Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương 1 : Môi trường đầu tư, nhân tố quan trọng cho sự phát triển các DNNVV ở Việt Nam 3
I.Doanh nghiệp nhỏ vừa trong sự phát triển kinh tế xã hội 3
1.Khái niệm 3
2.1. Về điểm mạnh 3
2.2.Về các điểm yếu 4
3.Vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển 5
4. Điều kiện để phát triển DNNVV ở Việt Nam 6
4.1 Điều kiện khách quan 6
4.2 Điều kiện chủ quan 8
II. Môi trường đầu tư 9
1.Khái niệm 9
2.Các yếu tố cơ bản của môi trường đầu tư. 9
2.1.Các yếu tố tự nhiên và kinh tế 9
2.2.Môi trường chính trị xã hội 11
2.3.Hệ thống pháp luật 12
2.4. Các chính sách kinh tế 13
2.5.Hệ thống ngân hàng tài chính. 15
2.6. Tình hình phát triển kinh tế 15
Chương 2: Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV 18
I. Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV 18
1.Vị trí địa lý và nguồn tài nguyên thiên nhiên 18
2. Môi trường chính trị xã hội 19
3. Về khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư 20
3.1.Luật Doanh nghiệp 1999 20
3.2.Chính sách tài chính. 21
3.2.1.Chính sách thuế 22
3.2.2.Chính sách tài chính công 23
3.2.3 Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. 23
3.3.Các chính sách hỗ trợ DNNVV 27
4. Môi trường kinh tế vĩ mô 28
5. Kết cấu hạ tầng cho thu hút đầu tư 29
6. Các nguồn lực đầu vào 32
6. 1. Vốn 32
6.2 Mặt bằng sản xuất kinh doanh 38
6.3.Công nghệ 41
6.3.1 Tình trạng công nghệ của các DNNVV 41
6.3.2. Đầu tư cho khoa học công nghệ của nhà nước 43
6.4 Nguồn nhân lực 45
6.4.1 Thực trạng của lực lượng lao động 45
6.4.2 Thực trạng của các chủ DNNVV 46
7.Các yếu tố đầu ra 47
II. Kết quả và hiệu quả của môi trường đầu tư với sự phát triển của DNNVV 50
1.Kết quả 50
1.1 Về số lượng doanh nghiệp 50
1.2.Vốn đầu tư thực hiện và quy mô vốn đầu tư trung bình 51
1.3.Vốn đầu tư theo ngành 53
1.4. Số lao động của DNVVV tăng 54
1.5 Phân bố DNNVV theo vùng 55
2. Hiệu quả 56
2.1. Đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế, góp phần làm tăng GDP 56
2. 2. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động 57
2 3. Thu hút FDI 58
2.4 Đóng góp vào hoạt động xuất khẩu 59
3. Những tồn tại yếu kém trong phát triển DNNV 60
3.1 Về lao động 60
3.2 Về nguồn vốn và địa điểm kinh doanh 60
3.3 Khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường xuất khẩu 62
3.4 Khó đổi mới công nghệ. 62
3.5 Nguyên nhân yếu kém 63
Chương 3: Một số giải pháp cải thiện môi trường đầu tư phát triển DNNVV 64
I .Các quan điểm và định hướng chính trong phát triển DNNVV 2006-2010 64
1. Các quan điểm trong việc xây dựng chính sách phát triển DNNVV 64
1.1 Chủ động phát huy nội lực đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài để đóng góp vào quá trình CNH-HĐH đất nước. 65
1.2 Thực sự đối xử bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế 65
1.3 Hạn chế sự can thiệp thường xuyên trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 66
1.4 Tạo điều kiện tối đa cho mọi công dân phát huy ý kiến và hình thành thực hiện ý tưởng kinh doanh 66
1.5 Tăng cường giúp đỡ các DN thông qua các biện pháp như tư vấn, thông tin, đơn giản hoá thủ tục hành chính 66
1.6 Nới lỏng những quy định hành chính hạn chế việc gia nhập thị trường của các DN 67
2. Định hướng chính trong việc phát triển DNNVV 67
II.Các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư phát triển DNNVV 68
1.Khẳng định vai trò của DNNVV trong nền kinh tế 68
2. Chính sách khuyến khích đầu tư và huy động vốn. 69
3. Chính sách tín dụng- ngân hàng 70
4. Chính sách thuế 73
5. Mặt bằng sản xuất kinh doanh 74
6. Chính sách thương mại 75
7. Đào tạo nguồn nhân lực 77
8. Công nghệ 77
Kết luận 79
Tài liệu tham khảo 80
83 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1060 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Môi trường đầu tư với sự phát triển của DNNVV Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nguồn vốn từ tầng lớp cho vay nặng lãi, người thân, bạn bèvà đây cũng là nguồn vốn chính đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo thống kê 72% doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội chưa vay được vốn của ngân hàng. Nguồn vốn của các doanh nghiệp này là 16% vay vốn của bạn bè, còn lại sử dụng vốn tự có, vốn vay gia đình và vốn vay ngoài tổ chức tín dụng với lãi suất trên 1%/ tháng. Còn các khoản vay của các tổ chức thì: 50% các khoản vay này dành cho doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ nhận được 16,5% tổng số khoản cho vay. Các ngân hàng thương mại quốc doanh dùng khoảng 55% khoản vay để cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước trong khi chỉ cấp cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh 14,7%. Ngân hàng công thương là ngân hàng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay nhiều nhất cũng chỉ đạt 21% các khoản vay (2003). Các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng dành tới 32,5% cho các doanh nghiệp Nhà nước vay và chỉ có 22,6% được dành cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các khoản vay trung hạn và dài hạn của các ngân hàng trong cả nước chiếm 34,5% trong đó phần lớn các khoản vay này dành cho doanh nghiệp Nhà nước (66,2%), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ nhận được một phần ít ỏi là khoảng 5,4%. Nguyên nhân của việc này là do: các thủ tục vay vốn tín dụng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức rất phức tạp làm cho chi phí giao dịch cao làm cho các khoản tín dụng này trở nên quá đắt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa các quy định khắt khe về tài sản thế chấp và về các dự án đầu tư làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể đáp ứng được khi họ muốn vay vốn từ các tổ chưc tài chính. Sự phân biệt đối xử trong cách nhìn nhận của xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân (phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) cũng tác động tiêu cực đến việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp này. Chính vì vậy, nếu doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước cùng có đủ các điều kiện như nhau thì thông thường cán bộ tín dụng sẽ cấp tín dụng cho DNNN và từ chối đối với DNTN.
-Vốn tự có của các doanh nghiệp : Vốn này được hình thành từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp bổ sung cho vốn kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đây là nguồn vốn chủ yếu. Các chủ doanh nghiệp trực tiếp bỏ vốn của mình ra đầu tư, có tới 70% số doanh nghiệp được thành lập theo hình thức này. Đối với DNNN thì nguồn vốn tự có của doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 25% tổng số vốn của doanh nghiệp. Vốn tự có của DNNN và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh liên tục tăng qua các năm, tuy nhiên tỷ trọng vốn tự có của các DNNN lại có xu hướng sút giảm do sự sút giảm của việc thành lập các DNNN.
-Vốn huy động từ dân cư: Trong những năm gần đây, các loại hình doanh nghiệp đã thu hút một lượng vốn đáng kể của dân cư, đưa nguồn vốn đó vào chu chuyển khắc phục một nghịch lí đã tồn tại nhiều năm là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng trong khi lượng vốn trong dân cư còn nhiều, khả năng tiềm ẩn chưa được khai thác. Trên thực tế, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, vốn trong dân cư được huy động vào đầu tư phát triển ngày càng tăng Kết quả huy động vốn trong dân hàng năm tuy tăng nhanh nhưng cũng chỉ đạt ở mức thấp so với nguồn lực trong dân. Vấn đề đặt ra là tìm cơ chế, chính sách, giải pháp thích hợp nhằm khuyến khích các tầng lớp dân cư yên tâm đầu tư, tạo lòng tin và môi trường đầu tư hấp dẫn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thu hút khá nhiều vốn trong dân cư do tính chất hiệu quả, qui mô phù hợp, lượng vốn đòi hỏi không nhiềudo đó cần có những biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển.
-Theo đánh giá mới đây nhất của ngân hàng thế giới về sự kém phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam trong thời gian qua là do sự kém phát triển của hệ thống ngân hàng đã cản trở sự luân chuyển các nguồn tài chính từ người tiết kiệm tới người đầu tư. Sự lệ thuộc của DNNVV vào nguồn vốn phi chính thức cho thấy mức độ ảnh hưởng của chính sách tài chính, tín dụng đối với các doanh nghiệp này là không lớn. Sự phụ thuộc đó gây thiệt hại cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do chúng phải chịu chi phí giao dịch và lãi suất cao hơn nhiều lần. Lãi suất đối với các khoản vay từ khu vực phi chính thức có thể gấp 3 lần so với lãi suất từ khu vực chính thức.
Hiện nay các DNNVV tư nhân ít sử dụng các dịch vụ ngân hàng cho các giao dịch mua bán và họ thực sự thấy kém bình đẳng hơn so với khu vực kinh tế nhà nước khi phải đối mặt với các điều khoản vay vốn
Chính phủ thường sử dụng chính sách tín dụng như một chính sách điều tiết lượng cung tiền và giúp các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn. Trong thời gian qua tuy chính sách tín dụng của Việt Nam đã và đang dần được cải thiện tuy nhiên tác động của chính sách tín dụng này là không lớn.Trong khi mà các chính sách của chính phủ là khuyến khích các DNNVV vay vốn thông qua các nguồn vốn ưu đãi thì nhiều DNNVV không biết làm thế nào để tiếp cận được với nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước và của các ngân hàng, thậm chí có doanh nghiệp đã tiếp cận được với các thủ tục vay vốn ưu đãi nhưng thấy quá phức tạp và tốn kém cả về chi phí và thời gian. Hầu hết các DNNVV có quy mô nhỏ, vốn ít luôn trong tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh, các DNNVV ở thành phố Hồ Chí Minh có tiềm lực về vốn cao hơn nhiều so với các DNNVV khác trong cả nước, tuy nhiên so với nhu cầu thực tế của quá trình sản xuất kinh doanh thì vẫn còn khoảng cách xa. Số doanh nghiệp có quy mô vốn từ 500 triệu đồng trở xuống chiếm khoảng 45,6%, số có quy mô từ 10-50 tỷ chiếm khoảng 1,6% do đó có thể thấy phần lớn các doanh nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng lớn( 82%). Mặc dù rất thiếu vốn để sản xuất kinh doanh nhưng các DNNVV lại gặp khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, làm cho tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau tăng lên.
Hiện tượng các ngân hàng dư thừa vốn trong khi các DNNVV lại thiếu vốn và phải đi vay ở thị trường không chính thức vừa tác động xấu đến hoạt động của ngân hàng lại vừa không hỗ trợ được cho các DNNVV gây thiệt hại cho toàn xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này được cho là có nguồn gốc từ 2 yếu tố đó là đòi hỏi phải có những đảm bảo công khai như tài sản cố định, giấy chứng nhận quyền sử dụng đấttrong khi DNNVV thường thiếu những tài sản thế chấp này và yếu tố thứ 2 là do bảo lãnh ngầm cho doanh nghiệp nhà nước, vì là doanh nghiệp của nhà nước nên nếu làm ăn thua lỗ thì đã có nhà nước trả.
Bên cạnh những nguyên nhân trên thì nguyên nhân không kém phần quan trọng xuất phát từ chính các DNNVV. Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến việc tiếp cận vốn tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn rất hạn chế do doanh nghiệp không hiểu về cơ chế tín dụng của ngân hàng thương mại, có tâm lý sợ thủ tục vay vốn của ngân hàng rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay của ngân hàng khó khăn. Phần lớn các DNNVV thiết lập thủ tục vay vốn của ngân hàng không đúng quy định mà ngân hàng yêu cầu.
Nhiều doanh nghiệp, nhất là các công ty TNHH, tài sản pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên ngân hàng rất khó thẩm định, đánh giá về năng lực thực sự của khách hàng. Hệ thống sổ sách kế toán, nội dung và phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp thường không đầy đủ, chính xác và thiếu minh bạch. Năng lực tài chính nội tại của doanh nghiệp yếu, các hệ số tài chính không đảm bảo theo yêu cầu của ngân hàng, không xác định rõ ràng được dòng tiền lưu chuyển bởi vậy không tính toán được đúng khả năng trả nợ trong tương lai. Một số lớn các DNNVV lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư còn mang nặng tính chủ quan, áp đặt của lãnh đạo doanh nghiệp, hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần tuý.Nội dung của phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư đôi khi được thiết lập sơ sài, bởi vậy thiếu thuyết phục ngân hàng khi xem xét thẩm định cho vay.
Ở một số doanh nghiệp, việc điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo thiếu bài bản, mang nặng tính gia đình. Trong quan hệ với ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm, việc bố trí cán bộ quan hệ giao dịch với ngân hàng không hợp lý, cán bộ có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, khả năng thuyết trình, đàm phán với ngân hàng. Đây chính là những vấn đề mà các DNNVV cần lưu tâm và khắc phục, nếu khắc phục tốt những điểm hạn chế này thì chắc chắn vay vốn ngân hàng dễ dàng hơn nhiều. Các ngân hàng cần đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường và nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, cải tiến thủ tục cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn, tiếp tục cải tiến quy trình cho vay nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay. Đồng thời cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức bảo đảm tín dụng để thích ứng với đặc điểm của các DNNVV, tiếp tục nghiên cứu và triển khai mạnh việc phát triển và hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng mới như dịch vụ tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, bảo quản vật có giá, cung cấp các dịch vụ sản phẩm bảo hiểm, uỷ thác...
6.2 Mặt bằng sản xuất kinh doanh
Mặt bằng phục vụ sản xuất kinh doanh hiện nay là vấn đề bức xúc nhất đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV.
Tình trạng khá phổ biến trong thời gian qua đó là trong khi nhiều DNNN được giao đất và sử dụng đất không có hiệu quả, đất đai bỏ hoang và sử dụng không đúng mục đích thì các doanh nghiệp tư nhân lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đất đai làm mặt bằng kinh doanh.
DNNVV có thể có được mặt bằng sản xuất thông qua các hình thức sau:
- Thuê đất của nhà nước: thông thường để thuê được đất của nhà nước phục vụ sản xuất DNNVV phải làm rất nhiều thủ tục ở cả 3 cấp với gần 25 con dấu và chữ kí khác nhau và với rất nhiều thời gian từ 1,5-5 năm, chi phí ( kể cả chi phí đi lại và chi phí tiêu cực ), ngoài ra doanh nghiệp phải thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng kèm theo các khoản chi phí hỗ trợ như hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ địa phương xây dựng cơ sở hạ tầngvới chi phí cao.Theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp khi hoàn tất các thủ tục này thì cơ hội kinh doanh qua đi và phần lớn vốn tự có của doanh nghiệp đã chi để có đất nên đã hạn chế phần vốn dành cho sản xuất kinh doanh.
- Thuê lại diện tích sử dụng đất chưa sử dụng hết của các DNNN. Xuất phát từ lý do trước đây các DNNN được nhà nước giao đất để sản xuất kinh doanh, đến nay chuyển đổi nền kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có sự năng động cao, nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, hoạt động cầm chừng, không sử dụng hết diện tích đất được giao, nhưng không trả lại cho nhà nước và các doanh nghiệp này cho các DNNVV thuê lại một phần để sản xuất kinh doanh
Thời hạn thuê đất trong các trường hợp này thông thường là ngắn, do đó doanh nghiệp không yên tâm sản xuất, đầu tư vào công nghệ. Mặt khác việc thuê lại đất chưa sử dụng hết của DNNN là bất hợp pháp, các DNNVV thuê đất không thể mang tài sản này để thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng để có thêm vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ.
- Thuê quyền sử dụng đất của các cá nhân : Việc thuê đất của các cá nhân để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng mang tính bất ổn cao.Giống như trường hợp thuê lại đất sử dụng chưa hết của DNNN, thời gian thuê đất của cá nhân ngắn, ngoài ra tính rủi ro cao vì trong nhiều trường hợp chủ đất thấy khi doanh nghiệp làm ăn có lãi đã đòi lại đất để kinh doanh cùng mặt hàng, hoặc đòi tiền thuê đất cao hơn, để cho doanh nghiệp khác thuê nên cũng không khuyến khích đầu tư lâu dài.
- Chủ đầu tư sử dụng nhà xưởng hiện có để tiến hành sản xuất kinh doanh, hình thứ này chủ yếu tập trung ở các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại hoặc sản xuất quy mô hộ gia đình.
- Thuê đất trong các KCN, cụm công nghiệp: đối với các KCN có cơ sở hạ tầng tốt, chi phí thuê đất thường cao và yêu cầu doanh nghiệp trả tiền một lần, với giá thấp nhất khoảng 20-22USD/m2. Nếu giả sử một DNNVV có vốn đầu tư khoảng 10 tỷ đồng,cần diện tích khoảng 0,5ha và giá thuê đất tại khu công nghiệp là khoảng 20USD/m2 (đây là giá thuê đất thấp nhất và ở các địa phương có điều kiện khó khăn, còn tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội phát triển thì giá cho thuê lại đất trong các KCN cao gấp 2-3 lần), thì chi phí này của doanh nghiệp đã chiếm 1/5 tổng vốn của doanh nghiệp, với số vốn còn lại doanh nghiệp rất khó đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ tiên tiến.
Như vậy tiếp cận với quyền sử dụng đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh là vấn đề khó khăn nhất đối với đầu tư mới cũng như đầu tư mở rộng của các DNNVV.Số đất nhà nước để cho thuê là quá ít so với nhu cầu, ví dụ ở Hà Nội từ năm 1994-2000 chỉ có 376 DNDD thuê được đất của nhà nước để phục vụ sản xuất kinh doanh trong khi đó chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2002 đã có 400 doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất. Điều tra của Ban quản lý khu công nghiệp cho thấy 66,7% doanh nghiệp gặp quá nhiều khó khăn trong tìm kiếm mặt bằng kinh doanh, 44,4% không đủ kiên nhẫn vì thủ tục thuê đất quá vòng vèo và không rõ ràng, đùn đẩy trách nhiệm giữa cơ quan này và cơ quan khác.Tình hình này cũng diễn ra ở các địa phương khác nhất là ở các thành phố và vùng đô thị.
Để thực hiện đầu tư đại đa số các DNNVV phải tự xoay xở kiếm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp này chi phí đầu tư của doanh nghiệp là rất lớn, nhưng nghịch lý ở chỗ là doanh nghiệp sau khi đã chi ra một khoản tiền lớn để có được mặt bằng kinh doanh thì nó vẫn không thuộc sở hữu của doanh nghiệp, điều này không chỉ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, cho các doanh nghiệp mà nó còn làm tổn hại đến nền kinh tế xã hội, vì đất đai và quyền sử dụng đất đai nói trên đã không trở thành vốn luân chuyển để vốn thu hút thêm vốn và tạo ra vốn mới để phát triển kinh tế xã hội.
6.3.Công nghệ
6.3.1 Tình trạng công nghệ của các DNNVV
Thực trạng công nghệ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là kết quả về mặt công nghệ của quá trình hình thành và phát triển trong bối cảnh lịch sử cụ thể và những yếu tố khác. Ở Miền Bắc, các máy móc thiết bị của ta có được đa số do việc trợ giúp từ nước ngoài với mức độ công nghệ là trung bình và lạc hậu. Ở miền Nam, các máy móc thiết bị của chủ doanh nghiệp dựa trên cơ sở kế thừa của các doanh nghiệp thành lập trước năm 1975. Chính vì vậy, hầu hết các máy móc thiết bị miền Nam đều ở trình độ trung bình và thấp.
Từ khi có chính sách đổi mới do Đảng ta khởi xướng nhất là trong những năm gần đây do sự thay đổi về cơ chế quản lý, áp lực về đổi mới công nghệ ngày càng gia tăng nên nhiều DNNVV đã bỏ ra những khoản tiền lớn để mua sắm máy móc thiết bị và công nghệ mới. Điều này đã tạo ra một số sản phẩm cạnh tranh, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và một phần cho xuất khẩu. Nhưng nhìn tổng thể, máy móc thiết bị và công nghệ DNNVV còn lạc hậu. Thậm chí cả doanh nghiệp Nhà nước sau khi tổ chức sắp xếp lại phần lớn vẫn là quy mô vừa và nhỏ và trình độ công nghệ thấp, trừ một số ngành mới có công nghệ tương đối hiện đại như năng lượng, viễn thông, điện tử, tin học. Theo điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu dự án về mức độ hiện đại của công nghệ ở hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nói chung phần lớn máy móc thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn lạc hậu.
Trình độ công nghệ máy móc thiết bị đang sử dụng trong sản xuất của các ngành công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh thể hiện trong bảng sau:
Bảng 6: Trình độ công nghệ của DNNVV ở thành phố Hồ Chí Minh
năm 2005
Ngành công nghiệp
Tổng số(%)
Trình độ công nghệ so với thế giới
Hiện đại(%)
Trung bình(%)
Lạc hậu (%)
Tổng số
Trong đó
Thực phẩm
Thuốc lá
Dệt nhuộm
May mặc
Da và vải da
Vật liệu xây dựng
In
Hoá chất
Cao su, nhựa
Điện tử
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
10
9,5
4,3
20,4
12,5
1,8
16
15,6
5
28,6
38
25
100
38,3
51
43,7
48,2
56
40,4
40,6
57,1
52
65,5
57,4
28,6
43,8
50
28
44
54,4
14,3
Nguồn: Viện NCQLKTTW
Theo đánh giá của Trung tâm nghiên cứu và phát triển DNNVV Đại học Wollongong (Úc) cho rằng các DNNVV Việt Nam sử dụng máy móc thiết bị và kĩ thuật lạc hậu so với mức trung bình thế giới 3-4 thế hệ ( không kể những doanh nghiệp hoàn toàn không sử dụng máy móc chỉ sử dụng cơ bắp). Hơn nữa tốc độ đổi mới quá chậm chỉ có 10% /năm. Các doanh nghiệp Việt Nam không sử dụng hết công suất của mình, hiện nay vẫn còn bộ phận không nhỏ DNNVV chỉ sử dụng dưới 70% công suất các thiết bị. Nguyên nhân trực tiếp là do máy móc được trang bị không đồng bộ và công nghệ lạc hậu.
Ngay tại địa bàn Hà Nội là một trong số ít địa phương có trình độ khoa học công nghệ và tốc độ đổi mới khoa học công nghệ cao nhất nước thì tỷ lệ chung về thiết bị hiện đại và tương đối hiện đại cũng chỉ đạt 36-38% tài sản cố định của các doanh nghiệp công nghiệp. Trình độ cơ khí hoá và tự động hoá của DNNVV Việt Nam còn hết sức thấp kém, điều đó được thể hiện ở bảng sau:
DNNN
DNDD
Doanh nghiệp liên doanh
Tính chung
1.Trình độ tự động hoá
0% công việc
25,3
31,3
-
21,74
5-10% công việc
1,2
17,24
-
4,35
10-20% công việc
20,48
3,5
15,38
15,94
Trên 20% công việc
38,55
20,69
80,77
42,75
2.Trình độ cơ khí hoá
30-50% công việc
37,35
20,69
80,77
42,03
50-60% công việc
13,25
20,69
-
12,32
Trên 60% công việc
44,58
41,38
3,85
26,23
Nguồn: Điều tra của Jica-2005
Về trình độ công nghệ trong sản xuất các sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp thì do không có khả năng về công nghệ nên mức độ nội địa hoá nguyên liệu đầu vào không cao. Hiện nay điều đáng chú ý là nguyên liệu đầu vào của rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đều có thể sản xuất được trong nước(dạng tự nhiên hoặc sơ chế), tuy nhiên do trình độ công nghệ còn thấp nên chi phí bị dội lên, trong khi sản phẩm cùng loại nhập khẩu có chất lượng cao và rẻ hơn.
6.3.2. Đầu tư cho khoa học công nghệ của nhà nước
Đầu tư cho khoa học công nghệ được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước, vốn của doanh nghiệp và từ nước ngoài.
Năm 2004 là năm thứ 5 nhà nước thực hiện đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động Khoa học công nghệ, đạt 2% tổng chi của ngân sách nhà nước ( bao gồm cả chi cho đầu tư phát triển trong lĩnh vực môi trường, đầu tư cơ bản và một số lĩnh vực khác)
Bảng 7: Đầu tư cho KHCN từ ngân sách nhà nước
Nội dung
2003
2004
Tổng chi KH-CN( tỷ. đ)
3.180
3.727
Tăng trưởng (%)
21,3
17,2
Tổng chi NSNN
158.020
182.875
Chi KH-CN/NSNN(%)
2
Nguồn: Bộ KHCNTN&MT
Tuy đầu tư cho khoa học công nghệ còn của Việt Nam tăng nhanh qua các năm nhưng vẫn còn mang nặng tính dàn trải và không đúng trọng tâm, thấp hơn nhiều so với các nước công nghiệp mới ở Châu Á.
Bảng 8:So sánh về đầu tư cho R&D của Việt Nam và một số nước trong khu vực
Tổng chi
cho R&D
Tỷ trọng chi cho
R&D so GDP
Đầu tư
R&D/người
Tỷ trọng chi của NSNN/tổng
Chi cho R&D
Philippin
51
0,078
0,7
58,8
Việt Nam
150
0,47
1,78
81
Singapore
1489
1,8
384,4
38,3
Malaysia
195
0,2
9,3
40
Indonesia
187
0,092
1,0
53,5
Thái Lan
197
0,175
3,2
78,7
Trung Quốc
6655
0,693
5,3
55,1
Hàn Quốc
8089
2,689
174,2
27,5
Nhật Bản
122275
2,913
969,9
28
Nguồn: Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia-CIEM-UNDP- 2005
Việc chậm đổi mới công nghệ sẽ dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam tới nguy cơ tụt hậu về công nghệ, chất lượng sản phẩm sản xuất ra chất lượng không cao, trong khi giá thành cao, tiêu hao nhiều nguyên liệu và nguy cơ gây ô nhiễm cao, có thể dẫn đến việc hàng hoá của các nước xung quanh có nền công nghiệp cao hơn sẽ dần chiếm lĩnh thị trường nội địa, nguy cơ cao hơn nữa là nền công nghiệp của chúng ta sẽ bị đè bẹp.
6.4 Nguồn nhân lực
6.4.1 Thực trạng của lực lượng lao động
Xét về số lượng lao động, Việt Nam có số lao động dồi dào và tỷ lệ lao động trẻ cao. Mức tăng bình quân dân cư trong độ tuổi lao động mỗi năm khoảng 1,4-1,5 triệu người, giá cả sức lao động ở Việt Nam vẫn được coi là tương đối rẻ
Tuy nhiên chất lượng và cơ cấu đội ngũ lao động nước ta còn nhiều điều bất cập yếu kém thể hiện qua các chỉ tiêu chính như: tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động xã hội còn rất thấp, ước tính chỉ khoảng 16,5% ; cơ cấu lao động đã qua đào tạo rất bất hợp lý, cụ thể là tỷ lệ giữa đào tạo đại học, trung học và công nhân kĩ thuật theo cơ cấu : 1-1,5-2,5 trong khi ở các nước phát triển trong khu vực là : 1-4-10. Điều đó dẫn đến tổng số lao động qua đào tạo đã ít, số công nhân kĩ thuật lại còn ít hơn so với thực tế. Hơn nữa chất lượng dạy nghề lại yếu, nhiều người tuy có bằng cấp chứng chỉ nhưng không được thị trường lao động chấp nhận, sử dụng.
Bảng 9: Cơ cấu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kĩ thuật.
Chỉ tiêu
Đơn vị
1996
1999
2004
Tổng số lao động
Nghìn người
35866
37783
41313
Có chuyên môn
Nghìn người
4414
5241
8768
%
12,31
13,87
21,23
Không có chuyên môn
Nghìn người
31452
32542
32545
%
87,69
86,13
78,77
Nguồn: Niên giám thống kê - Bộ LĐTB- XH- 2004
Số liệu bảng trên cho thấy đến năm 2004 toàn quốc có 8.768 nghìn lao động có chuyên môn kĩ thuật, gồm các trình độ đào tạo từ sơ cấp đến sau đại học, so với tổng số cả nước chiếm 21,23%, và số lượng lao động không có chuyên môn kĩ thuật chiếm đến 78,77% tổng số lao động cả nước, đây là một thách thức lớn đối với nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn của các DNNVV.
Bên cạnh đó trong số hơn 20% lao động có chuyên môn thì chỉ gần 5% lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có trình độ Đại học cũng chỉ khoảng 2%. Về cơ bản, đội ngũ này mới được hình thành những năm 90, còn thiếu kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Quy mô nhỏ lại luôn khó khăn về vốn nên hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động.
Đây là một lực cản mà tất cả các doanh nghiệp đều gặp và cần phải quyết tâm vượt qua vì sự tồn tại của bộ phận doanh nghiệp này trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Về phía các DNNVV, thiếu vốn đã làm họ không thể chủ động giải quyết nguồn nhân lực cho chính mình, ngay cả với những chủ doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Con đường chung mà các doanh nghiệp vẫn thực hiện là tìm lao động qua các Hội chợ việc làm.
Thực tế qua các Hội chợ việc làm được tổ chức gần đây cho thấy, mặc dù được tuyển chọn lao động trong điều kiện thị trường đầy ắp các cử nhân đang khát khao tìm việc, thì các doanh nghiệp cũng không phải dễ dàng tìm được những lao động phù hợp cho mình và nếu có tuyển dụng được thì cũng còn phải bỏ thời gian, kinh phí để đào tạo lại cho phù hợp với yêu cầu chuyên môn của doanh nghiệp.
Tuy nhiên nhu cầu sử dụng lao động giỏi cũng chưa phải là động lực chính của các DNNVV. Tình trạng các lao động giỏi được đào tạo tốt đổ xô vào các công ty có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra khá phổ biến, tại nhiều doanh nghiệp này còn diễn ra tình trạng những lao động đã tốt nghiệp đại học đảm nhiệm các vị trí lẽ ra bố trí cho các công nhân kĩ thuật trong khi các DNNVV trong nước do công nghệ thấp và để đảm bảo hạ giá thành sản phẩm đã chỉ sử dụng các lao động có tay nghề thấp, lao động phổ thông.
6.4.2 Thực trạng của các chủ DNNVV
Về cơ cấu trình độ của các chủ DNNVV theo kết quả điều tra thì 30% chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân viên chức thuộc khu vực kinh tế nhà nước chuyển ra. Đây là đội ngũ phần nào đã có kinh nghiệm trong sản xuất, một số ít có tay nghề và trình độ quản lý.Khoảng 60% đã từng là chủ doanh nghiệp nhỏ hoặc đã hoạt động ở khu vực kinh tế cá thể, tư nhân có nghề truyền thống của gia đình. Đây là lực lượng khá lớn có kinh nghiệm nghề nghiệp nhưng trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, tài chính kế toáncòn thiếu.
Về trình độ chuyên môn thì trong số các chủ doanh nghiệp cứ 100 người thì có 1 người có trình độ trên đại học, 14 người có trình độ đại học hoặc tương đương.Hơn nữa trong số chủ doanh nghiệp có trình độ trung học hoặc đại học thì chủ doanh nghiệp có trình độ đào tạo nghề phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh thấp, chỉ khoảng 7%.
Khoảng 30% chủ doanh nghiệp đã hoạt động kinh tế tư nhân, mặc dù chưa có nghề nhưng nhờ chính sách chế độ mới đã nắm cơ hội tạo lập cơ sở nâng cao hoặc phát triển doanh nghiệp thừa kế của gia đình. Chủ doanh nghiệp này phần lớn hoạt động ở khu vực dịch vụ, đặc biệt là may mặc, dịch vụ văn hoá, sữa chữa cơ khí, điện tử. Chủ doanh nghiệp có nghề phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp nhưng ở trình độ thấp, chủ yếu dựa vào đào tạo từ cơ sở dạy nghề tư nhân hoặc kèm cặp qua thực tế, hay được gia đình truyền lại. Có một số chủ doanh nghiệp loại này đã làm trong khu vực kinh tế nhà nước, nhưng khi lập doanh nghiệp kiến thức cũ không đáp ứng được mà phải tự học lại, hoặc nâng cao kiến thức qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn. Một số ít các chủ doanh nghiệp đã có quá trình đi làm cho các chủ doanh nghiệp khác từ khi còn ít tuổi, tự học nghề trong thực tế sau đó có vốn và tự đứng ra thành lập doanh nghiệp.
Qua tình hình, đặc điểm và trình độ của các chủ doanh nghiệp nói trên có thể thấy rằng đội ngũ các chủ doanh nghiệp có sự bất cập về trình độ. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này trước hết là do sự chuyển đổi về cơ chế quản lý, các DNNVV đang trong giai đoạn đầu của quá trình hì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4898.doc