Luận văn Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu ở Lạng Sơn giai đoạn 2000 – 2005

 

MỤC LỤC

Trang

LỜI NÓI ĐẦU. 1

 

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH 3

I. Hoạt động xuất nhập khẩu và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ở các địa phương các tỉnh, thành phố 3

1. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá 3

2. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. 4

3. Bản chất và phân loại hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. 6

II. Nội dung và hình thức hoạt động xuất nhập khẩu ở các tỉnh 7

1. Các hình thức nhập khẩu. 7

2. Hoạt động xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường. 8

III. Các nhân tố ảnh hưởng và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 10

1. Nhân tố chủ quan. 10

2. Các nhân tố khách quan. 12

3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 14

 

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HIỆN NAY Ở LẠNG SƠN 15

I. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội ở lạng sơn có ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu 15

1. Đặc điểm kinh tế xã hội 15

2. Về xuất nhập khẩu. 18

II. Phân tích thực trạng xuất nhập khẩu hiện nay ở lạng sơn 20

1. Thực trạng xuất nhập khẩu hiện nay 20

2. Hoạt động du lịch - dịch vụ. 25

3. Mặt hàng xuất nhập khẩu qua Lạng Sơn 31

4. Cơ cấu hàng xuất khẩu qua Lạng Sơn. 33

5. Giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu: 36

III. Đánh giá trung về ưu nhược điểm về hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh 37

1. Chính sách xuất nhập khẩu. 37

2. Chính sách xuất nhập cảnh (XNC). 39

3. Về chính sách thuế: 40

4. Về chính sách tài chính. 40

5. Về chính sách tiền tệ, ngân hàng. 40

6. Chính sách hợp tác kinh tế và đầu tư với Trung Quốc. 41

 

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở LẠNG SƠN 43

I. Phương hướng thúc đẩy xuất nhập khẩu ở lạng sơn 2000-2005 43

1. Tác động tích cực đến phát triển kinh tế. 43

2. Tác động đến vấn đề xã hội. 47

3. Những nhược điểm và tồn tại chủ yếu. 47

4. Nguyên nhân của các tồn tại trên. 49

II. Mục tiêu phương hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu 2000 - 2005. 50

1. Mục tiêu. 50

2. Những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch (2001-2005). 50

III. Biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh lạng sơn. 53

1. Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, nâng cao chất lượng hoạt động thương mại và du lịch - dịch vụ. 53

2. Về cơ chế chính sách. 53

3. Về xuất nhập khẩu. 56

4. Đối với thị trường nội địa. 56

5. Về thông tin thị trường và đào tạo nghiệp vụ. 57

 

KẾT LUẬN. 59

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc63 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2121 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu ở Lạng Sơn giai đoạn 2000 – 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h thay đổi từng năm như trước đây. Bên cạnh đó kết quả của việc thực hiện cả cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan đã tạo sự thông thoáng cho doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Về hàng hoá xuất nhập khẩu, Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích đối với hàng hoá xuất khẩu, hầu hết thuế suất bằng không, bãi bỏ việc phê duyệt và phân bổ hạn ngạch một số mặt hàng, tiếp tục thực hiện cơ chế thoái thu thuế giá trị gia tăng cho người sản xuất hàng xuất khẩu. Về phía địa phương, Sở Thương mại và Du lịch phối hợp với các ngành tham mưu đề xuất với tỉnh bãi bỏ việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu tiểu ngạch, bãi bỏ việc thu lệ phí chuyển khẩu, sắp xếp chấn chỉnh lại công tác kiểm tra kiểm soát của các lực lượng chức năng trên địa bàn, tạo hành lang thông thoáng cho lưu thông hàng hoá và hoạt động xuất nhập khẩu qua địa bàn phát triển mạnh hơn. II. Phân tích thực trạng xuất nhập khẩu hiện nay ở lạng sơn 1. Thực trạng xuất nhập khẩu hiện nay Trong 5 năm qua, tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt từ khi chính phủ cho phép thực hiện các chính sách ưu đãi phát triển các khu kinh tế cửa khẩu. Lạng Sơn đã nhanh chóng tiếp cận và triển khai thực hiện, thành lập Ban chỉ đạo và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp, từng ngành có liên quan tổ chức thực hiện một cách đồng bộ các chính sách ưu đãi về đầu tư, các chính sách về tài chính, các chính sách về xuất nhập cảnh. Khẩn trương lập các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu vực, cụ thể hoá các cơ chế chính sách về ưu đãi đầu tư, thu hút các doanh nghiệp mở rộng các hoạt động kinh doanh thương mại. Xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, kho ngoại quan, chợ cửa khẩu, cửa hàng kinh doanh hàng miễn thuế, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các dịch vụ vận chuyển hàng hoá, kho tàng bảo quản, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí, bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, quản lý đô thị, môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội... đã thu hút hơn 300 doanh nghiệp trong cả nước thường xuyên tham gia buôn bán, đầu tư ở khu vực kinh tế cửa khẩu, thu hút hàng trăm hộ thương nhân Trung Quốc thuê quầy hàng bán hàng tại chợ cửa khẩu Tân Thanh, làm cho các hoạt động thương mại - dịch vụ ở khu vực cửa khẩu thêm sôi động và có hiệu quả kinh tế thiết thực. Trao đổi hàng hoá qua biên giới đường bộ với Trung Quốc chiếm vị trí hết sức quan trọng trong quan hệ thương mại giữa Lạng Sơn - Việt Nam và Quảng Tây - Trung Quốc. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 5 năm qua địa bàn đạt: 1.959 triệu USD chiếm đến hơn 60% kim ngạch xuất nhập khẩu qua cửa khẩu đường bộ các tỉnh biên giới phía Bắc. Trong đó: - Xuất khẩu: 1.252 triệu USD - Nhập khẩu: 717 triệu USD. Các doanh nghiệp Lạng Sơn thực hiện được trong 5 năm 747 triệu USD. Trong đó: - Các doanh nghiệp nhà nước: 395 triệu USD - Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác: 350 triệu USD Xuất nhập khẩu tiểu ngạch cũng chiếm vị trí quan trọng, trong 5 năm thực hiện được 375 triệu USD, chiếm 18,8% kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa Lạng Sơn và Quảng Tây. Các thành phần kinh tế khác trên địa bàn có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 5 năm 350 triệu USD, chủ yếu do các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH và một số chi nhánh đóng trên địa bàn. + Cơ cấu hàng xuất khẩu, gồm các nhóm hàng: - Hàng nông lâm sản: dầu dừa công nghiệp, cà phê, cao su, rau hoa quả, hạt điều. - Hàng thủy hải sản: cá (ướp đá, muối, khô), mực, tôm... - Khoáng sản: than, quặng kim loại các loại. - Hàng công nghệ phẩm: xà phòng, chất tẩy rửa, mỹ phẩm, hàng dệt may, giày dép, điện tử, thủ công mỹ nêh, bánh kẹo các loại... + Cơ cấu hàng nhập khẩu, gồm các mặt hàng: - Hoá dược: dược liệu và dược phẩm, hoá chất và hoá phẩm, nguyên liệu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thuốc trừ sâu. - Nhóm máy móc thiết bị: gồm các loại thiết bị lẻ, thiết bị y tế, thiết bị ngành dệt, phương tiện vận tải, bình cửu hoá, cần trục thuỷ lực, động cơ nổ, máy cán cao su, máy bào, phụ tùngong và phụ tùng, thiết bị lắp đặt hệ thống nước sinh hoạt... - Thiết bị toàn bộ: dây chuyền sản xuất đường, dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng. - Vật liệu công nghiệp: dây điện thoại, gạch chịu lửa, dây cáp thông tin, giấy bóng kính, giấy các loại, mi ca tâm, nam châm vĩnh cửu, vật liệu xây dựng, vòi cứu hoả. - Nhóm nguyên nhiên liệu: gồm có sản phẩm dầu mỏ, hoá chất, sắt thép,... - Nhóm hàng lương thực thực phẩm: gồm bột mỹ, hoa quả, dầu thực vật. Giai đoạn 1997 - 2001 tỉnh đã trích từ ngân sách trên 1 tỷ đồng hỗ trợ sửa chữa, xây dựng mới một số cửa hàng ở khu vực nông thôn, Bộ Thương mại cũng hỗ trợ bằng quỹ xoá đói giảm nghèo huy động từ tiền lương của cán bộ trong ngành giúp địa phương xây dựng 2 chợ khu vực (3 xã: Văn Quan, Hội Hoan, Văn Lãng) 6 cửa hàng khu vực ở 2 huyện Bình Gia và Đình Lập với trị giá hơn 2 tỷ đồng và sẽ tiếp tục hỗ trợ xây dựng 10 hợp tác xã thương mại dịch vụ ở các xã khu vực II và III. Các doanh nghiệp cũng đã chủ động dùng vốn tự có, hoặc vốn tín dụng đầu tư sửa chữa, xây dựng các điểm bán hàng ở khu vực nông thôn. tuy nhiên so với yêu cầu đặt ra về phát triển thị trường nội địa thì việc đầu tư còn quá ít, cơ sở vật chất kho tàng, trang thiết bị quá lạc hậu, chậm được đổi mới. Các chính sách cơ chế khuyến khích đầu tư chưa cụ thể rõ ràng, chưa có một định hướng lâu dài, do vậy nhiều hộ cá nhân có vốn chưa mạnh dạn đầu tư để thành lập các hợp tác xã thương mại - dịch vụ và các điểm đại lý bán hàng và thu mua hàng hoá tại khu vực nông thôn. Do vậy 5 năm qua thương nghiệp quốc doanh chưa làm được vai trò chủ đạo và điều tiết hàng hoá ở khu vực nông thôn, chưa có tác dụng kích thích chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hoá, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới làm cho sức mua của nhân dân khu vực này tăng chậm, hàng hoá sản xuất ra tìm thị trường, tiêu thụ khó hoặc phải bán với giá thấp so mặt mặt bằng giá trong nước và thế giới. 2. Hoạt động du lịch - dịch vụ. Lạng Sơn có vị trí thuận lợi, có tiềm năng, tài nguyên du lịch phong phú, là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, có nền văn hoá phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc, đủ điều kiện để phát triển thành một trung tâm du lịch trong nước và quốc tế. Tại đây có thể phát triển đa dạng các hình thức du lịch: số lượng nghỉ ngơi, du lịch tham quan danh lam thắng cảnh, du lịch leo núi, du lịch về cội nguồn, du lịch hang động, du lịch văn hoá tìm hiểu bản sắc dân tộc... khách tham quan có thể đến thăm quan và nghỉ ngơi tại các khu danh thắng Nhại - Tam Thanh, khu nghỉ mát Mẫu Sơn tham quan các di tích lịch sử hang cổ Thẩm Khuyên, tìm hiểu nền văn hoá dân tộc Tày, Nùng, Dao... - Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 26 đơn vị thuộc các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch. Có 16 khách sạn, 8 nhà nghỉ với hơn 420 phòng gồm gần 1.000 giường, các nhà hàng ăn uống, phương tiện vận chuyển khác chất lượng đã khá hơn, từng bước đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Kết quả kinh doanh du lịch: + Năm 1997 đóng 165 ngàn lượt (có 48 ngàn lượt khách quốc tế) doanh thu 64,5 tỷ đồng. + Năm 1998 đón 152 ngàn lượt (có 50 ngàn lượt khách quốc tế) doanh thu 64 tỷ đồng. + Năm 1999 đón 152 ngàn lượt (có 54 ngàn lượt khách quốc tế) doanh thu 64 tỷ đồng. + Năm 2000 đón 148 ngàn lượt (có 57 ngàn lượt khách quốc tế) doanh thu 62 tỷ đồng. + Năm 2001 đón 180 ngàn lượt (có 60 ngàn lượt khách quốc tế) doanh thu 70 tỷ đồng. Kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn Đơn vị tính: Triệu USD Năm Tổng kim ngạch Trong đó Xuất nhập khẩu chính ngạch Xuất nhập khẩu tiểu ngạch Xuất khẩu Nhập khẩu 1997 318 164 154 229 89 1998 333 224 109 270 63 1999 319 181 138 281 38 2000 289 183 106 314 62 2001 700 500 200 577 123 Tổng cộng 1.959 1.251 717 1.671 375 Nguồn: Sở Thương mại Lạng Sơn Kim ngạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Lạng Sơn Đơn vị tính: Triệu USD Năm Tổng kim ngạch Trong đó Doanh nghiệp nhà nước Các thành phần kinh tế khác 1997 160 79 81 1998 144 86 58 1999 104 66 38 2000 116 56 60 2001 221 108 113 Tổng cộng 745 395 350 Nguồn: Sở Thương mại Lạng Sơn Các doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật như: cơ sở lưu trú, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí; các sản phẩm du lịch và các tour tuyến du lịch thêm phong phú và hấp dẫn. Mặt khác, tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá về du lịch Lạng Sơn bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt qua đợt tham dự Hội chợ Du lịch quốc tế năm 1997 và Hội xuân Du lịch - Văn hoá Việt Nam năm 2001 tổ chức tại Hà Nội, đã tạo ra dấu ấn đối với nhân dân thủ đô cùng đông đảo du khách trong nước và nước ngoài về văn hoá ẩm thực và văn hoá nghệ thuật Lạng Sơn. Tổng cục Du lịch ban hành quy chế tạm thời về tổ chức đưa đón khách du lịch Trung Quốc sử dụng thẻ du lịch đã mở ra cơ chế khá thuận lợi cho một số doanh nghiệp du lịch của 7 tỉnh thành phố phía Bắc Việt Nam (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Cao Bằng, Lào Cai, Hà Giang) đã thu hút nhiều khách du lịch Trung Quốc đi du lịch bằng giấy thông hành qua các cửa khẩu Lạng Sơn. Tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo phát triển du lịch, Ban thường vụ Tỉnh uỷ có Nghị quyết số 18 ngày 06/06/2000 về phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh đến 2010 và UBND tỉnh đã có chương trình hành động về phát triển du lịch đến năm 2005, thể hiện quyết tâm xây dựng và du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Công tác triển khai các dự án phát triển du lịch: Ban chỉ đạo phát triển du lịch của tỉnh đã phân công cụ thể cho từng thành viên lập dự án để đầu tư vào các khu du lịch trọng điểm gồm: Sở Thương mại và Du lịch: xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thời kỳ 1996 - 2010; quy hoạch chi tiết khu du lịch Thành Nhà Mạc; quy hoạch chi tiết khu du lịch Mẫu Sơn. Sở Xây dựng: chủ trì xây dựng quy hoạch phát triển khu du lịch Tam - Nhị Thanh; quy hoạch chi tiết làng du lịch văn hoá các dân tộc Lạng Sơn. Hiện nay các ngành chức năng đáng tiếp tục triển khai thực hiện các bước tiếp theo của các dự án nêu trên, như: đã đầu tư xong tuyến đường lên khu du lịch Mẫu Sơn (14km), đang tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng như: đường nhánh, điện, nước và trồng cây xanh tại khu du lịch Mẫu Sơn; khu du lịch Thành Nhà Mạc. Ban quản lý xây dựng cơ bản của tỉnh đang tiếp tục giải toả mặt bằng xây dựng hoàn chỉnh dự án công viên Hồ Phai Loạn; tôn tạo các hang động trên địa bàn thị xã và phụ cận. Sở Thương mại và Du lịch đang tập trung lập dự án xây dựng khách sạn 3 sao và công viên nước tại thị xã Lạng Sơn. Những tồn tại trong lĩnh vực du lịch: Nhìn lại quá trình 5 năm nay, du lịch Lạng Sơn đã có bước phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng, đóng vai trò làm đầu mối quan hệ giữa các vùng trong nước và giữa trong nước với nước ngoài, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Lạng Sơn. Nhưng bên cạnh đó còn bộ lộ sự phát triển chưa ổn định theo chiều hướng đi lên, lợi nhuận của ngành chưa đáng kể. Điều đó thể hiện ở: - Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ hướng dẫn viên du lịch của cán bộ công nhân viên trong ngành du lịch cũng như chất lượng phục vụ tuy đã được nâng lên nhưng chưa đồng bộ, các sản phẩm du lịch địa phương chưa thực sự hấp dẫn. - Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cũng như ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với ngành du lịch chưa được thường xuyên liên tục. - Cơ chế quản lý của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương về lĩnh vực du lịch còn có vẫn đề bất cập như: việc quản lý giá cả đối với khách du lịch theo Quyết định 229 của Tổng cục Du lịch; giá cả phòng khách sạn, giá vé tham quan... đối với khách trong nước và khách quốc tế. Do đó nhiều doanh nghiệp của chúng ta đã tự tiện hạ giá, cạnh tranh không lành mạnh. - Việc chuyển khai các dự án còn chậm, nên các điểm tham quan du lịch, các khu du lịch hầu như chưa được đầu tư thoả đáng để trở thành khu du lịch, điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Hoạt động của các ngành chức năng trong khu vực kinh tế cửa khẩu: a. Hoạt động của hải quan. Hải quan là lực lượng quan trọng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan, chống buôn lậu, gian lận thương mại và thu thuế xuất nhập khẩu hàng hoá trên các cửa khẩu trọng yếu của tỉnh. Ngay sau khi có chủ trương thực hiện chính sách ưu đãi phát triển kinh tế khu vực cửa khẩu, ngành Hải quan đã chủ động tổ chức lực lượng và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, cải cách các thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ chiến sỹ. Những nỗ lực của ngành Hải quan đã góp phần tích cực vào quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực cửa khẩu. Trong 5 năm ngành Hải quan đã làm thủ tục xuất nhập cảnh hàng trăm nghìn lượt người, hàng vạn lượt phương tiện vận tải và khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu với tổng trị giá 1.959 triệu USD, tổng thuế xuất nhập khẩu và thuế GTGT hàng nhập khẩu 1.405 tỷ đồng. Riêng năm 2001 thu được 625 tỷ đồng. Những năm qua ngành Hải quan đã ngăn chặn được nhiệm vụ buôn lậu, phát hiện hàng chục nghìn vụ vi phạm pháp luật hải quan, phạt và truy thu cho ngân sách hàng trăm tỷ đồng, thu giữ nhiều hàng quốc cấm và hàng vạn ấn phẩm văn hoá phản động, đồ truỵ. Với những kết quả chủ yếu trên, lực lượng Hải quan Lạng Sơn đã góp phần vào tăng thu ngân sách, đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại tạo môi trường lành mạnh thúc đẩy xuất nhập khẩu, du lịch và các hoạt động dịch vụ, thúc đẩy phát triển kinh tế cửa khẩu. Tuy vậy còn một số nhược điểm cần khắc phục: - Thực hiện quyền quản lý nhà nước về hải quan kiểm soát chống buôn lậu, gian lận thương mại còn nhiều hạn chế nên hiệu quả chống buôn lậu thấp. - Chưa có biện pháp thích hợp, chưa tạo được các yếu tố kích thích sản xuất. Chưa phối hợp được chặt chẽ các lực lượng để tạo sức mạnh thống nhất quản lý điều hành còn chồng chéo. - Cán bộ nhân viên hải quan cửa khẩu chưa đủ mạnh về lực lượng và chất lượng. Hệ thống chính sách pháp luật còn chưa đồng bộ, rườm rà và sơ hở. Hiệu quả công tác còn hạn chế so với thực tiễn đòi hỏi. b. Hoạt động về ngân hàng. Qua hơn 10 năm thực hiện trao đổi giao lưu hàng hoá với Trung Quốc, đến nay đã có những bước tiến quan trọng, các hoạt động buôn bán ở khu vực biên giới dần dần vào thế ổn định và diễn ra với tốc độ cao và nhịp độ nhanh hơn. Nhưng việc thanh toán xuất nhập khẩu chủ yếu vẫn là tự phát và thành toán bằng tiền mặt. Các ngân hàng thương mại của tỉnh đã chủ động phối hợp với các ngân hàng phía Trung Quốc để mở ra các điểm giao dịch và các quầy thanh toán. Song thực tế việc thanh toán xuất nhập khẩu thực hiện qua ngân hàng còn rất hạn chế. Mọi hoạt động thanh toán buôn bán ở khu vực biên giới cơ bản vẫn do tư nhân thực hiện dưới hình thức: hàng đổi hàng hoặc bằng tiền USD, NDT và VNĐ. Số tư nhân làm dịch vụ đổi tiền ở khu vực đầu cầu thị xã Lạng Sơn và trên các chợ cửa khẩu biên giới chưa được quản lý. Như vậy, về cơ bản ngân hàng chưa thực hiện được chức năng kiểm soát tiền tệ đối với các hoạt động giao lưu kinh tế qua biên giới. Do vậy hình thành chợ đen buôn bán tiền công khai ở khu vực thị xã Lạng Sơn và khu vực cửa khẩu biên giới mà Nhà nước chưa có giải pháp hữu hiệu để tổ chức thanh toán qua ngân hàng và quản lý các hộ kinh doanh tiền một cách tự do. c. Hoạt động của Biên phòng, chính quyền cơ sở và các lực lượng hoạt động theo chức năng ở khu vực cửa khẩu. - Lực lượng Biên phòng có nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, đảm bảo toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Đồng thời là lực lượng kiểm tra, kiểm soát người ra vào cửa khẩu, chống tiêu cực và phối hợp chống buôn lậu khu vực biên giới. Trong những năm qua lực lượng Biên phòng đã làm tốt nhiệm vụ được giao theo chức năng của mình, cũng đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực cửa khẩu, phối hợp tốt với chính quyền địa phương và nhân dân vùng biên giới bảo vệ vững chắc biên cương tổ quốc. Bên cạnh những thành tích đạt được còn có những tồn tại: Chưa chủ động phối hợp với chính quyền cơ sở giáo dục nhân dân cùng chống các tiêu cực ở khu vực biên giới, nhất là hiện tượng buôn lậu, ngăn chặn tiếp tay cho buôn lậu; chưa có những giải pháp tích cực nâng cao dân trí, nâng cao đời sống của nhân dân. - Chính quyền cơ sở và các lực lượng kiểm dịch động, thực vật, kiểm dịch y tế đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ theo quyền hạn và chức năng của mình, đồng thời cũng góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực cửa khẩu trong nhiều năm qua. Nhưng nhìn chung sự phối hợp tất cả các lực lượng chưa đủ mạnh, chưa đồng bộ, chưa tạo ra một cách tốt nhất cho các doanh nghiệp, cho các thương nhân hoạt động giao lưu kinh tế ở khu vực cửa khẩu. Nhiều lúc còn vướng mắc ở khâu này, khâu kia gây ra sự ách tắc chung của khu vực cửa khẩu. Cá biệt còn có người gây sự nhũng nhiễu làm ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng, uy tín đối với Nhà nước nhất là khi quan hệ giao dịch với người nước ngoài. Tóm lại, từ khi triển khai thực hiện nghị quyết và quyết định của Chính phủ về một số cơ chế chính sách ưu đãi ở moọt số khu vực cửa khẩu biên giới tỉnh Lạng Sơn, tỉnh đã thu được những kết quả rất quan trọng trong từng lĩnh vực và là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trên địa bàn toàn tỉnh, các ngành các cấp đã tích cực triển khai một cách nghiêm túc. Song còn một số nhược điểm yếu kém thuộc lĩnh vực chủ quan đã làm cản trở sự phát triển, làm cho tốc độ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế chưa tương xứng tiềm năng và vị thế của Lạng Sơn, UBND tỉnh Lạng Sơn cần kiểm điểm nghiêm túc và sâu sắc, khắc phục những yếu kém, tìm ra các giải pháp cho sự phát triển cho 5 năm tiếp theo (2001 - 2005) với tốc độ tăng trưởng cao hơn. 3. Mặt hàng xuất nhập khẩu qua Lạng Sơn Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chính của Viên Nam sang Trung Quốc năm 1998-2001: a. Cà phê: 8.4 ngàn tấn 8.8 triệu USD b. Cao Su: 280.9 ngàn tấn 103.3 triệu USD c. Gạo : 21.7 ngàn tấn 6.3 triệu USD d. Giầy dép: 2.1 ngàn đôi 3.2 triệu USD e. Hải sản: 300 ngàn tấn 326 triệu USD f. Rau quả: 370 ngàn tấn 166.6 triệu USD g. hạt điều : 32.6 ngàn tấn 166.4 triệu USD h. Than: 1026.4 ngàn tấn 16.7 triệu USD Đặc biệt quan tâm qua cửa khẩu Lạng Sơn sang thị trường Trung Quốc một số lượng lớn động thực vất tươi sống và các sản phẩm động thực vật đã qua sơ chế. Tổng khối lượng xuất động thực vật là 16.161 lô với khối lượng 259.564 tấn . Trong đó có một số mặt hàng chính sau: Cua nuôi sống: 291 tấn, Baba: 829 tấn, Cá khô: 15803 tấn, Cá Mực 27277 tấn. Nhập khẩu: khảo sát 214 mặt hàng nhập khẩu qua cửa khẩu Lạng Sơn từ Trung Quốc cho thấy các mặt hàng chủ yếu có giá trị từ 1.5-2 triệu USD và tỷ trọng 2- 12% tổng kim ngạch bao gồm : bột mỳ, thuốc bảo vệ thực vật, máy, thiết bị, phương tiện vận tải, sản phẩm hoá chất, xi măng đen vàa Clinke, các loại gạch lát và máy nông nghiệp, sợi tổng hợp, kính xây dựng, thiết bị thực phẩm, vải và phụ kiện ngành may, dụng cụ ytế và dụng cụ gia đình. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu năm 1998-2001: Sắt thép: 792.000 tấn 162.7 triệu USD Phân bón 929.000 tấn 143.6 triệu USD Phương tiện vận chuyển: 478 chiếc 10.5 triệu USD Phụ tùng ôtô 290.2 triệu USD Xe máy CKD và IKD: 466 triệu USD Một thực trạng đáng lưu ý là hàng nhập chủ yếu và hàng chế biền với trình độ công nghệ trung bình và thấp, thậm chí có nhiều hàng là do công nghiệp địa phương sản xuất. Với tình trạng như vậy song hàngTrung Quốc thân nhập dễ dàng vào những trung tâm sản xuất hàng tiêu dùng của Việt Nam: thành phố Hồ Chí Minh , Trong những năm 1990-1995 nhiều mặt hàng Trung quốc đã chiếm khoảng 10-15% thị phần, năm 1998-2001 hàng Trung Quốc đã ồ ạt vào Việt Nam và nhiều mặt hàng đã làm chủ thị trường: hoá chất, đĩa chuyển dịch, đồng hồ, bình cứu hoả, dụng cụ cơ khí, xe máy dạng linh kiện… Một vấn đề cần lưu ý là hàng qua đường tiểu ngạch chủ yếu là hàng công nghiệp tiêu dùng: Xe đạp, và phụ tùng, đồ điện, điện tử và quần áo may sẵn…Do giá thành thấp lại được ưu đãi các chính sách xuất khẩu của phía Trung Quốc nên các loại hàng này có sức cạnh tranh rất mạnh trên thị trường Việt Nam gây tác động mạnh trên thị trường Việt Nam, gây ra nhiều tác động đến sản xuất trong nước kể cả có các chính sách bảo hộ. Hàng tiểu ngạch là những loại hàng chủ yếu nằm trong luồng hàng chốn thuế phân tán phương thức đa dạng khó quản lý. Nhìn chung các mặt hàng Trung Quốc xuất qua cửa khẩu Lạng Sơn trong những năm qua cả tiểu ngạch và chính ngạch đều rất phong phú và đa dạng, có đến trên 200 nhóm hàng và mặt hàng cụ thể gấp đôi hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc. Đa số mặt hàng xuất sang Việt Nam qua cửa khẩu Lạng Sơn chất lượng chưa cao, giá rẻ phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam. 4. Cơ cấu hàng xuất khẩu qua Lạng Sơn. 4.1 Về xuất khẩu: Xem xét 104 mặt hàng nhóm hàng chủ yếu đã xuất khẩu qua Lạng Sơn sang Trung Quốc cho thấy mặt hàng chr yếu gồm 4 nhóm: Nhóm I: Nguyên nhiên liệu, gốm: than đá, dầu thô, quặng sắt Cromit, dược liệu, các loại tinh dầu và cao su thiên nhiên. Nhóm II: Lương thực, nông sản: Gạo, sắn lát và các loại gỗ,hoa quả nhiệt đới… Nhóm III: Thuỷ hải sản: thuỷ hải sản tươi sống và đông lạnh, vật nuôi… Nhóm IV: Hàng tiêu dùng, đỗ gỗ gia dụng… Trong số này 14 mặt hàng có tỷ trọng từ 2 % trở lên còn lại khá phân tán. Mức xuất khẩu lớn và tương đối ổn định thuộc về cao su thiên nhiên( 1997 là 20%. 1998 là 30.8 % đạt 64,824 triệu USD). Các mặt hàng khác mức diện biến qua các năm như sau: Hải sản: 11-12%. Hạt điều: 10-16% Gạo: 7-10% Mặt hàng Kim ngạch xuất khẩu (USD) Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Hạt điều 3741.39 6663 7876.8 5515.47 6010 Hoa hồi 1918 2429 2316,4 2150 3149 Cao su 8407 12379 6730 2765,93 1915,8 Dầu dừa 5774 21286 9149 2536,97 3550 Quế 345 1395 1790 1007 18106,5 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của sở thương mại và du lịch Lạng Sơn ) 4.2 Về nhập khẩu: chủ yếu gồm 5 nhóm hàng Nhóm I: máy móc, thiết bị toàn bộ: dây truyền sản xuất đường, ximăng lò đứng. Nhóm II: máy móc cơ khí, phương tiện vận tải, máy mọc thiết bị Ytế,máy móc dụng cụ chính xác, máy móc thiết bị ngành dệt, máy móc nông nghiệp. Nhóm III: nguyên nhiên liệu: ximăng, sắt thép kính xây dựng các loại, vật liệu xây dựng, phẩm nhuộm thuốc trừ sâu phân bón. Nhóm IV: lương thực, thực phẩm, hoa quả, giống cây trồng. Nhóm V: hàng tiêu dùng, may mặc đồ chơi, hàng điện tử… Từ cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu trên cho ta thấy: -Về xuất khẩu : Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc chủ yếu là những hàng chưa qua chế biến, tồn tại ở dạng thô, hàng hoá chủ yếu là các sản phẩm của nông nghiệp,. cây công nghiệp, hàng thuỷ hải sản đông lạnh. Những mặt hàng trên tồn tại những thách thức với hoạt đông xuất khẩu qua Lạng Sơn, các mặt hàng trên chỉ mang tính thợi vụ như một số hàng rau quả, thuỷ sản. - Về nhập khẩu: chủ yếu là công cụ sản xuất vừa,nhỏ và lớn, hàng may, hàng dân dụng thiết yếu, hàng điện tử. Đây là thực trạng hiện nay của Việt Nam nó cho thấy tỷ lệ sản phẩm thô vẫn là hàng hoá xuất khẩu chủ yếu trên toàn quốc nói chung và qua cửa khẩu Lạng Sơn nói riêng. Giá cả của những sản phẩm thô thì thường thay đỏi nhanh chóng làm cho Việt Nam bất lợi khi tham gia thị trường thế giới. Nhiều khi khói lượng xuất khẩu tằng mà kim ngạch xuất khẩu lại giảm xuống: lúa gạo, cà phê, hàng nông sản…Khi Trung Quốc tham gia WTO thì yêu cầu về chất lượng và an toàn vệ sinh của hàng nhập khẩu tăng lên do yêu cầu của thị trường thế giới, do vậy mà các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang Trung Quốc đã gặp rất nhiều khó khăn và lúng túng cho nên đã dẫn đến hiện tượng hàng Việt Nam không xuất qua cửa khẩu Lạng Sơn trong thời gian qua. Trong khi đó chúng ta lại nhập chủ yếu là hàng tiêu dùng, TLSX, máy móc và công cụ, những mặt hàng này chúng ta đã sản xuất được ở trong nước nhưng không thể cạnh tranh về giá cho nên hàng Trung Quốc đã chiếm lĩnh trên thị trường của chúng ta. 5. Giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu: Về hàng hoá xuất khẩu: Giá cả là yếu tố rất quan trọng nhưng những mặt hàng xuất khẩu qua Lạng Sơn chủ yếu là những sản phẩm thô chưa có sự chuyên môn cao cho nên giá rất rẻ. Thị trường Trung Quốc là một thị trường khó tính thường áp dặt những mức giá khác nhau cho cùng 1 sản phẩm hàng hoá cùng loại trong các giai đoạn khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang Trung Quốc. Nhiều khi thị trường Trung Quốc cố tình ép giá các doanh nghiệp Việt Nam nhiều khi chúng ta xuất khẩu nhiều thì họ lại giảm giá mà không thông báo trước. Về hàng nhập khẩu: Trung Quốc thực hiện chế độ bảo hộ về giá và thuế hỗ trợ hàng xuất khẩu nên hàng hóa của Trung Quốc trở nên rẻ tương đối so với hàng hoá của chúng ta, mặt khác do hàng hoá phong phú và mẫu mã đa dạng phù hợp với thị hiếu của những người thu nhập thấp và trung bình của nhân dân ta cho nên đã chiếm thị trường rất lớn trong nôị địa của chúng ta. III. Đánh giá trung về ưu nhược điểm về hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh 1. Chính sách xuất nhập khẩu. Cần xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu qua biên giới, có tính lâu dài, ổn định , trong đó phải xây dựng chính sách mặt hàng và cơ cấu xuất nhập khẩu phù hợpvới từng khu vực. Trước mắt cần triển khai tốt Hiệp định về mua bán hàng hoá ở vùng b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9151.doc
Tài liệu liên quan