Luận văn Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay

 

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM 6

1.1. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 6

1.2. Thực trạng của sự nhận thức và vận dụng quan điểm mác xít về quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam 25

Chương 2: NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CHÍNH TRỊ NHẰM ĐẢM BẢO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 46

2.1. Thực trạng việc phát huy vai trò của chính trị trong đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam 46

2.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò của chính trị nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay 67

KẾT LUẬN 97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99

 

 

 

doc104 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2129 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát huy được nguồn nhân lực, thực hiện tốt vấn đề dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện được một nền kinh tế nhân dân, làm cho mọi người dân tự ý thức, tự tham gia xây dựng nền kinh tế ấy. Tất nhiên, để mọi người tự nguyện hưởng ứng nền kinh tế ấy, Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế nhà nước, làm cho kinh tế nhà nước có đủ thực lực để đáp ứng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân; tạo mọi điều kiện cho kinh tế nhà nước thực sự trở thành trung tâm có khả năng thu hút các thành phần kinh tế ngoài XHCN. Như vậy, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, chính trị có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển xã hội. Trong một chừng mực nhất định, chính trị có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của kinh tế, ổn định xã hội. Vì vậy, Đảng ta thực hiện đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới chính trị, cùng với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo, tổ chức thực hiện, tổng kết thực tiễn, đổi mới quản lý, điều tiết nền kinh tế nhằm đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Chương 2 nâng cao vai trò của chính trị nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở việt nam hiện nay - thực trạng và giải pháp Quá trình thực hiện đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, kinh tế phát triển và mục tiêu CNXH vẫn được giữ vững. Một trong những nguyên nhân của những thành tựu đó không thể không kể đến vai trò chính trị của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý nền kinh tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá thực trạng và từ đó đưa ra những giải pháp tích cực nhằm phát huy vai trò của chính trị đối với việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế là cần thiết và quan trọng. 2.1. Thực trạng việc phát huy vai trò của chính trị trong đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam 2.1.1. Những thành tựu đạt được Tổng kết 15 năm đổi mới đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó "đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới" [14, tr. 19]. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng thể hiện ngay trong đường lối đổi mới và trong suốt quá trình thực hiện đổi mới; thể hiện ở những quyết sách với những hình thức và bước đi thích hợp cho sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Trước tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước những năm đầu thập kỷ 80, Đảng ta đã tiến hành tự kiểm điểm, tự phê bình theo tinh thần trách nhiệm cao và đã khẳng định: "Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm với những nhiệm vụ của giai đoạn mới" [11, tr. 123]. Từ đó Đảng chủ trương đổi mới mà trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới tư duy chính trị về CNXH và nhất là tư duy về kinh tế. Điểm nổi bật trong đường lối đổi mới của Đảng ta là đã đề ra chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN. Chủ trương đó của Đảng là sự khái quát, tổng kết từ thực tiễn cách mạng của đất nước và là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin về sự cần thiết phải sử dụng những khâu "trung gian", "quá độ" để đi lên CNXH từ một nước tiểu nông. Có sử dụng kinh tế nhiều thành phần chúng ta mới có khả năng để giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội, khả năng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Việc chuyển từ cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ đó chúng ta đã tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, dần dần từng bước củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Đồng thời, trong quá trình chỉ đạo thực hiện, Đảng và Nhà nước đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện bằng những chính sách và những giải pháp thiết thực nhằm giữ vững định hướng XHCN trong sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, không có sự kỳ thị đối với bất kỳ thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên, trong cơ cấu kinh tế đó, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện đường lối kinh tế đề ra, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng về việc tổ chức thực hiện, uốn nắn, khuyến khích động viên các thành phần kinh tế, thực hiện chế độ phân phối đa dạng, hợp lý. Do chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH và quá trình đó phải trải qua nhiều bước nên trong quá trình đổi mới, chúng ta đã thừa nhận các hình thức phân phối khác nhau; chấp nhận những hình thức phân phối gắn liền với các hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng không để quan hệ bóc lột và bị bóc lột phát triển thành quan hệ chi phối. Nhà nước - bằng cơ chế điều tiết hợp lý - khuyến khích mọi người làm giàu một cách chính đáng đồng thời đảm bảo được các chính sách xã hội; bảo trợ những người già cả, tàn tật, những người gặp nhiều khó khăn vì hậu quả chiến tranh, những người lao động bị thất nghiệp vì doanh nghiệp phá sản... và bằng cách đó đã từng bước đảm bảo công bằng xã hội. Sớm ý thức được rằng không có kinh tế nhà nước và vai trò của chủ đạo của nó thì không thể có CNXH, nên trong những năm qua chúng ta đã tiến hành đổi mới cơ chế, hoàn thiện chính sách để từng bước nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Để phát huy vai trò của kinh tế nhà nước, chúng ta đã tập trung nguồn lực có trong tay nhà nước vào việc xây dựng, phát triển một số ngành, doanh nghiệp trọng điểm như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tài chính, ngân hàng, một số cơ sở dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp có chức năng thực hiện những nhiệm vụ có liên quan tới quốc phòng, an ninh. Cùng với việc đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng ta đã kịp thời phát hiện và từng bước lãnh đạo đổi mới cơ chế quản lý và cơ chế vận hành của nền kinh tế vì đây là chìa khóa để phát huy và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Thực tiễn cho thấy, Đảng ta đã tích cực lãnh đạo trong việc đổi mới cơ chế vận hành đối với nền kinh tế, cương quyết xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chủ trương đó nhằm làm cho "thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch" và "thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh" [48, tr. 67]. Chủ trương trên đây của Đảng đã thực sự phát huy được mọi năng lực sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Vì vậy, các thành phần kinh tế không ngừng lớn mạnh, mở rộng quy mô sản xuất nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thực tế, những năm qua đóng góp vào ngân sách nhà nước của các thành phần kinh tế tăng lên rõ rệt, đời sống của xã hội từng bước được nâng cao và đi vào ổn định. Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường được Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển không phải là nền kinh tế nhiều thành phần bất kỳ nào mà theo định hướng XHCN. Do có sự nhận thức đúng đắn về đặc điểm, điều kiện khách quan trong và ngoài nước, với mục đích làm cho quá trình phát triển kinh tế được rút ngắn nhằm sớm đến được mục tiêu CNXH, Đảng ta đã có chủ trương và chủ động lãnh đạo kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta không thể thực hiện một nền kinh tế "đóng cửa" mà phải thực hiện một nền kinh tế "mở cửa", thực hiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Vì vậy đã tận dụng được những thành tựu đạt được về khoa học - công nghệ của các nước đi trước, vận dụng vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta khi nước ta còn ở giai đoạn lạc hậu và kém phát triển. Đảng ta cũng nhận thấy, tuy nền kinh tế nước ta còn ở trình độ thấp nhưng chúng ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần khi thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy, Đảng ta đã chủ trương đi thẳng vào nền kinh tế thị trường hiện đại, không nhất thiết phải trải qua nền kinh tế hàng hóa giản đơn chủ động "đi tắt, đón đầu" trong nhiều lĩnh vực. Quá trình đó tất yếu phải có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Nhiệm vụ của Nhà nước là quản lý, giám sát và điều tiết nền kinh tế. Khẳng định điều đó, Văn kiện Đại hội VIII của Đảng viết: "Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường" [12, tr. 93]. Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, sự vận động khách quan của nền kinh tế đó luôn có khả năng làm tăng mức độ phát sinh các mâu thuẫn, giữa tăng trưởng kinh tế với sự phân hóa xã hội, giữa mở cửa, hội nhập kinh tế với việc giữ vững ổn định chính trị cho quá trình phát triển... Vì vậy Đảng đã xác định phải "giữ vững ổn định chính trị và định hướng XHCN trong quá trình phát triển" [12, tr. 83]. Để đảm bảo ổn định về chính trị, Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới hệ thống chính trị cho phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế. Trong quá trình đổi mới chính trị, Đảng hết sức thận trọng làm từng bước một, hướng quá trình đổi mới chính trị vào thực hiện nền dân chủ XHCN, đặc biệt là thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Cũng trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng luôn chú trọng xây dựng các thành phần kinh tế như kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nhằm xây dựng nền tảng cho hệ thống kinh tế quốc dân và để đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước đã tiến hành thực hiện chủ trương cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước với mục đích chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần. Vì vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ III (khóa IX) đã họp bàn về việc tiếp tục đẩy nhanh sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm củng cố vị trí chủ lực của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, đảm bảo cho kinh tế nhà nước nắm được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, quá trình sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai theo các nội dung như: đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực sự hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Đổi mới cả về kế hoạch, về tài chính, về tổ chức bộ máy, cán bộ và đổi mới quản lý nhà nước theo hướng xóa bỏ các chế độ chủ quản của các cơ quan hành chính nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; sáp nhập, giải thể, cho phá sản doanh nghiệp nhà nước yếu kém thua lỗ, kéo dài mà nhà nước không cần nắm giữ. Vì vậy, cơ cấu doanh nghiệp nhà nước bước đầu được điều chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và sức cạnh tranh; tổ chức, củng cố và phát triển các tổng công ty nhà nước nhằm tập trung nguồn lực của nhà nước vào các ngành then chốt mà nhà nước cần chi phối...; thực hiện cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển; thực hiện giao và khoán kinh doanh, cho thuê những doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động. Với sự chỉ đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, quá trình đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đạt được những thành tựu nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều có chuyển biến tích cực. Cơ cấu và quy mô bước đầu được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn, thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng thêm... Doanh nghiệp nhà nước đã góp phần rất quan trọng để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần chi phối được các ngành và các lĩnh vực then chốt, thực sự là nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách nhà nước; bảo đảm cân đối lớn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, là lực lượng chính trong việc bảo đảm các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã hội... Không dừng lại ở đó, chúng ta đã tiến thêm một bước trong quá trình lãnh đạo thực hiện đổi mới doanh nghiệp bằng sự ra đời của luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp thực sự là một bước đột phá trong thể chế kinh tế giải phóng lực lượng sản xuất ở vùng đô thị, phát triển các loại hình doanh nghiệp dân doanh. Trong gần hai năm qua, việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã tạo thêm thế và lực mới cho nền kinh tế, góp phần quan trọng vào tăng tốc độ phát triển của đất nước ta cho những năm sắp tới. Đảng và Nhà nước ta cũng có rất nhiều cố gắng trong việc tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Vừa qua, việc bãi bỏ những giấy phép trái với Luật doanh nghiệp mới chỉ là một bước, dù rằng đây là bước quan trọng trong toàn bộ quá trình khuyến khích, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh; thực hiện tháo gỡ những trở ngại trong hoạt động sản xuất kinh doanh về các lĩnh vực như về hải quan, tín dụng, ngân hàng,... Cùng với việc xây dựng những chủ trương thúc đẩy phát triển kinh tế, thời gian qua, Đảng cũng đã chú trọng đến vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Bởi vì trong thực tế, sự thoái hóa biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên, tham ô, hối lộ, lộng quyền coi thường pháp luật đã làm xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân với đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm giảm lòng tin của dân với Đảng, với chế độ, làm chệch hướng XHCN của sự phát triển kinh tế. Thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố. Nhiều Nghị quyết Trung ương đã đề ra những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực sự tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện [14, tr. 71]. Cùng với chính sách phát triển kinh tế, củng cố xây dựng chỉnh đốn Đảng, thời gian qua Đảng ta cũng đặc biệt quan tâm đến các vấn đề xã hội, vấn đề xác lập và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, gắn mục tiêu phát triển kinh tế với định hướng XHCN trong quá trình phát triển đó, kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Thực tiễn cho thấy, để bảo đảm định hướng XHCN quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, Đảng "không chỉ chủ động lựa chọn khai thác, liên kết các mặt thuận lợi của những điều kiện khách quan để tạo ra hợp lực cho kinh tế nhiều thành phần phát triển mà còn đề ra chủ trương nhằm hạn chế tối đa tác động tiêu cực của kinh tế nhiều thành phần" [12, tr. 68]. Trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của việc huy động sức dân. Bởi vì, dân là một trong những nguồn nội lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế. Với vị trí là chủ thể tự giác của tiến trình phát triển của dân tộc ta, Đảng đã có những biện pháp thiết thực để phát huy vai trò to lớn của nhân dân, từng bước động viên và thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào các phong trào thực tiễn nhằm đảm bảo định hướng XHCN quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Chủ trương xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở của Đảng đã đem lại những điều kiện cho quần chúng nhân dân được thực hiện trên thực tế quyền làm chủ của mình về chính trị trong phát triển kinh tế. Từ đó, làm cho quần chúng nhân dân ngày càng tin vào Đảng và góp công sức, trí tuệ của mình cho sự phát triển đất nước và xây dựng chế độ mới. Từ đó, trách nhiệm và ý thức về quyền kiểm kê, kiểm soát quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân tăng lên rõ rệt. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, bằng năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức điều hành, những năm qua Đảng ta luôn chủ động đề ra những chủ trương, chính sách để ngay từ đầu gắn tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết các vấn đề xã hội, gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng đã linh hoạt trong nghệ thuật lãnh đạo trong sự kết hợp giữa lợi ích riêng của các thành phần kinh tế với lợi ích chung vì mục tiêu CNXH. Những bước tiến đó chính là quá trình phát huy vai trò chính trị của Đảng nhằm giữ vững định hướng XHCN quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Việc đề ra mục tiêu chiến lược đúng đắn là quan trọng nhưng thiếu những bước đi, thiếu sách lược thích hợp thì mục tiêu chiến lược cũng không thể đạt được trên thực tế. Định hướng và bảo đảm định hướng XHCN không chỉ thể hiện ở đường lối, cương lĩnh, chủ trương mà còn phải thể hiện ở cả kế hoạch, biện pháp và chính sách cụ thể [51, tr. 3-9]. Do vậy, ngoài phát huy vai trò của Đảng trong việc bảo đảm định hướng XHCN còn phải phát huy vai trò quản lý, điều tiết, định hướng của nhà nước. Phát triển nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần theo định hướng XHCN chính là sự kết hợp các lợi ích khác nhau, đối lập nhau bằng cách đặt phương thức thực hiện các lợi ích kinh tế đó trong một cán cân kinh tế và một cơ chế vận hành phù hợp với sự phát triển khách quan của nền kinh tế [57, tr. 17-20]. Nhưng để thực hiện được mục tiêu cuối cùng trong việc kết hợp giữa lợi ích riêng của từng chủ thể kinh tế với lợi ích chung vì mục tiêu xã hội là một vấn đề hết sức khó khăn. Nhằm thực hiện được vấn đề nêu trên, những năm qua Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật. Các chính sách quan trọng làm công cụ điều tiết, điều chỉnh hợp lý các lợi ích kinh tế trong quản lý đất nước. Dựa trên đường lối chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN mà Đảng đề ra, Nhà nước từng bước cụ thể hóa thành các chính sách, thông tư, nghị định cụ thể phản ánh đúng đắn quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các thành phần kinh tế. Từ đó, các thành phần kinh tế đã không ngừng đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện các nghĩa vụ về kinh tế - xã hội, giúp nền kinh tế nước ta có bước tăng trưởng đáng kể, bảo đảm ổn định xã hội. Cùng với quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước đã tiến hành đổi mới từng bước phương thức hoạt động và xây dựng tổ chức, bộ máy theo hướng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Trước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nước ta thực hiện một nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung. Gắn liền với nền kinh tế đó là một kiểu quản lý mệnh lệnh, hành chính, kém hiệu quả. Khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, vì vậy lợi ích kinh tế trong sản xuất kinh doanh luôn là yếu tố kích thích, là động lực thôi thúc các chủ thể kinh tế. Nền kinh tế nhiều thành phần dễ tự phát lên con đường TBCN. Vì vậy, để nó có thể phát triển theo đúng hướng XHCN đòi hỏi phải có sự quản lý, định hướng và điều tiết của Nhà nước. Để Nhà nước thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, một mặt bảo đảm cho các thành phần kinh tế được quyền tự chủ và bình đẳng trong sản xuất kinh doanh, mặt khác bảo đảm giữ vững định hướng phát triển nền kinh tế theo hướng "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh", không gì khác là phải vạch ra một kế hoạch tổng thể thực sự khoa học. Những năm qua, việc xây dựng kế hoạch hóa vĩ mô nhằm định hướng sự phát triển nền kinh tế của Nhà nước ta đã có bước tiến đáng kể. Trong thời gian qua, quá trình xây dựng kế hoạch vĩ mô định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế đã từng bước được đẩy mạnh. Công tác kế hoạch hóa có sự thay đổi cả về nội dung và quy trình xây dựng. Về nội dung, kế hoạch hóa vĩ mô đã bước đầu thể hiện sự phối hợp giữa chiến lược phát triển và quy hoạch phát triển. Trong kế hoạch hóa vĩ mô của Nhà nước đã xác định được bước đi cho từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế, chuyền dẫn việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vĩ mô sang chú trọng các cân đối lớn hướng vào việc bảo đảm những cân đối kinh tế chung. Nhà nước đã tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế lựa chọn phương hướng và phương án đầu tư mở rộng sản xuất, bước đầu đã dùng kế hoạch định hướng cho sự phát triển của thị trường. Chẳng hạn, bằng chính sách đầu tư, hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế khu vực nông thôn, miền núi làm cho khu vực kinh tế này có điều kiện mở rộng thị trường hàng hóa, kích thích được quá trình phát triển sản xuất. Từ đó đã tạo ra những điều kiện mới giúp các khu vực kinh tế này có điều kiện mở rộng thị trường hàng hóa, kích thích được quá trình phát triển sản xuất, giúp các khu vực kinh tế này có khả năng tham gia vào quá trình cạnh tranh trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Nước ta thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần nhằm mục tiêu đẩy mạnh quá trình giải phóng năng lực sản xuất của xã hội. Vì vậy, các thành phần kinh tế có vai trò khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước muốn phát huy được thế mạnh của mình trong quản lý kinh tế thì phải có được thực lực kinh tế hùng mạnh, ngoài việc sử dụng hệ thống công cụ kinh tế, công cụ pháp luật. Vì vậy, kinh tế nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước xác định là nền tảng vật chất để Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có chính sách để củng cố và phát huy thế mạnh của kinh tế nhà nước. Những năm qua, chúng ta đã chủ động tích cực trong xây dựng những cơ chế, chính sách và biện pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế nhà nước. Bên cạnh việc củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, Nhà nước cũng đã chú ý tới việc đổi mới,phát triển kinh tế hợp tác xã. Cùng với việc ban hành Luật hợp tác xã, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách cụ thể nhằm phát triển kinh tế hợp tác xã, làm cho thành phần kinh tế này có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế, nhất là ở nông thôn. Trong những năm đổi mới vừa qua, từ chỗ nhận thức rõ mặt hạn chế về hiệu quả của hợp tác xã kiểu cũ, chúng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp chuyển hầu hết các hợp tác xã kiểu cũ sang hợp tác xã kiểu mới. Trong nông nghiệp, hình thức khoán hộ được áp dụng một cách phổ biến, hợp tác xã chỉ đảm nhiệm một số khâu dịch vụ về kỹ thuật, giống, thú y, thủy lợi... Đẩy mạnh quá trình thị trường hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa, dân chủ hóa trong hoạt động của hợp tác xã. Sự phát triển của kinh tế hợp tác xã đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết công bằng xã hội ở nông thôn một cách tự giác. Qua thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội cho thấy, Nhà nước ta đã chủ động đưa ra những chính sách và biện pháp quản lý, vừa khuyến khích tăng trưởng kinh tế vừa bước đầu quản lý kinh tế một cách có hiệu quả. Các chính sách của Nhà nước đều nhằm kích thích, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Do đó đã từng bước khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế của nước ta so với các nước trên thế giới và trong khu vực và bảo đảm đúng định hướng XHCN. Nhà nước luôn chú trọng tới cơ cấu, chất lượng trong phát triển kinh tế theo nguyên tắc tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình phát triển. Nhà nước luôn hướng sự phát triển kinh tế vào quá trình thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN trên từng bước đi. Thể hiện điều đó, Nhà nước đã đưa ra hàng loạt các chủ trương như công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặc biệt đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng các khu kinh tế trọng điểm, thực hiện xóa đói giảm nghèo, có chế độ ưu đãi cho người có công với cách mạng, giải quyết có kết quả vấn đề việc làm cho người lao động. Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư phát triển mở rộng sản xuất, dịch vụ, đa dạng hóa ngành nghề, khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đã tạo thềm nhiều chỗ làm việc mới và tăng thêm việc làm cho người lao động [14, tr. 244]. Thời gian vừa qua, nhiều đạo luật về kinh tế, xã hội được ban hành đã thể chế, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, hình thành về cơ bản khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN. Cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách được đồng bộ hóa và hoàn thiện dần, đang phát huy tích cực trong quản lý kinh tế và trong đời sống xã hội. Trong quá trình triển khai thực hiện các Lu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVA~1.DOC
  • docBIA.DOC
  • docMUCLUC.DOC
Tài liệu liên quan