Luận văn Mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh (1986 - 2014)

LỜI CAM ĐOAN.i

LỜI CẢM ƠN.ii

MỤC LỤC .iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.iv

DANH MỤC CÁC BẢNG.v

MỞ ĐẦU.1

1. Lí do chọn đề tài .1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.2

3. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề tài .5

4. Nguồn tư liệu của đề tài.5

5. Phương pháp nghiên cứu .6

6. Đóng góp của đề tài .6

7. Cấu trúc của đề tài .6

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BÌNH LIÊU .7

1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên.7

1.1.1. Vị trí địa lí.7

1.1.2. Điều kiện tự nhiên .7

1.1.3. Tài nguyên thiên nhiên .10

1.1.4. Về giao thông vận tải.12

1.2. Khái quát lịch sử hành chính huyện Bình Liêu .13

1.3. Các thành phần dân tộc.15

1.4. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Bình Liêu từ 1986 - 2014.20

Chương 2: MẠNG LưỚI CHỢ NÔNG THÔN Ở HUYỆN BÌNH

LIÊU, TỈNH QUẢNG NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2014 .25

2.1. Những quan niệm về chợ và chợ nông thôn.25

2.1.1. Những quan niệm về chợ.25

pdf104 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 402 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mạng lưới chợ nông thôn ở huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh (1986 - 2014), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Pháp và triều đình phong kiến Mãn Thanh có đề cập đến việc xác lập các cột mốc, cùng nhau giám sát, tuần tra, thành lập 25 điểm đồn trú và các điểm họp chợ chung của cư dân sống hai bên đường biên giới. Những điểm chợ chung có từ trước trong dân gian như Móng Cái, Hoành Mô, Thán Phún, Pò Hèn có thêm điều kiện phát triển, trở thành những nơi giao lưu, trao đổi hàng hóa, buôn bán giữa hai bên. Từ năm 1945, quan hệ kinh tế thương mại và quan hệ buôn bán giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc chuyển sang một giai đoạn mới - tiến hành song song hai hình thức buôn bán: tiểu ngạch dân gian và buôn bán quốc doanh địa phương, đôi bên đã tăng cường trao đổi, buôn bán hàng hóa. Năm 1952 hai chính phủ đã kí hiệp định thương mại đầu tiên. Từ vùng tự do Bình Liêu, Chi điếm mậu dịch quốc doanh Hải Ninh đã thu mua được hàng chục tấn dược liệu, mật ong, nấm hương, măng khô xuất qua cửa khẩu Hoành Mô sang Đồng Tông (Trung Quốc). Đến năm 1958, do yêu cầu phát triển kinh tế của mỗi bên, để tăng cường quản lí thị trường biên giới, các cửa khẩu mậu dịch tiểu ngạch (trong đó có Hoành Mô) phải tạm đóng cửa. Tuy đóng cửa khẩu mậu dịch tiểu ngạch, nhưng phía Việt Nam vẫn cho phép cư dân sống hai bờ biên giới trong phạm vi 20km được qua lại thăm viếng nhau. Mỗi lần qua lại, mỗi người được phép mang theo một số quà biếu trị giá 7,5 đồng tiền Việt Nam thời đó. Quy định này không đáp ứng được nhu cầu Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 37 tiêu dùng hàng ngày của người dân. Vì thế, trong những năm 1966 - 1968, khi Trung Quốc thực hiện đóng cửa với bên ngoài, Chính phủ Việt Nam vẫn cho phép kinh doanh xuất nhập khẩu địa phương. Ngoài các con đường chính thức qua Móng Cái, Hoành Mô và Pò Hèn, nhân dân hai bên biên giới còn được phép qua lại trên các con đường mòn dọc tuyến biên giới. Từ cuối những năm 60 đến những năm đầu thập kỉ 70, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ đánh phá miền Bắc ngày càng ác liệt. Nhiều người dân từ các tỉnh, thành phố về khu vực biên giới Việt - Trung sơ tán. Phần đông trong số họ có thành phần xuất thân từ các tầng lớp tiểu thương, có quan hệ bà con với nhân dân mình bên Đông Hưng, Quảng Tây nên việc thiết lập đường dây buôn bán biên giới khá dễ dàng. Thành phần tham gia hoạt động buôn bán thời gian này không còn bó hẹp trong những người dân sống hai bên đường biên giới, hình thức hoạt động vẫn còn lén lút, bất hợp pháp nhưng tính chất buôn bán đã thay đổi. Không dừng lại ở mức độ trao đổi các mặt hàng thiết yếu. Phần lớn các mặt hàng đó là hàng công nghiệp tiêu dùng như bút máy, giấy viết, dây đeo đồng hồ, bật lửa, diêm, chỉ khâu, dép nhựa, đèn pin, khóa, nước hoa, khăn mùi soa, đường hóa học... Trong khi đó, hàng hóa từ Quảng Ninh được chuyển sang Quảng Tây là các loại lâm thổ sản, hải sản quý như: đậu tương, lạc, dầu trẩu, hoa hồi, quế, củ ba kích, song mây, gỗ, cá, tôm, mực cả tươi lẫn khô... [42, tr. 446]. Sau hơn 10 năm gián đoạn, đến năm 1989, Trung Quốc điều chỉnh chính sách cải cách mở cửa, chú ý hơn tới việc mở cửa vùng ven biên giới và cải thiện quan hệ láng giềng với các nước xung quanh, trong đó có Việt Nam. Từ cuối năm 1988, đầu năm 1989, buôn bán biên giới giữa Quảng Ninh và Quảng Tây bắt đầu hoạt động trở lại. Bước ngoặt lớn trong quan hệ Việt - Trung là cuộc họp thượng đỉnh bí mật ở Thành Đô tháng 9/1990, theo sau là việc bình thường hóa chính thức quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tháng 11/1991. Việt Nam - Trung Quốc bước Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 38 vào thời kì mở cửa. Nhân dân hai bên biên giới lại tổ chức hoạt động mậu dịch địa phương, các điểm chợ biên giới, trong đó có điểm chợ Hoành Mô (chợ Hoành Mô lúc đó chỉ có một dãy nhà hàng nhưng chưa thành chợ) bắt đầu hoạt động tấp nập trở lại, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động thương mại của địa phương hai nước. Từ những năm 1991 - 1992, nhất là từ sau khi có cuộc hội đàm về vấn đề phát triển mậu dịch giữa hai tỉnh Quảng Ninh và Quảng Tây, ngày 09/01/1992, hai nước thống nhất mở 03 cặp cửa khẩu gồm Móng Cái - Đông Hưng, Bắc Phong Sinh - Lý Hỏa và Hoành Mô - Động Trung, hoạt động buôn bán biên giới giữa hai nước diễn ra ngày càng sôi động. Năm 2002, nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của huyện Bình Liêu nói riêng và phát triển kinh tế vùng biên giới Việt - Trung của tỉnh Quảng Ninh nói chung, Khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn được thành lập theo Quyết định số 115/2002/QĐ-TTg ngày 13 tháng 9 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động theo Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu biên giới, Quyết định số 33/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế chính sách tài chính đối với khu kinh tế cửa khẩu và các văn bản pháp lý liên quan khác. Ngày 11 tháng 4 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 417/QĐ-TTg công nhận cửa khẩu Hoành Mô là của khẩu chính. Khu kinh tế của khẩu Hoành Mô - Đồng Văn có phạm vi gồm 2 xã là Hoành Mô và Đồng Văn, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Kể từ khi được thành lập đến nay, Khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn từng bước được xây dựng và phát triển, có những đóng góp lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Bình Liêu và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 39 Trong những năm gần đây, lãnh đạo huyện Bình Liêu đặc biệt quan tâm đến phát triển kinh tế cửa khẩu, mở rộng giao lưu buôn bán qua biên giới thông qua việc vận dụng các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với địa bàn có khu kinh tế cửa khẩu. Hiện nay hệ thống kết cấu hạ tầng như đường giao thông, kho tàng, bến bãi đã được đầu tư xây dựng, tạo môi trường thông thoáng để thu hút các tổ chức và cá nhân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Để thúc đẩy hoạt động xuất - nhập khẩu, nhiều công trình dịch vụ xuất nhập khẩu và hoạt động thương mại đã được mở rộng, nâng cấp và xây dựng, gồm: khu vực kiểm hoá, bãi xếp, dỡ và tập kết hàng hoá, nhà kho, bãi đỗ xe, 2 chợ biên giới (Hoành Mô và Đồng Văn), các công trình cung cấp điện, nước và trụ sở các cơ quan quản lý (Cổng Nhà kiểm soát liên ngành, trụ sở chi cục hải quan, thuế vụ, an ninh, kiểm dịch, Ban quản lý cửa khẩu...) có tác dụng hỗ trợ thuận lợi cho thực hiện các dịch vụ xuất-nhập khẩu. Có 4/6 xã biên giới đã được đầu tư xây dựng chợ, tại hai điểm chợ cửa khẩu Hoành Mô và điểm thông quan Đồng Văn, các hoạt động mua bán diễn ra khá sôi động, thu hút được nhiều hộ vào kinh doanh bao gồm cả các hộ kinh doanh người Trung Quốc. Hai chợ biên giới trong khu kinh tế cửa khẩu là chợ Hoành Mô có 173 hộ kinh doanh, trong đó có 25 hộ dân Trung Quốc; chợ Đồng Văn có 86 hộ kinh doanh, trong đó có 18 hộ kinh doanh Trung Quốc. Hai chợ này được nhà nước đầu tư xây dựng vào năm 2000 và 2001, chợ cửa khẩu Hoành Mô là chợ loại 2, diện tích khoảng hơn 5.000 m2 hiện đã xuống cấp, cần được nâng cấp, hiện đại hóa, năm 2006 đã đầu tư 1,85 tỷ đồng để sửa chữa chợ. Chợ Đồng Văn là chợ loại 3, diện tích khoảng 4.000 m2, là chợ trung tâm xã, đáp ứng nhu cầu trao đổi buôn bán và giao lưu văn hóa của đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã Đồng Văn và một bộ phận cư dân Trung Quốc vùng Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 40 giáp biên. Chợ có tính hấp dẫn, mang đậm nét truyền thống và bản sắc dân tộc thiểu số của Quảng Ninh. Chợ Đồng Văn nằm ngay sát đường biên nên hàng hóa của xã gồm nhiều loại lâm sản quý như hoa hồi, quế được xuất khẩu tại chỗ hết sức thuận lợi. Tuy nhiên, công trình chợ Đồng Văn xây dựng đã lâu, quy mô nhỏ, cần được quy hoạch mở rộng, nâng cấp để thúc đẩy phát triển giao lưu, trao đổi hàng hóa của nhân dân biên giới. Nhờ có chính sách phù hợp, những năm qua lượng dân cư biên giới tham gia trao đổi hàng hoá qua biên giới luôn có sự phát triển, hàng hóa trao đổi chủ yếu là hàng tiêu dùng, hoa quả, thực phẩm, nông - lâm sản... Thông qua chính sách đối với cư dân biên giới đã tạo điều kiện cho việc giao lưu, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới được thuận lợi, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho cư dân vùng biên và phù hợp với xu thế hội nhập. Năm 2013 đã có 54.898 người và 5.100 xe container qua lại cửa khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua Khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn (tính đến ngày 15/11/2013) đạt 30,66 triệu USD, trong đó nhập khẩu 4,74 triệu USD, nhập tái xuất 21,19 triệu USD, xuất khẩu 4,42 triệu USD [15, tr.2]. Quá trình giao lưu kinh tế - thương mại diễn ra trên biên giới giữa hai tỉnh Quảng Ninh và tỉnh Quảng Tây -Trung Quốc đã phát triển từng bước các hoạt động thương mại, du lịch, dịch vụ của tất cả các thành phần kinh tế. Đối tượng tham gia buôn bán trên khu vực hai cửa khẩu ngày càng tăng và đa dạng. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông lâm thủy sản: hải sản khô, hải sản đông lạnh, vỏ cây, bông gòn, rong biển... Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là đồ điện tử, điện gia dụng, hàng nội thất, hàng tiêu dùng Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 41 Bảng 2.2: Hoạt động kinh tế qua cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn Nội dung Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Số lượng xe Container (ĐVT: xe) 2.406 1.564 5.956 5.100 Khối lượng hàng hóa (ĐVT: kg) 42.918.778 133.344.230 55.864.396 86.376.000 Những mặt hàng chiếm tỷ trọng cao Thủy sản, đông lạnh, xăng dầu Thủy sản, đông lạnh, xăng dầu Thủy sản, đông lạnh, xe con, xăng dầu, quặng Thủy sản, đông lạnh, xe con, quặng Kim ngạch XNK (ĐVT: Triệu USD) XK: 58,194 NK: 10,579 XK: 163,811 NK: 8,838 XK: 51,764 NK: 48,066 XK: 4,890 NK: 33,353 Người XNC (ĐVT: nghìn người) XC: 6,584 NC: 17,511 XC: 29,215 NC: 29,312 XC: 16,426 NC: 32,035 XC: 19,359 NC: 35,539 Nguồn: [51, tr.87]. 2.3. Địa điểm và thời gian họp chợ Địa điểm họp chợ: Các điều kiện tự nhiên và xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến vị trí được lựa chọn để họp chợ. Xác định vị trí không gian hay địa điểm cụ thể của chợ liên quan đến: địa hình, vị trí địa lí bảo đảm sự thuận tiện về giao thông, về nguồn cung cấp hàng hóa và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó, điều kiện tự nhiên, xã hội không chỉ ảnh hưởng đến chi phí đầu tư xây dựng chợ, mà còn ảnh hưởng đến những lợi ích của chủ thể đầu tư, của nhà kinh doanh, của người tham gia trao đổi mua bán hàng hóa trong chợ cũng như của cả cộng đồng cư dân. Cũng giống như các chợ nông thôn ở khu vực miền núi, các chợ trên địa bàn huyện Bình Liêu cũng được tụ họp tại những nơi là trung tâm huyện, trung tâm của các xã, gần đường giao thông, nơi tập trung dân cư đông đúc và nơi sát đường biên giới với Trung Quốc. Có chợ được xây dựng trên một khoảng đất Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 42 rộng gần đường giao thông thuận tiện cho việc đi lại buôn bán của nhân dân như chợ Trung tâm huyện, hay có chợ ở ngay sát đường biên thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa với nhân dân nước bạn Trung Quốc như chợ Đồng Văn, hay chợ Hoành Mô thì nằm trong khu kinh tế cửa khẩu, và các chợ Lục Hồn, Húc Động, Vô Ngại thì họp ở nơi là trung tâm của xã. Chính vì thế mà ở đây, tên chợ thường gắn với tên xã. Đa số các chợ nông thôn đều lấy theo tên làng hay tên xã. Ở Bình Liêu cũng vậy. Trong số 06 chợ thì có đến 05 chợ lấy theo tên xã: chợ Hoành Mô, chợ Đồng Văn, chợ Lục Hồn, chợ Vô Ngại, chợ Húc Động. Chợ Thị trấn Bình Liêu do nằm ở trung tâm thị trấn nên gọi là chợ Thị trấn. Năm 2010, chợ Trung tâm huyện Bình Liêu được đầu tư xây mới nhằm đáp ứng nhu cầu cần có một trung tâm thương mại, buôn bán hiện đại, khang trang, xứng tầm với sự phát triển của kinh tế trung tâm huyện. Như vậy, tên chợ được đặt theo quy mô thương mại, tính chất và đặc điểm của chợ. Như một điều tất yếu của cuộc sống và sự phát triển của kinh tế - xã hội, chợ nông thôn đã hình thành ở hầu khắp các làng xã để đáp ứng nhu cầu trao đổi, buôn bán hàng ngày của nhân dân tại làng xã đó. Từ những quán chợ lưa thưa, xiêu vẹo, tạm bợ lúc ban đầu, dần dần các chợ đã phát triển lên thành chợ của nhiều làng, thành trung tâm buôn bán của vùng, và những chợ này đều họp ở những nơi thuận tiện về giao thông. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội và cơ sở vật chất của một số xã vùng cao Bình Liêu còn gặp nhiều khó khăn nên các chợ ở một số xã như Lục Hồn, Húc Động, Vô Ngại, Đồng Tâm tuy nằm trong quy hoạch nhưng vẫn là chợ tạm, chưa được xây dựng kiên cố, thuộc sự quản lí của xã và hoạt động thực sự chưa hiệu quả. Về thời gian họp chợ, trước đây chợ ở Bình Liêu thường họp theo phiên, chợ phiên Bình Liêu thường họp vào ngày lẻ (3, 7, 11, 15, 17) trong tháng Ba Âm lịch hàng năm. Ngày nay, do điều kiện kinh tế của nhân dân trong vùng khấm khá lên, nhu cầu mua bán nhiều hơn nên chợ chuyển sang họp hàng ngày Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 43 và thường nhộn nhịp nhất vào những ngày chủ nhật hàng tuần, lễ tết [38, tr.4]. Đặc biệt, tại chợ huyện, cứ đến ngày 16/3 Âm lịch hàng năm lại diễn ra ngày hội tháng Ba (hội hát Soóng Cọ) của người Sán Chỉ. Hay tại chợ Đồng Văn, vào ngày 04/4 Âm lịch hàng năm, bà con dân tộc Dao lại nô nức đi “chợ tình” trong “ngày kiêng gió” và cùng nhau hát đối, chơi các trò chơi dân gian. Hàng ngày, chợ Trung tâm huyện mở cửa từ 7h đến 17h, còn chợ Hoành Mô và chợ Đồng Văn thời gian hoạt động từ 6h đến 18h. Các chợ xã thì ngày nào cũng họp vào buổi sáng hoặc chiều hôm nhưng rất vắng vẻ và thưa người. Trước ngày có chợ phiên, để chuẩn bị về phiên chợ huyện, nam nữ thường chuẩn bị một bộ quần áo thật đẹp vì đối với họ, về chợ là một ngày hội, là dịp để họ vui chơi giải trí, gặp gỡ bạn bè sau những ngày lao động mệt nhọc. Như vậy, với việc hình thành một mạng lưới chợ và họp hàng ngày như vậy, bất cứ người dân nào, ở bất cứ xã nào, trong bất cứ ngày nào cũng có thể đến chợ để trao đổi hàng hóa. Tuy vậy, ở Bình Liêu, chợ chỉ nhộn nhịp vào thứ bảy, các ngày phiên chủ nhật hoặc lễ tết, nhất là chợ Trung tâm huyện. Tổ chức quản lí chợ: Ban quản lí chợ Bình Liêu được thành lập năm 2000 theo Quyết định số 443QĐ/UB của UBND huyện Bình Liêu và Quyết định số 3348/QĐ-UB của UBND tỉnh Quảng Ninh. Tổ chức bộ máy quản lí chợ biên chế 24 người, chia làm 04 bộ phận và tổ chợ: - Bộ phận văn phòng: 05 người, trong đó 03 lãnh đạo (01 Trưởng ban và 02 Phó ban); 01 kế toán; 01 thủ quỹ, thủ kho kiêm hành chính tạp vụ. - Tổ chợ Đồng Văn: 06 người: 01 tổ trưởng, 01 tổ phó, 04 nhân viên thu phí chợ, bảo vệ, vệ sinh môi trường. - Tổ chợ Hoành Mô: 08 người, 01 tổ trưởng do phó ban kiêm, 02 tổ phó và 06 nhân viên thu phí, bảo vệ, PCCC, vệ sinh môi trường. - Tổ chợ Thị trấn: 05 người, 01 tổ trưởng và 04 nhân viên thu phí, bảo vệ, PCCC, vệ sinh môi trường. Sau khi chợ Trung tâm huyện Bình Liêu hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 2014, Ban quản lí chợ ngoài biên chế cũ 24 người, nay nhận hợp đồng mới Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 44 05 người. Cơ cấu tổ chức Ban quản lí chợ như sau: Trưởng ban phụ trách chung, 01 Phó ban phụ trách trực tiếp chợ Trung tâm huyện, 01 Phó ban phụ trách trực tiếp chợ Hoành Mô và chợ Đồng Văn. Cơ cấu bộ máy các tổ chợ Đồng Văn và Hoành Mô, bộ phận văn phòng vẫn giữ nguyên như cũ, cơ cấu bộ máy tổ chợ mới Trung tâm huyện được bố trí như sau: Tổng số cán bộ công nhân viên là 10 người (gồm 05 người của tổ chợ Thị trấn cũ và 05 người mới hợp đồng), 01 tổ trưởng phụ trách chung; 01 tổ phó phụ trách bảo vệ, an ninh trật tự, PCCC; 01 người thu phí các loại; 04 người bảo vệ ngày đêm; 02 người vệ sinh môi trường; 01 người phụ trách điện, nước; bộ phận dịch vụ trông giữ xe, dịch vụ khác sẽ hợp đồng khoán thu. Trong những năm qua, Ban quản lí chợ đã thường xuyên chỉ đạo tăng cường công tác khai thác quản lí chợ, tăng cường công tác PCCC, an ninh trật tự, vệ sinh môi trường và công tác thu phí, lệ phí theo quy định trên địa bàn chợ và đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc tuyên truyền phổ biến pháp luật và kiến thức về chợ đã được đẩy mạnh, thực hiện nghĩa vụ đối với các hộ kinh doanh được nâng cao. 2.4. Hoạt động mua bán ở chợ 2.4.1. Thành phần mua bán Một điều có thể dễ dàng nhìn thấy là chợ ở nông thôn thường là trung tâm kinh tế thu hút người và hàng hóa trong vùng. Việc hệ thống chợ được mở rộng là kết quả trực tiếp của quá trình tăng nhanh số lượng người tham gia mua bán ở nông thôn và hoạt động buôn bán trở thành hiện tượng phổ biến trong tất cả các thành phần dân cư. Sự đổi mới, mở cửa và phát triển của nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng lớn, số người đi chợ mua bán và trao đổi sản phẩm đông hơn rất nhiều. Bởi vậy, ở Việt Nam, chợ không chỉ có ý nghĩa về mặt buôn bán, trao đổi hàng hóa mà còn là nơi để người ta gặp gỡ, trò chuyện, giao lưu với nhau. Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 45 Chợ ở Bình Liêu cũng có ý nghĩa như vậy. Trong những ngày phiên ở chợ huyện, một số lượng lớn người ở khắp nơi về mua bán, trao đổi hàng hóa. Hầu hết những người tham gia mua bán là cư dân trong huyện và các huyện lân cận. Ở đó, có những người buôn bán chuyên nghiệp, có hàng quán cố định và phải đóng thuế hàng tháng như: hàng tạp hóa, hàng vải, hàng quần áo, hàng lương thực, thực phẩm Những người nông dân mang sản vật của gia đình, của địa phương, sản phẩm họ sản xuất ra đến chợ để bán, lúc về mua sắm một vài thứ cần thiết cho sản xuất và đời sống hàng ngày của họ. Họ trao đổi qua lại với nhau, người dân là người sản xuất nhưng cũng đồng thời là người tiêu thụ hàng hóa, góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của một miền quê. Cũng xuất phát từ nền kinh tế tiểu nông, nhỏ lẻ, một số nông dân trong lúc nông nhàn đã tranh thủ thời gian để đi chợ, “đòn gánh đè vai, lấy công làm lãi”, mặc dù thu nhập ít nhưng cũng có thể trang trải cho cuộc sống gia đình. Hoặc một số nhà đông người, thừa nhân lực trong việc đồng áng, họ cũng dành dụm ít vốn để đi chợ, kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Tuy nhiên, thành phần này ở các chợ Bình Liêu chỉ chiếm số lượng ít. Như vậy, tập quán kết hợp nông nghiệp, thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ mang nặng tính chất tự sản tự tiêu trong mỗi gia đình, mỗi làng xã ở Bình Liêu có thể coi là hiện tượng phổ biến. Sản xuất nông nghiệp do không sử dụng hết thời gian và khả năng lao động của người nông dân, nên những lúc nông nhàn họ thường làm thêm một số ngành nghề khác, nhất là nghề thủ công, họ đã trở thành thợ thủ công. Bên cạnh đó cũng có một số gia đình chuyên làm nghề thủ công như đan lát, rèn sắt, thêu thùa, làm miến dong, nuôi ong mật Họ đem những sản phẩm này của gia đình đi bán, trao đổi, họ trở thành thương nhân. Tuy nhiên, mức độ tham gia thị trường của họ chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ bởi họ là những người sản xuất nhỏ, nghề chính của họ là nông nghiệp, những người nông dân kiêm thợ thủ công, hoặc thợ thủ công kiêm thương nhân, thậm chí một người có thể kiêm ba chức năng nông dân - thợ thủ công - thương Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 46 nhân. Ngoài ra cũng có một số người buôn bán chuyên nghiệp, buôn bán đường dài, họ là những người chuyên đi thu mua sản phẩm của những người nông dân, mua hàng hóa bên Trung Quốc về để buôn bán kiếm lời, song số thương nhân này cũng không nhiều. Nhìn chung, trong hoạt động của mạng lưới chợ ở huyện Bình Liêu, sự tham gia của người nông dân vẫn đông đảo nhất. Họ chủ yếu bán những sản phẩm nông nghiệp do chính tay họ làm ra hay kiếm được trên rừng và mua về những sản phẩm mà họ không tự sản xuất được và một số nông cụ như cày, bừa, cuốc, xẻng, dao hay những mặt hàng thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày như quần áo, mắm, muối, dầu Tầng lớp thương nhân ở đây, tuy số lượng ít nhưng họ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc luân chuyển hàng hóa từ nơi này sang nơi khác. Những người thương nhân này phần lớn xuất thân từ nông dân hoặc trong gia đình có truyền thống buôn bán từ trước, hay một số là người Kinh ở dưới xuôi lên. Ban đầu họ buôn bán nhỏ, hoạt động ở một địa bàn nhỏ hẹp. Nhưng dần về sau, họ tích lũy thêm được vốn và kinh nghiệm, nhận thấy làm ăn có lãi nên trở thành những người buôn bán chuyên nghiệp. Họ lấy hàng từ chợ đầu mối, hay những sản vật từ các hộ nông dân, hoặc họ qua biên giới sang bên Trung Quốc lấy hàng về bán lại cho các cửa hàng, các chợ trong địa bàn huyện hoặc những nơi, những người có nhu cầu. Hoạt động của tầng lớp thương nhân này đã có tác động tích cực tới sự phát triển của chợ, và ngược lại, sự phát triển của chợ cũng giúp họ mở rộng hơn hoạt động buôn bán của mình. Nói người nông dân vừa là thợ thủ công, vừa là thương nhân không có nghĩa là tất cả mọi người trong gia đình, trong xóm làng nông thôn cùng một lúc đều đi buôn, mà ở đây, người buôn chủ yếu là phụ nữ. Thành phần buôn bán ở chợ trên địa bàn huyện Bình Liêu cũng vậy, phụ nữ chiếm đa số. Trong gia đình người nông dân Việt Nam xưa, người chồng đứng ra gánh vác trách nhiệm xã hội (như việc làng, đi phu, đi lính) hay làm các công việc nặng Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 47 nhọc của nghề nông. Còn người vợ là người tề gia nội trợ, người nắm tay hòm chìa khóa, giữ chức quản lí kinh tế gia đình. Một người nước ngoài - Dumoutier đã quan sát chợ cách nay vài thế kỷ thấy “cứ trong 100 người đi chợ, người ta đếm được 84 người là đàn bà, con gái”[27, tr.74]. Hiện nay cũng thế. Đây là sự phân công tự phát dựa trên cơ sở tuổi tác, sức khỏe và giới tính. Theo sự phân công này, người vợ phải đứng ra điều tiết mọi hoạt động kinh tế của gia đình, bổ sung cho phần kinh tế chưa hợp lí do nguồn lợi ruộng đất và lao động nông nghiệp đem lại. Và người phụ nữ chính là lực lượng đảm nhiệm công việc buôn bán, kiếm thêm thu nhập. Có thể thấy, chính người phụ nữ mang lại cho gia đình một phần thu nhập không phải là không đáng kể, dưới dạng tiền mặt, người đàn bà tiểu thương Việt sống một phần kha khá thời gian của mình ngoài chợ. Và do là người đảm nhiệm công việc tề gia nội trợ trong gia đình nên người phụ nữ phải ra chợ để mua bán những thứ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, mua cho con cái họ tấm áo mới hay sách vở để tới trường. Do là huyện miền núi biên giới, nơi có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống nên thành phần mua bán ở các chợ cũng hết sức đa dạng. Các đồng bào dân tộc Tày, Dao, Sán Chỉ, Kinh, Hoa không chỉ xuống chợ để đem bán những nông sản dư thừa của gia đình, mua về những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống mà họ còn xuống chợ để chơi, để gặp gỡ, giao lưu với nhau, nhất là vào dịp lễ tết và đặc biệt là trong ngày hội 16/3 hay “ngày kiêng gió” mồng 04/4. Nhu cầu “chơi chợ” đã trở thành một nét đặc sắc trong đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc nơi đây. Do vậy, trong những ngày này, chợ ở Bình Liêu thường tập trung đầy đủ các thành phần, lứa tuổi, từ nam nữ thanh niên, đàn ông, đàn bà, các cụ già và cả những em nhỏ. Khi lớp sương mù còn che phủ bản làng, trên các sườn núi , đã thấy thấp thoáng các chàng trai cô gái Dao, Sán Chỉ í ới gọi nhau đi xuống phiên chợ huyện. Khắp nẻo đường gần xa, các cô, các chị địu con trên lưng, tay cầm những nải chuối vàng ươm, những cây măng to tròn cũng đang tất tả ngược xuôi xuống chợ. Những đứa Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 48 trẻ quanh năm chỉ biết đến góc núi, con chim, cây rừng, nay được mẹ dẫn xuống chợ mua quần áo mới thì mở to đôi mắt nhìn hết chỗ này đến chỗ khác như chưa bao giờ đến chỗ phồn hoa đông đúc Những phiên chợ vùng cao Bình Liêu không chỉ thu hút sự tham gia của các thành phần cư dân trong huyện mà cả đồng bào các dân tộc Tày, Dao, Sán Chỉ tại các thôn bản của các huyện lân cận như Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà và cả những người buôn bán từ dưới xuôi lên hay từ khu Đồng Tông - Trung Quốc cũng đến chợ Bình Liêu để buôn bán: “Khách buôn người Kinh từ Kẻ Chợ đến Khách buôn người Hoa từ Quảng Tây sang” [46, tr.136]. Như vậy, thành phần mua bán trong hệ thống các chợ ở Bình Liêu hết sức đa dạng, gồm mọi lứa tuổi và mọi thành phần, cả người trong huyện, ngoài huyện và cả những người bên Trung Quốc sang. Đây có thể coi là một nét đặc sắc của các phiên chợ vùng cao biên giới. 2.4.2. Phương thức mua bán Đo lường là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xác định tính chất công bằng trong kinh doanh hàng hóa nói chung và mua bán ở chợ nói riêng. Các cách thức đo lường từ xa xưa đã được giới thương nhân trong dân gian tự đặt ra và chấp thuận, họ mang ra sử dụng như một quy tắc bất thành văn, người mua, người bán cứ theo như thế mà tính toán, đo lường. Cùng với sự thay đổi của đất nước sau thời kì đổi mới, việc buôn bán trong các chợ ở Bình Liêu cũng có những thay đổi về đơn vị đo lường. Hãy xem phương thức mua bán ở một chợ điển hình là chợ Trung tâm huyện Bình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_mang_luoi_cho_nong_thon_o_huyen_binh_lieu_tinh_quan.pdf
Tài liệu liên quan