% DNNN sau CPH thực hiện chế độ thưởng cho công nhân.(Liên đoàn lao động tỉnh Bình Định (2007), Kết quả điều tra về tình hình lao động trong khối doanh nghiệp). Tuy nhiên, mức độ thưởng cho người lao động trong từng doanh nghiệp lại khác nhau. Đa số các doanh nghiệp mức thưởng hàng năm chỉ bằng tháng lương thứ 13, một số ít doanh nghiệp có thêm tháng lương thứ 14. Các doanh nghiệp này đặc biệt quan tâm và trả tiền thưởng cao cho các sáng kiến của người lao động trong quá trình sản xuất. Đây là hình thức thưởng nóng rất đáng khích lệ để thu hút chất xám về cho doanh nghiệp. Một điểm khác biệt giữa các DNNN sau CPH so với các DNTN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là người lao động được doanh nghiệp quan tâm nhiều hơn thông qua các quỹ phúc lợi của doanh nghiệp. Hàng năm các doanh nghiệp này đã có nhiều hình thức thăm hỏi, hiếu hỉ, tổ chức sinh nhật, tham quan…cho người lao động, cho con em và người thân trong gia đình họ. Nhiều gia đình thuộc diện chính sách như gia đình thương binh, gia đình có công với cách mạng… rất được quan tâm. Các doanh nghiệp có nhiều hình thức khen thưởng đối với con em người lao động học giỏi thông qua các ngày như Quốc tế thiếu nhi 1.6, rằm tháng 8…Nhìn chung đối với các doanh nghiệp này các quỹ phúc lợi được sử dụng một cách có hiệu quả và người lao động rất hài lòng khi được doanh nghiệp quan tâm đến bản thân và gia đình họ. Như phần trên đã đề cập đến, một bộ phận người lao động trong các DNNN sau CPH có cổ phần trong công ty, trở thành người chủ sở hữu một bộ phận tài sản của công ty, vì vậy ngoài tiền lương, tiền thưởng, thu nhập từ quỹ phúc lợi…họ còn nhận được lợi tức tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của công ty. Vì vậy đời sống của bộ phận người lao động này khá hơn rất nhiều so với trước đây và so với những người không có thu nhập từ lợi tức cổ phần. Tuy nhiên, số lao động có cổ phần trong các doanh nghiệp này chưa nhiều. Năm 2008 tổng số lao động có cổ phần trong 35 DNNN sau CPH là 3750 người, chiếm 52,48%. Trong CTCP Xuất nhập khẩu Bình Định, con số này là 46,6%; CTCP Giày Bình Định là 32,8%, CTCP Khoáng sản Bình Định là 65,17%... [39]. Năm 2008 người lao động có cổ phần trong CTCP khoáng sản được hưởng mức cổ tức lên đến 35%. Điều này đã nâng mức thu nhập bình quân của người lao động trong doanh nghiệp lên đến 5.800.000 đồng. Mức cổ tức của CTCP Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Bình Định đạt 31%; CTCP Tư vấn thiết kế giao thông đạt 21%, thu nhập bình quân là 3.900.000 đồng. Bên cạnh đó một số doanh nghiệp do làm ăn không đạt hiệu quả nên người lao động mặc dù có cổ phiếu nhưng thu nhập bình quân lại không cao so với người lao động không có cổ phiếu ở các doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, CTCP Du lịch Bình Định mức lợi tức năm 2008 chỉ đạt 4%, thu nhập bình quân của người lao động là 1.474.000 đồng. Trong khi đó người lao động không có cổ phần ở CTCP Vật tư tổng hợp thu nhập bình quân năm 2008 đạt tới 2.000.000 đồng…[39]. Nhà nước quy định mỗi năm công tác cho khu vực DNNN người lao động được mua tối đa 1.000.000 đồng tương ứng 100 cổ phiếu được giảm 40% so với giá đấu bình quân thành công. Nếu giá đấu bình quân thành công quá cao thì người lao động bị thiệt, thậm chí không có khả năng tài chính để mua, do đó buộc họ phải bán cho người khác. Điều này đã làm cho mục tiêu đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao động trong DNNN sau CPH ít thực hiện được. Vì vậy cần có giải pháp để người lao động ngày càng có điều kiện tham gia làm chủ công ty, có như vậy lợi ích của họ mới thực sự được đảm bảo. 2.2.2. Thực trạng việc đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động trong tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động, ký kết thỏa ước lao động tập thể Hiện nay việc tuyển dụng lao động và đào tạo nghề trong tỉnh vẫn còn nhiều bất cập. Cung về lao động phổ thông cao hơn nhiều so với cầu. Còn lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề tốt nghiệp từ những trường đào tạo có chất lượng thực sự rất khan hiếm đối với các doanh nghiệp. Do tình hình thiếu hụt lao động nên nhiều doanh nghiệp tiếp nhận lao động bất cứ thời điểm nào trong năm và về điều kiện tuyển dụng cũng dễ dãi và hạ thấp hơn về trình độ văn hóa. Năm 2008, số phiên giao dịch việc làm của cả tỉnh lên đến 20 lần, có đến 223 lượt đơn vị tham gia. Số người đăng ký tìm việc làm là 812 người (năm 2009 kế hoạch là 600 người), trong đó số người được tuyển dụng qua hội chợ là 300 người (năm 2009 kế hoạch là 250 người). Bên cạnh đó, các trung tâm dịch vụ việc làm cũng hoạt động rất sôi nổi. Năm 2008, số người được tư vấn, giới thiệu việc làm là 20.700 người (năm 2009 kế hoạch là 21.000 người), trong đó số người tìm được việc làm là 1.500 người ( năm 2009 kế hoạch là 2000 người) [44]. Hợp đồng lao động là một trong những nội dung chủ yếu trong quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nó đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của cả hai bên trong quá trình làm việc, đồng thời nó thể hiện sự tôn trọng quyền lựa chọn làm việc của người lao động trên cơ sở thỏa thuận và hợp tác cùng có lợi. Hợp đồng lao động cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp lao động. Theo số liệu điều tra việc thực hiện ký kết hợp đồng lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định như sau: Bảng 2.4: Tình hình ký kết hợp đồng lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Số lao động làm việc (người) 9.414 7.146 Số lao động đã ký kết HĐLĐ (người) 8.660 6.656 Tỷ lệ (%) 92 93,1 Nguồn: Liên đoàn lao động tỉnh Bình Định (2009), Báo cáo số liệu tổng hợp khảo sát về hợp đồng lao động và ký kết thỏa ước lao động tập thể. Qua bảng 2.4 cho thấy, việc thực hiện ký kết hợp đồng lao động trong các DNNN sau CPH ở tỉnh Bình Định được thực hiện khá cao, chiếm tỷ lệ trên 90%. Điều này cũng xuất phátt từ tiền đề trước đây là DNNN nên lợi ích của người lao động được quan tâm nhiều hơn. Sau CPH, các doanh nghiệp này vẫn duy trì được việc đảm bảo lợi ích người lao động thông qua ký kết hợp đồng. Đa số người lao động trong các DNNN sau CPH đều được ký kết hợp đồng nhưng về hình thức ký kết hợp đồng lại có sự khác nhau. Bảng 2.5: Khảo sát tình hình ký kết các loại hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp của tỉnh Bình Định DNNN sau CPH DNTN Số lượng doanh nghiệp được khảo sát 35 810 Tổng số lao động 9.414 16.949 Số lao động đã ký HĐLĐ 8.660 9.321 Tỷ lệ % 92% 55% Tỷ lệ các loại hợp đồng lao động Không xác định thời hạn 24,75% 10,8% 12 tháng đến 36 tháng 52,45% 38,12% Dưới 12 tháng 22,8% 51,08% Nguồn: Liên đoàn lao động tỉnh Bình Định (06/2008), Báo cáo số liệu tổng hợp khảo sát về hợp đồng lao động và ký kết thỏa ước lao động tập thể trong các doanh nghiệp của tỉnh Bình Định. Qua phân tích ở bảng 2.5 cho thấy: Tỷ lệ người lao động ở các DNTN được ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn chiếm 10.8%. Điều này cho thấy người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp này còn nhiều e ngại khi ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn mà nguyên nhân chủ yếu là do những quy định của Bộ Luật lao động về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động được ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn có những điểm chưa phù hợp như: ưu ái cho người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần phải lý do, chỉ cần tuân thủ thời gian báo trước. Còn người sử dụng lao động bị ràng buộc nhiều hơn khi muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Ngược lại với các DNTN, các DNNN sau CPH ở Bình Định có sự khác biệt: Tỷ lệ người lao động được ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn chiếm tới 24,75%, cao hơn 2 lần so với các DNTN; đặc biệt số lao động được ký hợp đồng lao động từ 12→ 36 tháng chiếm trên 50%, trong khi đó tỷ lệ này trong các DNTN chỉ là 38,12%; số lao động được ký kết hợp đồng lao động dưới 12 tháng trong các DNNN sau CPH chiếm 22,8%, trong các DNTN là 51,08%. Điều này cho thấy các DNNN sau CPH quan tâm đến người lao động nhiều hơn thông qua ký kết hợp đồng lao động. Bởi vì, với trên 50% người lao động ký hợp đồng dưới 12 tháng trong các DNTN đã nói lên rằng các DNTN đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật lao động của người lao động để ký hợp đồng lao động ngắn hạn nhằm né tránh việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động như: đóng BHXH, nâng lương, nâng bậc hoặc khi muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng thì ít bị ràng buộc về lý do hoặc thời gian báo trước.v.v… Mặc dù so với loại hình DNTN, trong các DNNN sau CPH lợi ích của người lao động thông qua ký kết hợp đồng được đảm bảo hơn nhưng trong các doanh nghiệp này vẫn còn tới 22,8% người lao động ký hợp đồng dưới 12 tháng. Đây không phải là con số cao so với các loại hình doanh nghiệp khác nhưng cao vì các doanh nghiệp này có tiền đề từ các DNNN, vì vậy lợi ích của người lao động phải được thực hiện một cách tương đối. Việc ký kết hợp đồng lao động ngắn hạn giống con dao hai lưỡi. Đối với người sử dụng lao động khi ký kết hợp đồng lao động ngắn hạn thì được hưởng lợi từ việc né tránh thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động. Còn đối với người lao động khi được ký kết hợp đồng lao động ngắn hạn, họ cảm thấy không được doanh nghiệp quan tâm, từ đó ít gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, không toàn tâm toàn ý phục vụ doanh nghiệp. Thậm chí, trong điều kiện khan hiếm lao động, họ có thể rời bỏ doanh nghiệp bất cứ lúc nào họ muốn. Thỏa ước lao động tập thể là cơ sở pháp lý chủ yếu trong doanh nghiệp, để từ đó hình thành nên mối quan hệ lao động có tính tập thể, giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp. Công đoàn đại diện cho tập thể lao động tham gia thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể giữa người lao động và người sử dụng lao động. Thông qua việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể tổ chức Công đoàn làm tốt hơn chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Ở Bình Định hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở SXKD đều có nội quy lao động hoặc quy chế hoạt động, thỏa ước lao động tập thể tự xây dựng. Nhưng chỉ có một số doanh nghiệp có đăng ký tại Sở Lao động- Thương binh và Xã hội. Riêng đối với các DNNN sau CPH thì việc ký thỏa ước lao động tập thể được thực hiện tương đối nghiêm túc, đạt 100%[38]. Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp này thỏa ước lao động tập thể chưa cụ thể hóa được nhiều hành vi vi phạm và các hình thức xử lý kỷ luật, do đó khi xảy ra vi phạm còn lúng túng trong việc lựa chọn hình thức xử lý. Hơn nữa, thỏa ước lao động tập thể trong các doanh nghiệp này chủ yếu là thỏa thuận lại các điều khoản theo quy định của pháp luật hoặc một số vấn đề xã hội khác như: tham quan, nghỉ m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan