Luận văn Mô hình du lịch vì người nghèo tại vườn quốc gia Cúc Phương

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

4 . Phương pháp nghiên cứu 3

4.1. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin số liệu 3

4.2. Phương pháp khảo sát thực địa 4

4.3. Phương pháp điều tra xã hội học 4

5. Đóng góp của luận văn 4

6. Nội dung luận văn 5

6. Nội dung luận văn 5

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DU LỊCH VÌ NGƯỜI NGHÈO 6

1.1. Người nghèo 6

1.1.1. Khái niệm 6

1.1.2. Nguyên nhân 7

1.1.3. Chuẩn đói nghèo 10

1.2. Vai trò của du lịch tới công cuộc xoá đói giảm nghèo 12

1.3. Du lịch vì người nghèo 17

1.3.1. Khái niệm 17

1.3.2. Các phương thức của du lịch vì người nghèo 21

1.3.3. Kinh nghiệm phát triển du lịch vì người nghèo tại một số quốc gia 22

1.3.3.1. Kinh nghiệm phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của Thái Lan [29] 22

1.3.3.2. Kinh nghiệm về việc đảm bảo mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư trong phát triển du lịch cộng đồng ở Indonesia [28] 24

1.3.3.3. Kinh nghiệm về tổ chức, quản lý hoạt động và chia sẻ lợi ích từ du lịch tới cộng đồng dân cư địa phương thông qua loại hình du lịch ở nhà dân của Paraguay và Uruguay [21,48] 25

Tiểu kết chương I 38

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI CÚC PHƯƠNG 39

2.1. Tài nguyên du lịch 39

2.1.1. Vị trí địa lý 39

2.1.2. Tài nguyên sinh vật 40

2.1.3. Khí hậu, thuỷ văn- địa hình 42

2.1.4. Các yếu tố văn hóa, lịch sử 43

2.1.5. Các tuyến điểm tham quan 44

2.2. Hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở kỹ thuật phục vụ du lịch 45

2.3. Nguồn nhân lực 47

2.4. Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch của VQG Cúc Phương từ năm 2002 đến năm 2006 48

2.4.1. Số lượng khách 48

2.4.2. Doanh thu 50

2.5. Vai trò của cộng đồng dân cư địa phương đối với hoạt động du lịch tại Cúc Phương 51

2.5.1. Khái quát về cộng đồng địa phương tại Cúc Phương 51

2.5.2. Thực trạng hoạt động du lịch cộng đồng tại Cúc Phương 58

2.5.3. Những vấn đề đặt ra cho hoạt động du lịch cộng đồng tại Cúc Phương 64

Tiểu kết chương II 67

CHƯƠNG III. XÂY DỰNG TỔ HỢP DU LỊCH NHẰM XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI CÚC PHƯƠNG 68

3.1. Mục đích 68

3.2. Cấu trúc của tổ hợp 70

3.3. Nguồn nhân lực 75

3.3.1. Nguồn lao động 75

3.3.2. Đào tạo nguồn nhân lực 75

3.3.2.1. Nội dung đào tạo: 76

3.3.2.2. Các hình thức đào tạo 78

3.4. Đầu tư 80

3.4.1. Các hạng mục đầu tư chủ yếu 80

3.4.1.1. Cơ sở hạ tầng 80

3.4.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật 80

3.4.1.3. Phương tiện vận chuyển 81

3.4.2. Nguồn vốn đầu tư 81

3.4.2.1. Từ ngân sách 81

3.4.2.2. Từ hỗ trợ của các tổ chức quốc tế 82

3.4.2.3. Từ các tổ chức tập thể và cá nhân trong và ngoài nước 82

3.5. Phương án hoạt động 83

3.6. Quan hệ giữa tổ hợp du lịch với VQG Cúc Phương 85

3.7. Công tác quảng cáo 87

3.8. Kiến nghị 88

* Chính sách cho vay vốn ưu đãi 88

* Hỗ trợ và hợp tác của Ban Du lịch VQG Cúc Phương 89

* Nâng cao nhận thức của cư dân 89

* Về chương trình đào tạo 90

Tiểu kết chương III 91

KẾT LUẬN 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO 93

Tài liệu tiếng Việt 93

Tài liệu tiếng nước ngoài 95

Phụ lục 96

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH ẢNH VÀ BIỂU ĐỒ 103

HỆ THỐNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT 104

LỜI CẢM ƠN 105

 

doc109 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mô hình du lịch vì người nghèo tại vườn quốc gia Cúc Phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cao thu nhập, cải thiện cuộc sống thông qua phát triển hoạt động du lịch cho những người dân sống tại các vùng nông thôn, các vùng sâu vùng xa - những nơi khó có điều kiện phát triển kinh tế như những vùng khác. Như vậy, trong bối cảnh các quốc gia, khu vực đang có nhiều nỗ lực đẩy lùi vấn đề nghèo đói như hiện nay thì du lịch sẽ là một công cụ hữu hiệu nhằm giúp người dân nghèo có thể đẩy nhanh được vấn nạn này thông qua quá trình tham gia của họ vào quá trình hoạt động phục vụ du lịch. Chương II. Thực trạng hoạt động du lịch tại Cúc Phương 2.1. Tài nguyên du lịch 2.1.1. Vị trí địa lý Hình 2.1: Sơ đồ vị trí địa lý của vườn quốc gia Cúc Phương Cách thủ đô Hà Nội 120 km về phía Nam, nằm lọt sâu trong lòng dãy núi Tam Điệp, với diện tích 22.200 ha nằm trên địa phận ba tỉnh Ninh Bình, Hoà Bình và Thanh Hoá - Cúc Phương là một khu rừng nguyên sinh còn sót lại trên dãy núi đá vôi nằm gần kề châu thổ sông Hồng. Đây là khu rừng nguyên sinh nhiệt đới và á nhiệt đới có nhiều cây lâu năm, nhiều loại chim thú quý hiếm, có những vết tích lịch sử của nhiều đại địa chất ở nước ta. Do có giá trị cao về tự nhiên, lại giữ được tính chất nguyên sinh nhất ở Việt Nam nên Cúc Phương đã trở thành cơ sở nghiên cứu khoa học, thực tập về thực vật, động vật và lâm học nhiệt đới. Ngày 7/7/1962 Chính phủ đã phê duyệt khu rừng cấm Cúc Phương là VQG đầu tiên của Việt Nam. Ngoài mục đích bảo vệ nguồn gen, phục vụ nghiên cứu khoa học, VQG Cúc Phương còn là điển hình về cảnh quan rừng nhiệt đới có giá trị tham quan du lịch, giải trí nghỉ ngơi cho du khách. 2.1.2. Tài nguyên sinh vật Cúc Phương có đặc trưng là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm. Với diện tích nhỏ, chỉ bằng 1/1500 lần diện tích của cả nước nhưng đã phát hiện được 1983 loài thực vật, chiếm 17,27% trong tổng số loài thực vật của Việt Nam. Bước vào rừng già nguyên thuỷ Cúc Phương con người cảm thấy sững sờ, nhỏ bé khi lạc vào thế giới hoang sơ đậm màu xanh kỳ vĩ trường tồn. Hàng chục người ôm mới hết chu vi những cây đại thụ tuổi ngàn năm cao trọc trời từ 45 đến 75 mét, sống âm thầm trước bão táp nắng mưa mà trở lên khổng lồ. Để đứng vững chúng phải có bộ rễ thật đồ sộ, phần chìm sâu dưới lòng đất, phần nổi dựng đứng như thành, chạy dài hàng chục mét như cây đăng cổ thụ cao 45m, đường kính 5m; cây Vù hương cao 45m, đường kính 2,5m; cây Chò chỉ cao 70m, đường kính 1,5m; cây sấu cổ thụ cao 45m, đường kính 2,5m với hệ thống bạnh vè cao chừng 10m chạy dài 20m tựa như bức tường thành; cây Chò xanh ngàn năm cao 45m, chu vi gốc 25m. Có những loài không phải là cây gỗ lớn, không thuộc tầng rừng nào, chúng sống nương nhờ trên thân cây khác, đó là các loài tổ diều, phong lan, tầm gửi. Rừng nhiệt đơi là xứ sở huyền diệu của các loài phong lan với hoa lạ, rất thanh tao, quý phái được ví như những cô gái kiều diễm tô hương sắc trong rừng. Hệ dây leo trong VQG Cúc Phương cũng muôn hình, muôn vẻ, chúng trườn từ cây này sang cây khác như những con trăn khổng lồ. Giống như các loài phong lan, tổ diều, các loài dây leo mềm yếu cũng phải dựa vào cây chủ, cắm chân từ mảnh đất ẩm ướt, vươn ngọn quấn quanh cây chủ mà leo dần để đón ánh mặt trời. Khác với loài dây leo lại có loài cây ống bội bạc làm sao, chúng sinh ra từ trên thân cây khác và thả rễ quấn quanh thân cây chủ, khi rễ bám đất chúng phát triển rất nhanh rồi bóp chết cây củ bằng bộ rễ khổng lồ - người ta gọi đó là loài Đa bóp cổ, một hiện tượng quái dị trong thế giới thực vật vô chi, vô giác. Thế mới biết cuộc sống sinh tồn của cỏ cây cũng cam go khốc liệt, thế giới thực vật vô cùng phong phú như vô tận, chứa đựng biết bao điều bí ẩn. Chẳng thua kém thế giới thực vật, khu hệ động vật Cúc Phương cũng rất đa dạng và phong phú. Theo số liệu điều tra mới nhất Cúc Phương có 89 loài thú, 307 loài chim, 110 loài bò sát và lưỡng cư, 65 loài cá và gần 2000 loài côn trùng. Trong các loài thú của Cúc Phương, nhiều loài đã được xếp vào loại quý hiếm như báo gấm, báo lửa, gấu ngựa... và nhiều loài đặc hữu của Cúc Phương như sóc bụng đỏ... Sống trên núi đá vôi phổ biến là các loài linh trưởng như khỉ mặt đỏ, khỉ vàng, vượn, voọc, ban ngày chúng lang thang kiếm ăn, đêm về trú ngụ trong hang động. ở Cúc Phương có một loài thú linh trưởng rất đẹp, ngoài Việt Nam chúng không còn tồn tại nơi nào khác trên thế giới, đó là loài Voọc mông trắng - một báu vật của tạo hoá, loài voọc này đã được chọn làm biểu tượng của VQG Cúc Phương. Cúc Phương còn là nơi cư trú của nhiều loài chim nhiệt đới và nhiều sắc lông, kích cỡ, âm thanh, giọng hót.... Từ mờ sáng đến chiều tối rừng già vang lên không dứt bản hoà tấu của các loài chim. Trong tổng số 307 loài, Cúc Phương có nhiều loài chim quý hiếm chẳng hạn như gà lôi trắng, chim gõ kiến đầu đỏ, chim phượng hoàng đất đuôi cụt, bụng vằn.... Chính vì vậy, Cúc Phương được chọn là một trong những điểm lý tưởng để các nhà khoa học trong nước và trên thế giới tham quan và nghiên cứu về các loài chim. Thế giới côn trùng Cúc Phương cũng đa dạng và muôn hình muôn vẻ. Trước những kẻ thù, các loài côn trùng nhỏ bé yếu đuối, chỉ có cách ẩn mình trốn tránh. Có loài được tạo hoá cho phép tàng hình, như loài bọ lá thân hình giống như chiếc lá tươi khi chúng ẩn mình hoà vào cỏ cây thì khó có đôi mắt tinh tường nào biết được. Có loài bọ que giống hệt cành cây nhỏ, khẳng khiu, ngộ nghĩnh, đây cũng thực sự là những kiệt tác của tạo hoá. Mùa bướm nở, rừng già như trẻ lại tưng bừng lấp lánh ngàn vàng, bướm nhiều vô kể đủ dạng, đủ mầu phơi bày như một bức tranh kỳ ảo. Bởi vậy, Cúc Phương được chọn là điểm đến của nhiều du khách trong những kỳ nghỉ hè. Hình 2.2: Hệ động thực vật trong vườn quốc gia Cúc Phương 2.1.3. Khí hậu, thuỷ văn- địa hình Cúc Phương thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự phân hoá theo mùa. Do có thảm thực vật dày, cùng với địa hình tương đối cao nên nhiệt độ ở đây luôn thấp hơn các vùng xung quanh. Nhiệt độ bình quân 22,50C. Lượng mưa dao động từ 1700 - 2200mm, độ ẩm tương đối cao bình quân 85% và khá đều trong năm. Một năm có hai mùa rõ rệt, mùa mưa (từ tháng 5-11) và mùa khô hanh (từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau). Khoảng 3/4 diện tích Cúc Phương là núi đá vôi cao trung bình 300 - 400m. Hai dãy núi cao chạy song song ở giữa là một thung lũng mở rộng về phía Tây Bắc, hẹp dần về phía Đông Nam. Nhiều đỉnh núi cao như đỉnh Mây Bạc, đỉnh Kim Giao... Thuộc dạng điạ hình kartơ nửa che phủ, Cúc Phương nằm trọn trong cảnh địa lý đồi kartơ xâm thực, tạo nên các hang động đẹp. Các hang động ở Cúc Phương có thể khai thác cho tham quan, nghiên cứu như: động Người Xưa, động Trăng Khuyết... 2.1.4. Các yếu tố văn hóa, lịch sử Từ xa xưa, Cúc Phương còn là nơi cư trú và sinh sống của đồng bào Mường với những nét văn hoá riêng. Đó là những nếp nhà sàn, những trang phục, những phong tục tập quán, lễ hội cồng chiêng, những điệu hò... mang đậm sắc thái văn hoá dân tộc Mường. Hình 2.3: Nhà sàn của người dân tộc Mường tại Cúc Phương Năm 2000, Cúc Phương đã phát hiện một hoá thạch động vật xương sống. Hoá thạch lộ ra trong đá vôi phân lớp dầy, thuộc hệ tầng Đồng Giao tuổi trias giữa. Theo kết luận ban đầu của Viện Cổ sinh học Việt Nam, đây là hoá thạch của một loài Placodontia (Bò sát răng phiến) sống cách ngày nay chừng 200 đến 230 triệu năm và là hoá thạch lần đầu tiên tìm thấy ở Đông Nam á. Như vậy, hoá thạch của loài bò sát, các dấu tích của Động người xưa, hang con Moong, cuộc sống của cư dân dân tộc Mường thực sự là một trang văn hoá, lịch sử độc dáo và có giá trị của Cúc Phương. Những cứ liệu này đã bổ sung cho kho tàng văn hoá, lịch sử và khoa học Cúc Phương, đặc biệt cho ta rõ thêm bề dày lịch sử thiên nhiên và con người trên mảnh đất Cúc Phương này. 2.1.5. Các tuyến điểm tham quan Các điều kiện tự nhiên, sự hấp dẫn của các cảnh quan rừng nhiệt đới nguyên sinh với sự phong phú, đa dạng về hệ thực - động vật, các đối tượng tự nhiên, lịch sử, văn hoá và các cảnh quan độc đáo đã tạo nên các điểm tham quan điển hình trong VQG Cúc Phương. Các điểm hấp dẫn về tự nhiên, văn hoá, lịch sử đã được kết hợp với nhau tạo thành các tuyến tham quan. Hiện VQG Cúc Phương đã hình thành 5 tuyến tham quan chính: - Tuyến thứ nhất: Khu đón khách - Động Người xưa - Cây Đăng đại thụ (Đây là tuyến gần nhất, xuất phát từ khu đón khách, theo đường ôtô vào trung tâm, cách cổng vườn khoảng 7km, bên phải là lối vào Động Người xưa. Trở lại đường ôtô đi thêm 2km, phía bên trái có lối mòn đến cây Đăng Đại thụ). - Tuyến thứ hai: Khu đón khách - hồ Yên Quang - hang Phò Mã giáng (tuyến này theo đường ôtô ngược khoảng 7km trở ra phía Nho Quan qua dốc sườn bò, rẽ bên trái đường để đi vào hồ Yên Quang. Qua con đường đê ngăn giữa hồ 3 và hồ 2, vượt dốc Quên lá, qua thung lũng rộng sẽ dần tới chân núi có hang Phò Mã giáng - Tuyến này có thể kết hợp du thuyền, câu cá, ngắm cảnh, xem chim). - Tuyến thứ ba: Khu trung tâm Bống - đỉnh Mây Bạc (xuất phát từ trung tâm vườn, theo đường mòn đi bộ 3km, qua nhiều đồi dốc, vượt các vách đá khá mạo hiểm để lên đỉnh Mây Bạc - đỉnh cao nhất VQG Cúc Phương. Tuyến này giành cho nững người có sức khoẻ ưa mạo hiểm và ngắm cảnh thiên nhiên từ độ cao phủ đầy mây trắng. Trên tuyến có thể gặp một số loài động vật và nhiều loài thực vật trên núi đá vôi). - Tuyến thứ tư: Khu trung tâm Bống - Cây Chò Chiến thắng - Cây Chò ngàn năm - động Thuỷ Tiên. (Từ khu B, trung tâm Bống đi bộ 3km theo đường mòn để đến cây Chò ngàn năm. Trên đường đi du khách có thể tham quan cây chò chỉ, cây chò chiến thắng, các loại dây leo đại thụ. Đi thêm khoảng 500m nữa là đến Động Thuỷ Tiên với cảnh sắc huyền ảo). - Tuyến thứ năm: Trung tâm Bống - Cây sấu đại thụ - Sông Bưởi - Thác Giao Thuỷ - bản Mường. Ngoài ra, còn có những đặc điểm tham quan khác như: Đỉnh Kim Giao, động Trăng Khuyết, động Con Moong, khu nuôi động vật bán hoang dã, vườn thực vật, trung tâm cứu hộ động vật.... 2.2. Hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở kỹ thuật phục vụ du lịch Để đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách du lịch, những năm vừa qua, VQG Cúc Phương đã không ngừng xây dựng và cải tạo hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của du khách. Cụ thể: * Về dịch vụ lưu trú Hiện tại, Ban Du lịch VQG Cúc Phương có tổ chức 3 cơ sở lưu trú ở 3 khu vực: Cổng vườn, khu Hồ Mạc và khu Trung tâm vườn, với tổng số 67 phòng với tổng sức chứa khoảng 332 chỗ nghỉ. Trong đó có: 51 phòng đôi, 6 phòng đơn, 6 phòng 4 giường và 4 nhà sàn tập thể theo kiểu truyền thống của người Mường, mỗi nhà có thể nghỉ được 40 người. Các cơ sở lưu trú này đã được Sở Du lịch Ninh Bình công nhận là nhà nghỉ đủ tiêu chuẩn đón khách. Để đáp ứng nhu cầu lưu trú của du khách ngày càng tốt hơn, năm 2007 VQG Cúc Phương đã tiến hành sửa chữa, nâng cấp toàn bộ những dãy nhà nghỉ đã xuống cấp và bổ sung thêm trang thiết bị như điều hoà, tivi, tủ lạnh... Đồng thời, các điều kiện về an toàn, phòng chống cháy nổ cũng được duy trì tốt. Bảng 2.1: Mức cung ứng dịch vụ lưu trú ở VQG Cúc Phương Loại phòng Trang thiết bị Số lượng Khu cổng vườn Khu trung tâm Nhà luồng - Phòng đôi, khép kín - Điều hoà, Tivi 01 04 Căn hộ khép kín (Khu hồ Mạc) - Phòng đôi - Khép kín 04 Nhà cấp III - Phòng đôi, khép kín - Điều hoà, tivi, tủ lạnh 04 - Phòng đôi, khép kín - Điều hoà, tivi 24 Nhà cấp III (Khumôi trường) - Phòng đôi, khép kín - Điều hoà, tivi, tủ lạnh 03 - Phòng đôi, khép kín - Quạt, tivi 01 Căn hộ khép kín (Khumôi trường) - 04 giường - Quạt - Vệ sinh chung 06 Nhà sàn - Phòng đôi 05 05 - Phòng đơn 02 04 Nhà sàn tập thể - 30 -40 người 04 01 Nhà hai tầng B - 04 giường đơn 07 Nhà trại - 15 người 05 (Nguồn: Số liệu thống kê, Ban Quản lý Du lịch VQG Cúc Phương, 2007) * Về dịch vụ ăn uống và bán hàng Hai khâu này hiện vẫn được thực hiện khoán quản theo các nhóm nhỏ. Ban du lịch có 05 nhà hàng ăn uống và 05 quầy bán hàng lưu niệm đặt ở 03 khu nhà nghỉ. Về cơ sở vật chất tuy không hiện đại, nhưng luôn đảm bảo khang trang sạch sẽ, đội ngũ nhân viên phục vụ hầu hết đã qua đào tạo nhưng tính chuyên nghiệp trong kinh doanh chưa cao. Khâu dịch vụ ăn uống đã đáp ứng được 100% nhu cầu đặt ăn của các đoàn khách đến tham quan, kể cả ở giữa khu rừng. Sự đa dạng và chất lượng của món ăn tuy chưa cao nhưng giá cả hợp lý và luôn đảm bảo tốt về vệ sinh an toàn thực phẩm, không để xảy ra vụ việc ngộ độc thức ăn hay sử dụng thực phẩm kém chất lượng. Tiệc đứng, lửa trại ở Cúc Phương hiện nay đang là một hoạt động hấp dẫn, thu hút nhiều đoàn khách trong và ngoài nước. Các quầy bán hàng lưu niệm và nước giải khát đã tạm đủ để phục vụ du khách, mặc dù xa khu dân cư, thiếu sự cạnh tranh nhưng số lượng và chất lượng mặt hàng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. Các quầy đều thống nhất bán chung một giá, các mặt hàng được niêm yết giá cả công khai và hoàn toàn không có hiện tượng chèo kéo, ép mua hoặc bóp chẹt về giá cả. 2.3. Nguồn nhân lực Tổng số lao động trong Ban Du lịch của vườn là 35 người, trong đó biên chế là 8 người, lao động hợp đồng không thời hạn là 21 người, hợp đồng công việc là 6 người, ngoài ra thuê khoán 5 người lao động theo ngày để làm những công việc không ổn định. Nhìn chung, trình độ nhân viên của vườn chưa đồng đều: - Trình độ đại học là 9 người, trong đó tốt nghiệp các chuyên ngành Lâm nghiệp: 5 người; Du lịch: 1 người; Ngoại ngữ: 1 người và Kinh tế 2 người. - Trình độ trung cấp là 10 người, trong đó tôt nghiệp chủ yếu là Trung cấp lâm nghiệp và 1 người tốt nghiệp chuyên ngành du lịch. - Trình độ sơ cấp là 15 người chủ yếu là các ngành nghề buồng, bàn, nấu ăn, hướng dẫn và số còn lại là lao động phổ thông. Qua số liệu trên cho thấy thực trạng chất lượng lao động của Ban du lịch còn một số tồn tại sau: về số lượng thì còn mỏng; về trình độ chuyên môn được đào tạo thiếu về chuyên ngành du lịch, ngoại ngữ và quản trị kinh doanh, thể hiện tính chuyên nghiệp chưa cao. Mặc dù, VQG Cúc Phương nói chung và Ban du lịch nói riêng có chính sách ưu tiên trong việc tuyển dụng lao động là người địa phương vào làm việc trong các lĩnh vực: bảo vệ rừng, nghiên cứu khoa học và kinh doanh dịch vụ du lịch. Nhưng số lượng chưa cao vì việc tuyển dụng còn gặp một số trở ngại lớn là người dân nơi đây rất khó có thể đáp ứng tốt được khả năng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên, trong tương lai VQG Cúc Phương muốn phát triển tốt loại hình du lịch sinh thái và muốn cho cuộc sống của người dân bên trong và ngoài vùng đệm này càng được đảm bảo và tốt hơn thì việc đào tạo cộng đồng địa phương nơi đây tham gia vào hoạt động du lịch là việc làm không thể tránh khỏi. 2.4. Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch của VQG Cúc Phương từ năm 2002 đến năm 2006 2.4.1. Số lượng khách Bảng 2.2: Lượng khách đến tham quan VQG Cúc Phương (giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006) Đơn vị tính: lượt khách Năm Khách 2002 2003 2004 2005 2006 Khách nội địa 70.334 55.002 65.770 57.466 69.763 Khách quốc tế 3.934 4.227 5.129 5.792 6.976 Tổng số khách 74.268 59.229 70.899 63.258 76.739 (Nguồn: Số liệu thống kê, Ban Quản lý Du lịch VQG Cúc Phương, 2007 Biểu đồ 2.1: Sự tăng trưởng về khách du lịch Dựa vào số lượng thống kê ở trên, có thể thấy số lượng khách du lịch số lượng khách tham quan quốc tế của VQG Cúc Phương tăng không đồng đều qua từng năm, đặc biệt là lượng khách du lịch nội địa. Hơn nữa, hoạt động du lịch tại VQG Cúc Phương lại không có sự phân biệt rõ rệt về mùa du lịch, thường mở quanh năm, song lượng khách thường đông hơn vào mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 12 và từ tháng 2 đến tháng 5 hàng năm) lượng khách chiếm tới 70% với cả khách trong nước và ngoài nước. Trong đó: Khách du lịch trong nước bao gồm chủ yếu các thành phần là học sinh, sinh viên của các trường phổ thông và các trường đại học ở nhiều địa phương trong cả nước chiếm tới 60% đến thăm vườn với thời gian tham quan chủ yếu vào các ngày lễ, cuối tuần.... Còn lại là các tập khách khác như: khách du lịch chuyên đề, nghiên cứu khoa học và các cơ quan tổ chức ở các cấp ngành địa phương.... Khách du lịch nước ngoài với hai thành phần chủ yếu, đó là khách du lịch chuyên đề gồm các chuyên gia nghiên cứu khoa học về hệ sinh thái rừng nhiệt đới về hệ động - thực vật, về công tác bảo tồn và khách du lịch tự nhiên thuần tuý tìm hiểu về thiên nhiên và tính chất nguyên sinh của VQG. Mặc dù, hoạt động du lịch tại VQG Cúc Phương có sự tăng lên về mặt số lượng nhưng khách du lịch đến tham quan tại đây chủ yếu 60% là khách tham quan trong ngày, thời gian lưu trú ngắn. Số lượng lưu trú tại vườn chiếm tỷ lệ nhỏ, thời gian lưu trú thường không quá 3 ngày. Do vậy, doanh thu từ du lịch còn chưa tương xứng với số lượng khách đến tham quan. 2.4.2. Doanh thu Bảng 2.3: Doanh thu từ hoạt động du lịch tại VQG Cúc Phương (giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006) Đơn vị tính: nghìn đồng Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Doanh thu 1.991.326 1.406.706 1.735.666 1.859.013 2.100.000 Tổng chi 1.848.228 1.001.257 1.317.132 1.405.470 1.600.000 Lợi nhuận trước thuế 143.098 405.449 418.534 453.543 500.000 (Nguồn: Số liệu thống kê, Ban Quản lý Du lịch VQG Cúc Phương, 2007) 0 500000 1000000 1500000 2000000 2002 2003 2004 2005 2006 Năm Doanh thu Năm Doanh thu Biểu đồ 2.2: Doanh thu từ hoạt động du lịch qua các năm Nhìn chung, doanh thu và lợi nhuận trước thuế của VQG Cúc Phương ngày càng tăng mặc dù số lượng du khách tăng lên không đồng đều. Điều này chứng tỏ Ban du lịch của vườn đã biết khai thác tốt hơn những tài nguyên trong vườn và đồng thời đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của khách tham quan. Tuy nhiên, các nguồn thu này từ hoạt động du lịch của vườn vẫn còn nhiều hạn chế, chưa xứng đáng với nguồn tài nguyên du lịch của vườn. Hầu hết các khoản thu chủ yếu từ lệ phí tham quan, phòng nghỉ còn các nguồn thu từ dịch vụ ăn uống và hàng hoá còn hạn chế. Hơn nữa, trong tổng số doanh thu thì nguồn thu từ khách nước ngoài đóng góp một tỷ lệ đáng kể (khoảng 40%) mặc dù số khách nước ngoài chiếm tỷ trọng nhỏ (7 -10%) so với tổng số khách đến thăm vườn. Như vậy, để tăng doanh thu trong tương lai, Ban Du lịch VQG Cúc Phương cần có cơ chế, chính sách hoạt động nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu tham quan và lưu trú dài ngày của khách du lịch nội địa và thu hút thời gian lưu trú dài ngày hơn đối với khách du lịch quốc tế. Bên cạnh đó, các dịch vụ ăn uống và hàng hoá bán cho du khách cũng cần có sự đầu tư nâng cấp; các giá trị văn hoá bản địa nơi đây cần được khai thác tối ưu để phục vụ hoạt động kinh doanh du lịch. Đây cũng là cơ hội tốt để cộng đồng địa phương (đặc biệt là các xã vùng đệm của vườn) có cơ hội tốt tham gia vào hoạt động phục vụ và kinh doanh du lịch của vườn. 2.5. Vai trò của cộng đồng dân cư địa phương đối với hoạt động du lịch tại Cúc Phương 2.5.1. Khái quát về cộng đồng địa phương tại Cúc Phương Khu bảo tồn thiên nhiên do nhà nước quyết định thành lập, nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác và phá huỷ giới tự nhiên trong đó nhằm bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái, bảo tồn nguyên vị loài động vật, thực vật, bảo tồn nguồn gen tự nhiên có giá trị khoa học, kinh tế, giải trí, giáo dục và thẩm mĩ. Hệ thống sinh thái trong khu VQG phải được giữ nguyên trạng, không có sự can thiệp của con người vào môi trường vật lí và các hệ động vật, thực vật. Các mối quan hệ qua lại giữa hệ sinh vật và môi trường, giữa các hệ sinh vật và bên trong mỗi hệ sinh vật vận hành theo quy luật cân bằng tự nhiên. Các chức năng sản xuất, điều hoà và bảo vệ trong hệ thống triển khai một cách bình thường. VQG là đối tượng quản lí theo một quy chế nghiêm ngặt do nhà nước ban hành. VQG được phân thành 3 phân khu: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái, phân khu hành chính - dịch vụ. Các khu dịch vụ dành cho hoạt động tham quan, giải trí và trụ sở cơ quan quản lý; có thể thiết kế đường sá, vườn cây, hồ nước và công trình phục vụ khách tham quan. Để bảo đảm an toàn việc bảo tồn các hệ động vật, hệ thực vật, hệ sinh thái có vùng đệm. Đó là vùng đất đai được phép khai thác hạn chế vì mục đích dân sinh nằm liền kề với VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên, là hành lang an toàn bảo vệ, kiểm soát, ngăn chặn sự xâm nhập từ bên ngoài vào VQG. Vùng đệm thường được xây dựng tại các danh lam thắng cảnh, nơi có nhiều tài nguyên quý giá, nhất là tài nguyên sinh vật, dùng làm nơi nghiên cứu tự nhiên nguyên sinh hoặc làm nơi du lịch, nghỉ ngơi. Vùng này cũng là vùng tiếp giáp với khu bảo vệ, bao quanh toàn bộ hay một phần của khu bảo vệ. Vùng đệm nằm ngoài diện tích của khu bảo vệ và không thuộc quyền quản lý của ban bảo vệ.[24] Chức năng và nhiệm vụ của vùng đệm: chức năng sinh thái mở rộng phạm vi sinh sống và cư trú cho các loài hoang dã, phát triển sinh thái vùng đệm; chức năng kinh tế -xã hội - đáp ứng nhu cầu tối thiểu của các sản phẩm nông - lâm nghiệp để không khai thác lâm sản trong khu bảo tồn thiên nhiên. Việc sử dụng đất đai ở đây không được gây mâu thuẫn với hệ sinh thái tự nhiên của khu bảo tồn và chức năng làm lá chắn cho khu bảo vệ, ngăn ngừa xâm nhập từ xa đến, từ ngoài vào. VQG Cúc Phương nằm trên phạm vi của 15 xã thuộc 4 huyện của 3 tỉnh Ninh Bình; Hoà Bình và Thanh Hoá. Hiện này vùng này có 1215 hộ với 62.350 nhân khẩu trong đó có 70% là đồng bào dân tộc Mường. Sau khi thực hiện quyết định số 251/CTDL ngày 1/10/1980 của Hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển 130 hộ của 6 xóm thuộc xã Cúc Phương ra bên ngoài ranh giới VQG Cúc Phương và Quyết định số 5319/KTTH ngày 22/10/1993 về Ân Nghĩa ra khỏi ranh giới, hiện tại sự phân bổ dân cư trên địa bàn VQG Cúc Phương như sau: Trong ranh giới VQG Cúc Phương hiện tại có: Dân cư sống xen kẽ trong khu bảo vệ nguyên vẹn gồm 4 xóm (xóm Nghéo, Biện, Đồi, Nội Thành) thuộc xã Thạch Lâm huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá. Dân cư sống trong vùng phục hồi sinh thái: 2 xóm (xóm Nga, Sấm) thuộc xã Cúc Phương huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình. Trong vùng đệm - dải đất bao quanh, cách ranh giới rừng từ 1 đến 3km, bao gồm: - Các xã thuộc huyện Nho Quan (Ninh Bình): Văn Phương, Kỳ Phú, Yên Quang, Ngọc Lương. - Các xã thuộc huyện Thạch Thành (Thanh Hoá): Thành Mỹ, Thành Yên, Thạch Yên. - Các xã thuộc huyện Yên Thuỷ (Hoà Bình): Lạc Thịnh, Yên Lạc, Phú Lai, Yên Trị, Hàng Trạm. - Các xã thuộc huyện Lạc Sơn (Hoà Bình): An Nghĩa, Yên Nghiệp. Có thể nói, đời sống của nhân dân cả trong và ngoài vùng đệm của VQG Cúc Phương còn rất nhiều khó khăn: dân số tăng nhanh, diện tích canh tác ngày càng hạn hẹp, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp mà cây trồng chủ yếu là mía, chè. Song diện tích cây công nghiệp hàng năm không ổn định, sản xuất lâm nghiệp và các ngành nghề khác chưa phát triển. Phương thức canh tác còn lạc hậu, chưa có sự đầu tư chiều sâu cho sản xuất. Một số hộ sống giáp ranh vẫn chưa tập trung vào sản xuất mà còn nặng về khai thác lâm sản trong rừng để sinh sống. Mạng lưới giao thông ở các xã đã có song chủ yếu vẫn là đường đất và bị xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt về mùa mưa lũ giao thông gần như ngưng trệ, chủ yếu là đi bộ. Hệ thống điện lưới mới chỉ có ở các vùng trung tâm xã và các làng phụ cận. Còn các làng xã khác chưa có điện là do dân không có kinh phí để xây dựng đường dây tải điện và trạm biến áp. Một số xã đã có trạm xá song điều kiện cơ sở vật chất đều rất tạm bợ chủ yếu là do các y tá, hộ lý đảm nhận chưa có y bác sỹ. Do vậy, việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng còn rất kém. Hầu hết, trường học của các xã chưa được xây dựng kiên cố và tình trạng thiếu phòng học vẫn xảy ra nghiêm trọng, có nơi học sinh phải đi học 3 ca một ngày còn học sinh tiểu học phải đi bộ 10km mới tới trường. Có thể nghiên cứu điển hình mức sống của người dân hai xã Kỳ Phú và Cúc Phương - hai xã thuộc vùng đệm nằm sát ngay cổng VQG Cúc Phương như sau: *Về dân số- dân cư và lao động Cúc Phương và Kỳ Phú là hai xã miền núi nên dân số không đông, tập trung không đều, chủ yếu ở ven đường giao thông chính, thưa thớt ở núi cao và khu vực vườn quốc gia. Mật độ dân số của Kỳ Phú là 87 người/km2 còn ở Cúc Phương là 21 người/km2. Bảng 2.4: Dân số và sự phân bố dân cư các xã Cúc Phương và Kỳ Phú Xã Dân số (người) Diện tích (km2) Mật độ dân số (người/km2) Kỳ Phú 4950 57,0 87 Cúc Phương 2640 123,7 21 (Nguồn: phòng thông kê xã) Thành phần dân tộc của hai xã gồm dân tộc Kinh và Mường (chiếm hơn 70%). Tuy nhiên tỷ lệ tăng dân số tại hai xã này lại khá cao (ở Kỳ Phú là 1,006 và Cúc Phương 0,8) và đây là những yếu tố lý giải cho sự nghèo đói của hai xã này. Mặc dù đất đai rộng nhưng vẫn chưa tìm ra phương án hiệu quả để khắc phục khó khăn hay nói cách khác là cả hai xã đều chưa tìm ra mô hình sản xuất phù hợp để nâng cao năng suất, trong khi đó dân số tăng làm cho nhu cầu sử dụng lương thực không ngừng tăng. Hơn nữa, nguồn lao động của hai xã này tuy dồi dào nhưng mô hình sản xuất chưa phù hợp; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp thấp... Đó chính là những nguyên nhân dẫn đến mức sống thấp của người dân nơi đây. *Về giáo dục - y tế Giáo dục: Đã được quan tâm như chú trọng nâng cao chất lượng dạy và học, duy trì và tăng số học sinh tới trường. Song hệ thống các trường cấp xã còn nhiều hạn chế, đặc biệt xã Kỳ Phú: không có trường cấp III, học sinh phải sang các xã khác học. Bảng 2.5: Tình hình giáo dục của xã Kỳ Phú và Cúc Phương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 139.doc