Tính phi hiệu quả sản xuất ở các doanh nghiệp không chỉ bắt nguồn từ những yếu tố môi trường, chẳng hạn môi trường kinh doanh không hấp dẫn và một khu vực tài chính yếu kém mà còn bắt nguồn từ các yếu tố xuất phát từ bản thân các doanh nghiệp như qui mô không phù hợp, không đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, phương thức quản lý yếu kém, thiếu yếu tố cạnh tranh trong và ngoài nước. Trong điều kiện từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung chuyến sang nền kinh tế thị trường, môi trường kinh doanh có nhiều vấn đề, tuy đã có cải thiện với việc cải tổ lại hệ thống quản lý doanh nghiệp, chuyển từ hình thức sở hữu nhà nước trung ương và địa phương sang hình thức sở hữu khác như cổ phần hoá, có các biện pháp thúc đẩy cạnh tranh, có hình thức giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính và xử lý các vấn đề phát sinh trong quản lý nhưng các yếu tố của bản thân doanh nghiệp có tác động đến tính hiệu quả của sản xuất thường ít được tính đến, trong khi các doanh nghiệp có thể chủ động quyết định các yếu tố của bản thân bản thân hơn đối với môi trường. Do đó doanh nghiệp cần xác định các đặc điểm cụ thể của bản thân để từ đó có những hướng điều chỉnh thích hợp nhằm tăng hiệu quả của quá trình sản xuất.
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2698 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mô hình xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của ngành sản xuất giầy dép, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược khẳng định, xúc tiến thương mại chưa mạnh, các chính sách của Nhà nước dành cho ngành da giầy chưa nhiều và cũng chưa mang lại hiệu quả cao.
Bước sang năm 2005, ngành giầy dép nước ta sẽ tiếp tục có những điều kiện thuận lợi để duy trì và đẩy mạnh đà tăng trưởng hiện nay.
- Thứ nhất, nhu cầu tiêu thụ giầy dép, cặp túi xách trong nước và trên thế giới vẫn tiếp tục tăng trong những năm tới. Mức tiêu thụ giầy dép, cặp túi xách của các nước Châu Âu trong năm 2004 ước đạt 1,135 tỷ đôi trong khi nhu cầu tiêu thụ vào khoảng 2,41 tỷ đôi. Nhập khẩu ròng giầy dép của Châu Âu dự báo sẽ tiếp tục tăng nhẹ, đạt mức khoảng 1,1 tỷ - 1,2 tỷ đôi. Cũng giống như các nước Châu Âu, nhu cầu tiêu thụ giầy dép, cặp túi xách các loại của các nước Châu Mỹ tiếp tục tăng trong những năm tới, đạt trên 3,3 tỷ đôi giầy trong khi năng lực sản xuất của khu vực này ước tính chỉ đạt trên 1 tỷ đôi.
- Thứ hai, từ tháng 1/2005, EU sẽ bắt đầu tiến hành điều tra giầy dép nhập khẩu có nguồn gốc từ Trung Quốc nhằm bảo hộ sự phát triển của ngành giầy dép trong khu vực. Ngược lại, giầy dép xuất khẩu của nước ta sang thị trường EU sẽ tiếp tục được hưởng những ưu đãi về thuế quan (GSP)
- Thứ ba, một số đối thủ cạnh tranh khá mạnh của ngành giầy dép nước ta như Thái Lan, Indonesia đang có những biểu hiện đi xuống và tỏ ra kém cạnh tranh rõ rệt. Ngành giầy dép Indonesia từ năm 2002 đến nay luôn bị giảm sút. Nhiều nhà máy sản xuất đã buộc phải đóng cửa do không tiêu thụ được sản phẩm. Số lượng các công ty sản xuất giầy dép của Indonesia giảm từ 112 công ty xuống còn 90 công ty. Hai loại giầy được tập trung sản xuất nhiều của Indonesia là giầy bảo hộ lao động và giầy thể thao, nhưng việc bán hàng của các loại giầy này phụ thuộc vào nhãn hiệu nước ngoài. Hơn nữa, môi trường kinh doanh tại thị trường Indonesia lại không ổn định. Do vậy, người mua dễ dàng quay sang các nước khác để bảo đảm việc giao hàng tốt hơn. Cũng giống như Indonesia, ngành giầy dép của Thái Lan cũng đang trên đà xuống dốc. Kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan từ năm 2000 đến nay liên tục giảm mạnh nhất là xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm (ngoại trừ năm 2003, kim ngạch xuất khẩu của nước này đạt mức tăng trưởng 3,4%). Tính trong 10 tháng đầu năm 2004 kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Thái Lan giảm tới 8,15% so với cùng kỳ năm 2003, chỉ đạt khoảng 660 triệu USD. Các thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan là Mỹ, EU, Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này giảm khá mạnh. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ và Bỉ giảm tới 15% về kim ngạch so với 10 tháng đầu năm 2003.
- Thứ tư, da giầy hiện được xem là một trong ba nhóm ngành công nghiệp mũi nhọn của nước ta với nhiều lợi thế cạnh tranh và giải quyết được một số vấn đề xã hội với nguồn lao động dồi dào, không đòi hỏi đầu tư quá nhiều vốn, phù hợp với hoàn cảnh, môi trường của Việt Nam, phù hợp với nguồn lực tài chính, thị trường nước ta. Do đó, ngành da giầy sẽ được chú trọng đầu tư hơn nữa nhằm mang lại hiệu quả hơn, tạo ra sức cạnh tranh mạnh hơn theo chiến lược tăng trưởng tập trung đến năm 2020.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi trên, ngành giầy dép Việt Nam vẫn tiếp tục phải đối mặt với những trở ngại đáng kể. Thứ nhất, chưa chủ động được nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Thứ hai, công nghệ sản xuất chưa hiện đại và còn phụ thuộc vào nước ngoài. Và bài toán nan giải đối với ngành giầy dép là xây dựng thương hiệu. Đã có nhiều bài học về sự thất bại do không có thương hiệu. Đầu tiên, trong những năm 50-60 Trung tâm sản xuất giầy dép lớn nhất và các nhãn hiệu giầy nổi tiếng của thế giới được đặt tại Italia, những năm 70 lại chuyển sang Nhật Bản, những năm 80 ở Đài Loan và Hàn Quốc. Cho đến khi các nước này hiểu ra vấn đề thì mọi sự đã rồi. Ngành giầy dép các nước này đã rơi vào tình trạng vô phương cứu chữa. Tất cả các hãng nổi tiếng đã dời bỏ sang các nước khác.
Trước những khó khăn trên, để tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng tốt, trước hết ngành da giầy nước ta cần phải đầu tư mạnh cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ thiết kế, cải tiến kỹ thuật nhằm áp dụng những công nghệ hiện đại nhất vào sản xuất để tăng năng suất lao động, đồng thời tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt. Bên cạnh đó cần giảm thiểu mọi chi phí sản xuất khác có liên quan. Có như vậy mới tạo được sự cạnh tranh về giá cả hàng hoá. Ngoài ra, cần tiếp tục duy trì các thị trường truyền thống và tích cực thâm nhập thị trường mới. Vấn đề then chốt cuối cùng là mỗi doanh nghiệp từng bước xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, góp phần mang lại hiệu quả và sự phát triển bền vững cho toàn ngành da giầy Việt Nam.
Chương II
Mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật
của một ngành sản xuất
1. Mô tả hiệu quả kỹ thuật và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật
1.1 Mô tả hiệu quả kỹ thuật
Tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là mục tiêu của mọi quốc gia trong các thời kỳ phát triển. Thành phần cơ bản của của tăng trưởng kinh tế là tăng trưởng năng suất tổng hợp với hai thành phần cơ bản là tiến bộ công nghệ và hiệu quả kỹ thuật. Xem xét dưới góc độ vi mô, hiệu quả sản xuất của một ngành cũng chịu tác động của hai nhân tố trên. Do đó việc ước lượng, phân tích hiệu quả kỹ thuật và những ảnh hưởng của nó tới hoạt động sản xuất là một vấn đề đáng quan tâm.
Xét một quá trình sản xuất đơn giản trong đó có một đầu vào duy nhất (X) được sử dụng để sản xuất ra một đầu ra duy nhất (Y). Đường OF chính là đường giới hạn biểu thị mức sản lượng tối đa có thể đạt được tại mỗi mức đầu vào. Do đó nó phản ánh trạng thái hiện tại công nghệ trong ngành. Các doanh nghiệp trong ngành sẽ sản xuất tại đường giới hạn nếu doanh nghiệp đạt được hiệu quả về mặt kỹ thuật. Điểm A tượng trưng cho một điểm không hiệu quả trong khi điểm B và điểm C là những điểm hiệu quả.
Fáp dụng
O
Y
A
B
C
Xáp dụng
Đường giới hạn khả năng sản xuất được mô tả như sau (Đồ thị 1)
Một doanh nghiệp đang hoạt động tại điểm A là không hiệu quả bởi vì xét về mặt công nghệ doanh nghiệp có thể tăng sản lượng đến mức tương đương với điểm B trên đồ thị mà không cần có thêm đầu vào ( hoặc có thể sản xuất ra một mức sản lượng như vậy nhưng cần ít đầu vào hơn tại điểm C trên đường giới hạn). Khoảng cách từ điểm sản xuất của doanh nghiệp đến đường giới hạn khả năng sản xuất phản ánh mức độ không hiệu quả của doanh nghiệp.
Một thước đo cơ bản đối với hoạt động của một xí nghiệp là năng suất yếu tố. Đây là tỷ lệ của đầu ra trên đầu vào. Tỷ lệ này càng lớn nghĩa là sản xuất của doanh nghiệp càng có hiệu quả. Đồ thị 1 cũng cho thấy sự khác biệt giữa hiệu quả kỹ thuật và năng suất yếu tố. Đường thẳng đi qua gốc toạ độ cho biết năng suất yếu tố tại mỗi đầu vào của doanh nghiệp. Độ dốc của đường này là Y/X cho biết năng suất của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đang sản xuất tại điểm A dịch chuyển đến điểm hiệu quả B, đường năng suất đó sẽ dốc lên, điều này ngụ ý rằng năng suất sẽ cao hơn tại điểm B. Tuy nhiên nếu như bằng cách dịch chuyển đến điểm C, đường năng suất sẽ tiếp xúc với đường giới hạn cho biết mức năng suất tối đa có thể đạt được. Điểm C là điểm quy mô sản xuất tối ưu. Doanh nghiệp tuy đã đạt được hiệu quả về mặt công nghệ nhưng vẫn có thể tăng năng suất bằng cách khai thác hiệu quả theo quy mô. Tóm lại, hiệu quả kỹ thuật và năng suất yếu tố có ý nghĩa tương ứng về mặt ngắn hạn và dài hạn bởi vì việc gia tăng quy mô sản xuất của một doanh nghiệp chỉ có thể đạt được trong dài hạn.
1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật
của một ngành sản xuất
Tính phi hiệu quả sản xuất ở các doanh nghiệp không chỉ bắt nguồn từ những yếu tố môi trường, chẳng hạn môi trường kinh doanh không hấp dẫn và một khu vực tài chính yếu kém mà còn bắt nguồn từ các yếu tố xuất phát từ bản thân các doanh nghiệp như qui mô không phù hợp, không đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, phương thức quản lý yếu kém, thiếu yếu tố cạnh tranh trong và ngoài nước. Trong điều kiện từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung chuyến sang nền kinh tế thị trường, môi trường kinh doanh có nhiều vấn đề, tuy đã có cải thiện với việc cải tổ lại hệ thống quản lý doanh nghiệp, chuyển từ hình thức sở hữu nhà nước trung ương và địa phương sang hình thức sở hữu khác như cổ phần hoá, có các biện pháp thúc đẩy cạnh tranh, có hình thức giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính và xử lý các vấn đề phát sinh trong quản lý nhưng các yếu tố của bản thân doanh nghiệp có tác động đến tính hiệu quả của sản xuất thường ít được tính đến, trong khi các doanh nghiệp có thể chủ động quyết định các yếu tố của bản thân bản thân hơn đối với môi trường. Do đó doanh nghiệp cần xác định các đặc điểm cụ thể của bản thân để từ đó có những hướng điều chỉnh thích hợp nhằm tăng hiệu quả của quá trình sản xuất.
(1) Qui mô: Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tính hiệu quả của công nghệ có liên quan đến qui mô và sự phân bổ qui mô của các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển. Một số nhà nghiên cứu chủ trương ủng hộ và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp có qui mô nhỏ dựa trên luận cứ về kinh tế và phúc lợi (You, 1995). Mặt khác nghiên cứu về mô hình tăng trưởng của Jovanavic(1982) lại đi đến kết luận là các hãng có qui mô lớn hơn thì hoạt động có hiệu quả hơn so với hãng có qui mô nhỏ. Các lý thuyết này chủ yếu dựa vào khái niệm về sự chuyển động của thị trường với các hãng mới liên tục tham gia thị trường và đẩy các hãng khác ra khỏi ngành. Các hãng chỉ nhận biết được “năng suất thực” của họ khi quan sát kết quả của mình so với toàn ngành, và sẽ rời khỏi ngành nếu năng suất thập hơn một mức độ giới hạn nào đó. Các hãng có năng suất cao hơn giới hạn đó sẽ tồn tại và phát triển. Sự khác biết về mức hiệu quả ở các qui mô khác nhau của doanh nghiệp còn có thể do vấn đề đo lường (Page, 1984). Có vài lý do mà các doanh nghiệp có qui mô khác nhau có sự khác biệt về hiệu quả. Tính chất của các đầu vào có thể khác nhau cho các doanh nghiệp có qui mô khác nhau như trang bị vốn và lao động, hoạt động tổ chức và quá trình sản xuất của các doanh nghiệp lớn sẽ hợp lý hơn so với doanh nghiệp nhỏ. Về mặt thực nghiệm, Pitt và Lee (1981) thấy rằng có mối liên hệ dương giữa qui mô doanh nghiệp và hiệu quả kỹ thuật ở 50 doanh nghiệp ngành giầy dép của Indonesia, kết quả này cũng được minh chứng khi Page (1984) áp dụng cho ngành giầy dép Ân Độ. Các nghiên cứu về mặt thực nghiệm đã cho thấy có một mối quan hệ khăng khít giữa qui mô và hiệu quả, tác động của qui mô tới hiệu quả là thuận chiều hay ngược chiều sẽ phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng ngành.
(2) Vị trí và loại hình doanh nghiệp: Vị trí của doanh nghiệp cũng đóng vai trò tương đối quan trọng khi xem xét hiệu quả sản xuất. Với những vị trí địa lý khác nhau, có thuận lợi hay không về giao thông, về các nguồn lực khai thác sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ sản xuất. Mặt khác tính hiệu quả còn liên quan đến hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Nhiều nhà kinh tế cho rằng hình thức sở hữu Nhà nước có thể làm cản trở đến hoạt động có hiệu quả của hãng vì với nhà quản lý lợi nhuận không phải là mục tiêu cao nhất. Mô hình phổ biến trong nghiên cứu các tác động của hình thức sở hữu là mô hình về sự lựa chọn công cộng hay mô hình về quyền tài sản. Lý thuyết về quyền tài sản cho rằng do quyền sở hữu không tập trung trong tay các cá nhân nên sẽ không có nhiều các sáng kiến quản lý liên quan đến việc gia tăng hiệu quả kỹ thuật. Nhưng theo tài liệu điều tra của Việt Nam, các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn vì họ không bị giới hạn về nguồn vốn vay nên việc đầu tư vào công nghệ mới cũng thuận lợi hơn do đó hiệu quả sản xuất cũng được nâng cao.
(3) Cấu trúc vốn của doanh nghiệp: Theo Williamson (1988), một trong những vấn đề quan trọng trong lý thuyết quản ý doanh nghiệp là mối liên hệ giữa mức nợ của doanh nghiệp và hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Đầu tiên hai tác giả Modigliani và Miller (1958) cho rằng mức nợ của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến hiệu quả của doanh nghiệp. Tuy nhiên, Jensen và Meckling (1976) gợi ý rằng mức nợ có thể ảnh hưởng phi tuyến đến hành vi và hoạt động của doanh nghiệp. Gertner và cộng sự(1994) chỉ ra rằng quyền sở hữu làm cho phân bổ vốn hiệu quả hơn và đầu tư bởi nguồn vốn nội bộ được kỳ vọng là cải thiện hiệu quả của doanh nghiệp. Đối với các tác động gián tiếp, cấu trúc vốn có thể ảnh hưởng trong dài hạn. Tỷ lệ vốn vay bên ngoài trên tổng số vốn cao có thể dẫn đến sự suy giảm trong cải tiến của doanh nghiệp và trong dài hạn hiệu quả sẽ đi xuống. Cấu trúc vốn có thể có tác động theo chiều hướng khác nhau đến hiệu quả của doanh nghiệp và vai trò của hệ thống giám sát đối với nguồn vốn bên ngoài cũng như tỉ trọng của nguồn vốn này có tác động rõ rệt đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
(4) Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D): Nhiều nhà kinh tế cho rằng các hoạt động R&D có tác động mạnh đến việc gia tăng năng suất, và họ cố gắng tìm ra mối liên hệ giữa R&D và tốc độ tăng năng suất. Vốn được coi là một nhân tố khó đo lường. Khó khăn này bắt nguồn từ tính phức tạp trong mối quan hệ giữa R&D và năng suất. Theo Perelman (1995), năng lực sản xuất của hãng sẽ gia tăng cùng với các hoạt động R&D vì nó nâng cao đường giới hạn khả năng sản xuất. Nếu đường giới hạn khả năng sản xuất dịch lên trên mà hãng không có khả năng ứng dụng công nghệ mới thì khoảng cách giữa đường giới hạn và sản lượng thực tế sẽ tăng lên ( tính phi hiệu quả kỹ thuật tăng). Các khoản đầu tư lớn vào R&D nhằm tạo ra đổi mới về công nghệ. Tuy nhiên điều này không hẳn là đúng trong trường hợp các khoản đầu tư có qui mô nhỏ, và được cho là không đủ để nâng được giới hạn khả năng sản xuất lên. Hơn nữa có một thực tế là với các dự án nghiên cứu khoa học ứng dụng sản xuất có qui mô nhỏ thì khó có thể tạo ra được những thay đổi trong công nghệ sản xuất. Do đó, các dự án đầu tư R&D có qui mô nhỏ chỉ làm gia tăng sản lượng thực tế và cho phép tiệm cận gần hơn đến đường giới hạn và gia tăng hiệu quả kỹ thuật.
(5) Hoạt động xuất khẩu: Có nhiều nghiên cứu đề cập tới mối liên hệ giữa các hoạt động xuất khẩu và hiệu quả xuất. Lý thuyết trao đổi tân cổ điển cho rằng các hãng sản xuất phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế thì có thể nâng cao được hiệu quả sản xuất bởi vì các hoạt động xuất khẩu làm cho việc phân bổ nguồn lực trở nên có hiệu quả, huy động được nhiều vốn hơn và tận dụng được tính hiệu quả theo qui mô. Sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ là điều kiện bắt buộc các doanh nghiệp tham gia phải tuân theo, và muốn đứng vững và phát triển được hãng phải có những quyết định sản xuất hợp lý, sản xuất cho ai, cái gì và như thế nào để đạt được mục đích thu lợi với chi phí hợp lý. Điều đó ít nhiều cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp.
(6)Chính sách điều tiết của Nhà nước: Các qui định của Nhà nước cũng như chính quyền địa phương có thể tác động đến hiệu quả về mặt công nghệ. Các qui định có thể làm ngăn cản sự hoạt động của cơ chế thị trường và làm ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực cũng như tính hiệu quả của sản xuất trên phạm vi cả nước hoặc từng vùng. Thị trường có tính cạnh tranh cao hơn sẽ làm tăng khả năng của doanh nghiệp trong việc đạt được hiệu quả của sản xuất như mong muốn.
2. Mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên đánh giá hiệu quả kỹ thuật
Có rất nhiều nghiên cứu được đưa ra về hàm sản xuất biên ngẫu nhiên và ước lượng các tham số của hàm sản xuất biên ngẫu nhiên. Theo Aigner, Lovell Schmidt (1977), Meeusen van den Broeck (1977), Battese và Corra (1977) đề xuất, có thể tính được hiệu quả kỹ thuật trung bình cho các hãng cùng ngành với việc biểu diễn sai số ngẫu nhiên của hàm sản xuất gồm hai phần. Một phần biểu thị nhiễu thống kê và được giả thiết tuân theo quy luật phân phối chuẩn, phần kia biểu thị sự không hiệu quả trong sản xuất và phân phối theo những quy luật khác nhau.
2.1. Giới thiệu mô hình
* Hàm sản xuất biên được mô tả như sau
Y = Xb + E (1)
Trong đó: E = V – U (2)
Yit: sản lượng của hãng thứ i (i = ) tại thời kỳ t (t = )
Xit: vectơ đầu vào tương ứng với quá trình sản xuất của hãng thứ i tại quan sát ở thời kỳ t
b: vectơ các hệ số ứng với biến độc lập trong hàm sản xuất
Vit: các biến ngẫu nhiên giả định độc lập với nhau
và cũng có phân phối N ( O, s2v), độc lập với biến ngẫu nhiên Uit
Uit: biến ngẫu nhiên độc lập không âm tương ứng với tính không hiệu quả của công nghệ ( hiệu ứng hãng)
Sự liên kết giữa Y và X theo một dạng hàm thích hợp mô tả công nghệ sản xuất của hãng.
* Phân phối của sai số ngẫu nhiên
Các nhiễu Uit có thể có các dạng khác nhau vì vậy hiệu quả cũng khác nhau.
Mô hình bán chuẩn (normal – half normal model)
Hàm mật độ của u ³ 0 được cho bởi
f(u) = (3)
Với giá trị trung bình E (U) = s f (0) / F (0) = (4)
Và giá trị phương sai Var (U) = (5)
Mô hình chuẩn mũ (normal – exponential model)
Hàm mật độ xác suất có dạng
f(U) = qe-q.u trong đó q =
Giá trị trung bình E (U) =
Giá trị phương sai Var (U) =
Mô hình chuẩn cụt tại 0 (normal – truncated at 0)
Hàm mật độ xác suất có dạng
f(u) = (6)
Trong đó:
m: mode của phân phối chuẩn cụt
F (.) : hàm phân phối của biến ngẫu nhiên chuẩn hoá.
f (.) : hàm mật độ của biến ngẫu nhiên chuẩn hoá
2.2 Hiệu quả kỹ thuật xác định từ hàm sản xuất biên
Ta xem xét trường hợp nhiễu U có phân phối chuẩn cắt cụt.
Khi đó hiệu quả kỹ thuật của hãng bất kỳ là tỷ số giữa sản lượng trung bình (theo đơn vị gốc) với hiệu ứng thực tế của hãng trên sản lượng trung bình tương ứng với hiệu ứng hãng = 0.
Kí hiệu TE là hiệu quả kỹ thuật.
* Hiệu quả kỹ thuật của hãng thứ i được xác định như sau
TEi = (7)
Với Y*it : giá trị sản lượng (theo đơn vị gốc) của hãng thứ i
trong thời kỳ thứ t.
Điều kiện 0 Ê TE Ê 1
Nếu hàm sản xuất biên được xác định trực tiếp theo đơn vị gốc của sản lượng thì hiệu quả kỹ thuật của hãng thứ i được tính như sau:
(8)
Với : giá trị trung bình của các mức đầu vào của hãng thứ i
* Hiệu quả kỹ thuật trung bình các hãng trong ngành
(9)
Với : giá trị trung bình của các mức đầu vào của các hãng trong ngành.
* Nếu hàm sản xuất biên xác định là hàm logarit, sản lượng của hãng thứ i trong thời kỳ t là exp (Yit) thì hiệu quả kỹ thuật của hãng i sẽ là
TEit = exp (-Uit) (10)
Uit = exp [-h ( t-Ti )]Ui (11)
Với h là hệ số ước lượng từ hàm sản xuất biên, biểu diễn tính bất biến của phi hiệu quả kỹ thuật theo thời gian
TEt = E[exp(-hUi)] (12)
+ (13)
Theo nghiên cứu của Schnuidt và Lovell (1980) tính hiệu quả kỹ thuật trung bình của các nhà máy hơi điện.
) (14)
áp dụng với điều kiện U có phân phối nửa chuẩn.
Theo công thức (1), hiệu quả kỹ thuật của 1 hãng được dự toán phụ thuộc vào dạng phân phối thích hợp của hiệu ứng Ui.
3. Giới thiệu mô hình đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tính phi hiệuquả kỹ thuật của một ngành sản xuất.
Mô hình hàm sản xuất biên dạng loga siêu việt, áp dụng cho ngành công nghiệp chế biến của Hàn Quốc. (ngành thực phẩm, dệt may, giấy, hoá chất, kim loại). Các ngành được ước lượng một cách riêng rẽ để xem tính hiệu quả kỹ thuật có liên quan một cách hệ thống đến qui mô , nguồn vốn bên ngoài, các khoản đầu tư từ hoạt động nghiên cứu và phát triển, xuất khẩu.
3.1 Mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên
Hàm loga siêu việt được cho như sau
Lnyit =
+
Trong đó:
yit: Sản lượng quan sát của xí nghiệp thứ i ở năm t
x : vectơ đầu vào cho sản xuất
j,l dùng để chỉ các đầu vào (gồm vốn K và lao động L)
vit: sai số ngẫu nhiên được giả định là độc lập có phân phối N (0, )
uit: biến ngẫu nhiên không âm đại diện cho những ảnh hưởng phi hiệu quả kỹ thuật, được giả định là phân phối nửa chuẩn tại điểm 0 với kỳ vọng bằng Mit, phương sai s2
3.2 Mô hình phi hiệu quả.
Do Uit đại diện cho mức độ ảnh hưởng của tính không hiệu quả trong đó giá trị trung bình mit sẽ được biểu diễn thay thế.
mit = d0 + d1Z1it + d2Z2it + ..... + dkZkit + wi
Trong đó:
Z1, Z2, ..... , Zk thể hiện các yếu tố như quy mô của xí nghiệp, tỷ lệ huy động vốn từ bên ngoài, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), ...
wi : Biến ngẫu nhiên tuân theo phân phối chuẩn cắt cụt
wi ~ N(O, su2) sao cho ui không âm.
d: các hệ số ước lượng với giá trị phương sai được biểu diễn như sau
s2 = s2v + s2u và g =
Với 0 Ê g Ê 1 thể hiện mức độ ảnh hưởng của hiệu ứng hãng với tính phi hiệu quả.
Phương pháp ước lượng mô hình là phương pháp hợp lý tối đa.
4. Phương pháp ước lượng hợp lý tối đa
4.1 Xây dựng hàm hợp lý tối đa
Giả sử đã biết quy luật phân tích xác suất tổng quát của biến ngẫu nhiên gốc X dưới dạng hàm mật độ f(x, q). Đó cũng có thể là biểu thức xác suất nếu X là biến ngẫu nhiên rời rạc. Cần phải ước lượng tham số q nào đó của X.
Lập mẫu ngẫu nhiên kích thước n
W = (X1, X2,...Xn)
Và xây dựng hàm của đối số q tại một giá trị cụ thể của mẫu
L(x1, x2,..., xn, q) =f(x1, q).f(x2, q)...f(xn, q)
Hàm L gọi là hàm hợp lý của tham số q
Giá trị của hàm hợp lý chính là xác suất hay mật độ xác suất tại điểm
(x1, x2, ..., xn) còn giá trị của thống kê q tại điểm đó
= f(x1, x2, ...xn)
gọi là ước lượng hợp lý tối đa của q nếu ứng với giá trị này của q hàm hợp lý đạt cực đại.
4.2 áp dụng tính hàm hợp lý tối đa cho mô hình biên ngẫu nhiên
* Mô hình nửa chuẩn
* Mô hình chuẩn cụt
+
* Mô hình chuẩn mũ
Với ei = vi - ui trong đó vi ~ N(0,s2v)
ui ~ N(mi, s2u)
Chương III
áp dụng mô hình cho ngành sản xuất
giầy dép Việt Nam
1. Mô tả số liệu
Số liệu được thu thập từ cuộc điều tra doanh nghiệp 2000 - 2003 do Tổng cục thống kê thực hiện. Các thông tin sử dụng bao gồm tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, số lượng lao động, nguồn vốn, doanh thu, loại hình và chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Các bộ số liệu được sử dụng
Số liệu ngành giầy da (64 cơ sở) trong 3 năm 2000 - 2002
Số liệu gộp hai ngành tiêu dùng dệt may và giầy da của Hà Nội (76 cơ sở) từ 2001- 2003
Các biến trong mô hình
VA : Giá trị gia tăng ( Triệu đồng)
R : Doanh thu (Triệu đồng)
Kr : Vốn ròng ( = Tổng tài sản - Khấu hao, đơn vị tính: triệu đồng)
L : Số lao động trong doanh nghiệp ( người)
AGE : Tuổi của doanh nghiệp ( Số năm hoạt động trong ngành)
oWN1: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân
oWN2: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước
REG1: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp ở miền Nam
REG2: Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp ở miền Bắc
INDS: Biến giả nhận giá trị bằng 0 nếu doanh nghiệp thuộc ngành giầy dép, bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc ngành dệt may
Giá trị thống kê của các biến trong mô hình
Đơn vị : Triệu đồng
Bảng 3.1 Ngành giầy dép
Năm
Biến
Số
quan sát
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Nhỏ nhất
Lớn nhất
2000
VA
64
9967,61
27086,67
14
204532
L
64
317,48
594,53
5
2699
Kr
64
10089,48
22247,69
13
146387
R
64
46782,52
104475,52
87
584531
2001
VA
64
10453,69
15287,39
27
80153
L
64
340,91
634,4
5
2967
Kr
64
10728,81
19848,18
11
119959
R
64
52182,93
118765,5
117
698458
2002
VA
64
7862,73
14651,7
40
89781
L
64
323,06
515,83
5
2039
Kr
64
9745,95
17704,92
9
119966
R
64
58079,31
164731,02
144
933814
2000 - 2002
VA
192
9428,01
19008,59
14
201532
L
192
327,15
581,5867
5
2967
Kr
192
10188,08
19933,6
9
146387
R
192
52348,25
129324
87
933814
Nguồn: Tính toán của tác giả
Nhìn vào các chỉ tiêu trong bảng 3.1 ta thấy giá trị gia tăng của ngành giầy tăng trong hai năm 2000 và 2001, nhưng đến năm 2002 giá trị này lại giảm, thậm chí còn thấp hơn so với năm 2000. Lý do để giải thích cho điều này đó là năm 2002 Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại WTO khiến tình hình cạnh tranh giữa sản xuất giầy dép nước ta và Trung Quốc trở nên gay gắt, do đó VA của toàn ngành giảm. Vốn đầu tư trong năm 2002 cũng không lớn bằng năm trước, mặc dù lực lượng lao động vẫn tăng nhưng không đủ lớn do đó doanh thu nói chung không cao, khoảng cách về qui mô sản xuất giữa các doanh nghiệp trong ngành lớn nên độ lệch chuẩn của các biến cũng cao
Bảng 3.2 Ngành Dệt may - Giầy dép
Năm
Biến
Số quan sát
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Nhỏ nhất
Lớn nhất
2001
VA
76
7245,388
15369,911
21,728
90401,98
L
76
447,178
788,7977
6
3643
Kr
76
27878,387
80596,254
55,4455
577552,47
R
76
28747,215
74355,245
71,125
55363,36
2002
VA
76
8967,21
12546,21
32,2564
80236,15
L
76
626,326
668,254
12
6598
Kr
76
25365,125
60326,245
62,3261
73265,124
R
76
30236,658
78959,568
102,054
60584,12
2003
VA
76
10236,325
23654,12
60,235
102365,12
L
76
556,15
884,15
10
7526
Kr
76
32125,12
65324,21
102,325
87595,12
R
76
35654,24
24578,25
89,258
86957,42
2001 - 2003
VA
228
8536,245
15857,85
21,728
102362,12
L
228
535,245
758,25
6
7526
Kr
228
286594,12
65384,15
55,4455
87595,12
R
228
26584,25
21457,54
71,125
55363,36
Nguồn: Tính toán của tác giả
Phân tích chung đối với ngành gộp cũng cho thấy tuy giá trị gia tăng có tăng dần qua các năm nhưng do trong ba năm từ 2001 đến 2003 ngành dệt may được quan tâm hơn nên nguồn vốn được đầu tư nhiều , lao động không có nhiều thay đổi nhưng giá doanh thu chung của toàn ngành dệt may giầy dép cũng tăng.
2. Mô hình hàm sản xuất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24563.DOC