Lời nói đầu 1
Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 3
I. Lợi nhuận của doanh nghiệp. 3
1.Khái niệm, nguồn gốc lợi nhuận doanh nghiệp. 3
2.Tỷ suất lợi nhuận. 5
2.1.Tỷ suất lợi nhuận vốn. 6
2.2. Tỷ suất lợi nhuận giá thành. 6
2.3. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu. 7
3. Vai trò của lợi nhuận. 7
3.1. Vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế quốc dân. 9
3.2. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp. 9
3.3. Vai trò của lợi nhuận đối với người lao động. 11
II. Phương pháp xác định và các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp. 11
1. Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp. 11
1.1. Các bộ phận cấu thành lợi nhuận doanh nghiệp. 11
1.2. Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp. 14
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp. 19
2.1. Quan hệ cung - cầu hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. . 19
2.2. Doanh thu 20
2.3. Chi phí 22
Chương II: Thực trạng về việc nâng cao lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai trong những năm gần đây. 24
I. Giới thiệu về công ty 24
1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của công ty may xuất khẩu Phương Mai. 24
2. Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật . 26
2.1. Bộ máy quản lý. 26
2.2. Lĩnh vực kinh doanh. 28
2.3. Cơ cấu tổ chức sản xuất. 29
2.4. Công tác kế toán. 30
2.5. Đặc điểm về lao động. 32
2.6.Đặc điểm về tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật. 32
2.7.Đặc điểm về vốn. 33
II. Thực trạng lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai. 33
1. Đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty trong những năm qua. 33
1.1. Đánh gía chung tình hình thực hiện lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai. 33
1.2. Phân tích lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh 39
1.3.Những yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh 41
2. Đánh giá chung quá trình nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai. 51
2.1. Những kết quả đạt được: 51
2.2. Những tồn tại. 54
2.3. Nguyên nhân của những kết quả và tồn tại trên. 57
Chương III. Giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai. 60
I. Những thuận lợi và khó khăn của công ty may xuất khẩu Phương Mai hiện nay. 60
I. Một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai. 60
1. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng doanh thu. 62
1.1.Đẩy mạnh tiêu thụ ở lĩnh vực xuất khẩu. 63
1.2. Đẩy mạnh tiêu thụ ở lĩnh vực nội địa. 65
2. Giảm tối đa chi phí. 69
2.1. Giảm chi phí sản xuất trực tiếp. 69
2.2.Giảm chi phí nghiệp vụ kinh doanh. 71
3. Một số biện pháp khác. 71
III. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra. 73
1. Kiến nghị với Nhà nước. 73
2. Kiến nghị với Tổng Công ty. 74
79 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khấu hao áp dụng: phương pháp khấu hao bình quân.
Phương pháp kế toán hàng tồn kho: phản ánh theo giá trị thực tế.
Phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho: phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp tính các khoản dự phòng, tình hình trích lập và hoàn nhập dự phòng: theo phương pháp công khai nhất quán.
2.5.Đặc điểm về lao động
Kể từ khi nền kinh tế có sự chuyển dịch từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, công ty đã có những chính sách nhằm thay đổi, nâng cao trình độ của cán bộ quản lý và tay nghề của công nhân lao động nhằm phù hợp với điều kiện kinh doanh mới. Hiện nay đội ngũ CBCNV của công ty như sau:
Tổng số lao động: 290 người (trong đó nữ chiếm 82%).
Tuổi đời bình quân: 22:35 tuổi
Cán bộ quản lý: 45 người (10 người trình độ đại học chiếm 40%, còn lại là trình độ cao đẳng và trung cấp) chiếm 15,52%.
Lực lượng lao động trực tiếp 245 người chiếm 84,48%.
2.6.Đặc điểm về tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật
Bảng 1: Tình hình tài sản năm 2001.
Chỉ tiêu
Thiết bị
Nhà cửa vật kiến trúc
Tổng công
Nguyên giá
2107039841
706431399
2813453240
Giá trị còn lại
737518657
406215814
1143734471
Tỷ lệ từng loại TSCĐ theo giá trị còn lại
64,48%
35,52%
100%
Nguồn: Bảng cân đối tài sản của công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Qua bảng trên, ta thấy tỷ lệ kết cấu giữa nhà cửa và máy móc thiết bị của công ty tương đối hợp lý. Là một doanh nghiệp sản xuất nên tỷ lệ máy móc thiết bị chiếm 64,48% trong tổng số tài sản, điều này làm hạn chế sự tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và làm tăng khoản tiền khấu hao hàng năm. Một cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối tốt sẽ là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát triển.
2.7.Đặc điểm về vốn.
Tính đến năm 2001 thì công ty có tổng vốn: 1.308.688.903 đồng.
Trong đó:
Vốn cố định: 991.333.695 đồng.
NSNN cấp: 83.082.037 đồng.
Công ty tự bổ sung: 908.251.658 đồng.
Vốn lưu động: 317.355.208 đồng (NSNN cấp).
Công ty có đặc điểm là sản xuất hàng may mặc và bảo hộ lao động (ít), nguyên vật liệu chủ yếu là do các chủ hàng cung cấp bảo đảm thường xuyên. Vì vậy nguyên vật liệu dự trữ rất ít, do đó công ty thường gặp khó khăn về vốn lưu động. Bởi công ty thường ký hợp đồng là sau hai tháng xuất hàng mới nhận được tiền của người mua nên công ty phải vay ngắn hạn của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đây là yếu tố làm giảm lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp. Tuy nhiên có sự cải tiến về khoa học kỹ thuật, có sự nâng cấp cả về chiều rộng và chiều sâu trong sản xuất kinh doanh nên công ty đã chiếm được sự tín nhiệm của bạn hàng, có chỗ đứng ở thị trường trong nước và quốc tế.
Thực trạng lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai
Đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty
1.1.Đánh giá chung tình hình lợi nhuận của công ty
Để đánh giá tình hình lợi nhuận của công ty, chúng ta đánh giá sự biến động lợi nhuận của toàn công ty, của từng bộ phận cấu thành lợi nhuận giữa kỳ này so với kỳ trước nhằm thấy khái quát tình hình lợi nhuận và những nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng đến tình hình trên.
Để đánh giá có hiệu quả thì khi phân tích ta cần tính và so sánh tỷ lệ biến động của kỳ cần đánh giá so với kỳ gốc trên từng chỉ tiêu. Đồng thời so sánh tình hình biến động của từng chỉ tiêu với tổng doanh thu thuần (lấy doanh thu thuần làm gốc). Căn cứ vào các bảng báo cáo kết quả kinh doanh ta lập bảng đánh giá .
Bảng 2: Đánh giá chung tình hình lợi nhuận công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Tổng doanh thu
15428
17695
19223
18907
20009,03
Các khoản giảm trừ
100,52
135,43
140,47
190,57
-397,1
Doanh thu thuần
15327,48
17558,57
19082,53
18716,43
20406,13
Giá vốn hàng bán
14328,5
16530,17
17952,23
17646,27
19086
Lợi tức gộp
998,98
1028,4
1130,3
1070,16
1320,13
Chi phí KD
800,7
823,1
886,83
860,02
1020,15
Lợi nhuận từ HĐKD
198,28
205,3
243,47
210,14
299,98
Lợi nhuận từ HĐTC
15,6
17,2
21,43
21,98
25,56
Lợi nhuận từ HĐBT
14,5
15,4
18,53
19,97
43,42
Lợi nhuận trước thuế
228,38
237,9
283,43
252,09
368,96
Thuế thu nhập
0
0
90,7
80,67
118,07
Lợi nhuận sau thuế
228,38
237,9
192,73
171,42
250,89
Nguồn: Phụ biểu báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo quyết toán các năm – công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Như đã trình bày ở chương 1, lợi nhuận doanh nghiệp được cấu thành từ ba bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Lợi nhuận sau thuế được xác định bằng tổng lợi nhuận trước thuế trừ thuế thu nhập.
Nhìn vào bảng 2: Mặc dù lợi nhuận trước thuế có tăng dần theo từng năm nhưng lợi nhuận sau thuế thì năm 1997 và năm 1998 lại tăng hơn so với 2 năm sau do từ năm 1999 nhà nước áp dụng luật thuế thu nhập doanh nghiệp .Vì thế doanh nghiệp phải chịu thêm một khoản chi phí nữa dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp giảm.
Năm 2000 lợi nhuận của doanh nghiệp lại giảm so với năm 1999 một lượng là: - 21,31 triệu đồng (dù năm 1999 doanh nghiệp còn chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á). Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã bị hạn chế là do đâu và doanh nghiệp phải xem xét lại tất cả các khâu có ảnh hưởng đến lợi nhuận của mình.
Năm 2001 doanh nghiệp đã có sự thay đổi lợi nhuận sau thuế so với năm 2000 đã tăng một lượng là: + 79,47 triệu đồng và vượt qua că năm 1999. Có thể nói rằng, năm 2001 hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có bước phát triển tốt.
Biểu đồ 1: Tình hình lợi nhuận sau thuế của công ty :
Nhìn vào biểu đồ 1 ta thấy: Mặc dù năm 2000 lợi nhuận giảm so với năm 1999 nhưng năm 2001 lợi nhuận công ty đã tăng mạnh vượt qua cả mức năm 1999. Còn năm 1997 và năm 1998 thì lợi nhuận cao hơn 2 năm tiếp theo là do 2 năm này doanh nghiệp phải chi một khoản nộp cho nhà nước đó là thuế thu nhập doanh nghiệp.
Như vậy, trong 5 năm qua công ty đã có những bước tiến tốt đạt mức kế hoạch 5 năm đề ra.
Nhìn vào bảng 2: Ta có mặc dù năm 2000 lợi nhuận giảm so với năm 1999 nhưng năm 2001 thì lợi nhuận của doanh nghiệp đã có bước tiến nhanh vượt qu cả năm 1999.
Lợi nhuận sau thuế năm 2001 tăng so với năm 2000 là do :
- Lợi nhuận trước thuế tăng : +116,87 (triệu đồng)
Lợi nhuận trước thuế tăng do:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng: + 89,84 (triệu đồng) hay (142,75%).
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính tăng: + 3,58(triệu đồng) hay (116,29%).
- Lợi nhuận từ hoạt động bất thường tăng: + 23,45 (triệu đồng) hay (217,43%).
+ 117,87(triệu đồng)
Như vậy, lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh của công ty đều tăng. Vấn đề đặt ra là tìm nguyên nhân để giải thích tại sao tốc độ tăng của lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chỉ lớn hơn của lợi nhuận từ hoạt động tài chính một ít mà thôi và bản thân lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh mặc dù tăng nhiều nhất nhưng thực chất vẫn quá bé trong khi hoạt động sản xuất kinh doanh lại là lĩnh vực chính của công ty. Còn lợi nhuận từ hoạt động bất thường tăng gấp hai lần (217,43%) mà lợi nhuận thu được chủ yếu từ hoạt động thanh lý, nhượng bán tài sản cố định và bán vật tư dư thừa. Thanh lý, nhượng bán tài sản cố định vì công ty đã đầu tư, mua sắm máy móc mới là điều cần thiết. Nhưng bán vật tư thừa thể hiện công tác kế hoạch hoá mua sắm vật tư của doanh nghiệp chưa tốt. Mua với giá cao, bán lại với giá thấp hơn điều này ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Vì vậy công ty cần xem xét hoạt động này của mình.
Có thể khẳng định rằng, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận trước thuế của công ty. Là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đây là một đều hết sức phù hợp với công ty may xuất khẩu Phương Mai. Tuy nhiên, tỷ trọng này hình như đang có xu hướng giảm dần, đây là một điều cần quan tâm.
Lợi nhuận tuyệt đối không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp. Để có cái nhìn tổng quan hơn về hiệu quả hoạt động của công ty ta cần tính chỉ tiêu lợi nhuận tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
Bảng 3: Hệ thống chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Tỷ suất LNDT = LNST/DTT. 100%
1,48
1,35
1,01
0,92
1,23
Tỷ suất LNV = LNST/TNV.100%
3,98
4,1
3,92
3,84
3,65
Tỷ suất LNVTC = LNST/VTC.100%
28,5
27,9
24,32
18,87
27,62
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 1999, năm 2000, năm 2001 – Công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Năm 1997 cứ 100 đồng doanh thu thuần thì thu được 1,48 đồng lợi nhuận, năm 1998 thì cứ 100 doanh thu thuần thì chỉ thu được 1,35 đồng lợi nhuận do năm 1998 dù lợi nhuận sau thuế tăng nhưng doanh thu thuần cũng tăng dẫn đến tỷ suất LNDT giảm.
Năm 1999 cứ 100 đồng doanh thu thuần thì thu được 1,01 đồng lợi nhuận. Năm 2000 con số đó giảm xuống chỉ còn 0,92 đồng đến năm 2001 thì con số đó đã tăng lên 1,23 đồng. Mặc dù có sự gia tăng nhưng con số 1,23 đồng vẫn còn thấp hơn năm 1997 và năm 1998 nguyên nhân là do các chi phí phát sinh còn lớn, sau đây là sự phân tích cụ thể:
Tỷ suất lợi nhuận vốn và vốn tự có năm 1999 cao hơn năm 2000 chứng tỏ năm 2000 hoạt động công ty có sự giảm sút nhưng đến năm 2001 thì tỷ suất lợi nhuận vốn và vốn tự có không những cao hơn năm 2000 mà còn vượt qua được năm 1999 chứng tỏ năm 2001 hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty tốt hơn. Tuy nhiên vẫn chưa bằng năm 1997 và năm 1998.
Như vậy, căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối và chỉ tiêu lợi nhuận tương đối ta có thể khái quát tình hình lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai như sau: Năm 2000, do công ty có một lượng máy móc thiết bị đã đi vào thời kỳ quá cũ nát nên chất lượng cũng như tiến độ sản xuất ra những mặt hàng xuất khẩu thấp vì vậy việc xuất khẩu rất khó khăn nên lợi nhuận công ty giảm sút. Năm 2001, công ty công ty đã đầu tư một số trang thiết bị hiện đại, vì vậy chất lượng sản phẩm tăng và đã kịp thời gian hợp đồng nên khâu tiêu thụ tốt nên lợi nhuận sau thuế đã được nâng lên không những đạt mức bằng năm 1999 mà còn vượt so với năm 1999 là: +58,16 (triệu đồng) và tăng so với năm 2000 là: +79,47 (triệu đồng). Tuy tỷ suất lợi nhuận năm 2001 cao hơn năm 2000 nhưng vẫn chưa bằng 2 năm trước khi áp dụng luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tuy nhiên lợi nhuận của công ty năm 2001 có tăng so với năm 2000 nhưng vấn đề đặt ra là tại sao lợi nhuận năm 2001 so với năm 2000 chỉ tăng ở mức như vậy mà không thể lớn hơn? Đó chính là vấn đề mà mọi doanh nghiệp đều quan tâm mà cũng có nghĩa là các nhà doanh nghiệp phải tiến hành phân tích, đánh giá lợi nhuận nhằm tìm ra yếu tố có ảnh hưởng không tốt đến từ đó để có biện pháp khắc phục hoặc hạn chế nhằm giảm thiểu sự tác động của nó tới lợi nhuận để thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình.
Như đã phân tích ở trên, lợi nhuận sau thuế của công ty năm 2001 so với năm 2000 tăng là: +79,47 (triệu đồng) do lợi nhuận trước thuế tăng: + 116,87 (triệu đồng) . Vấn đề cần xem xét ở đây là tìm nguyên nhân lý giải tại sao lợi nhuận trước thuế chỉ tăng ở mức như vậy.
Lợi nhuận trước thuế thì được hình thành từ ba bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Tuy nhiên cũng như phần lý luận đã trình bày, bài viết này chỉ đi sâu vào phân tích lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Và vấn đề lúc này là tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong tổng lợi nhuận trước thuế có xu hướng giảm trong khi đó hoạt động sản xuất kinh doanh là lĩnh vực chính của công ty và xu hướng này là tốt hay không?
1.2.Phân tích lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Căn cứ vào bảng 2 - Đánh giá chung tình hình lợi nhuận của công ty, ta thấy lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2001 so với năm 2000 tăng: +89,84 (triệu đồng ) hay đạt 142,75% còn lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2001 so với năm 1999 chỉ tăng một lượng là: +56,51 (triệu đồng) hay đạt 132,31% năm 1999.
Biểu đồ 2: Khái quát lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhìn vào biểu đồ 2 ta thấy: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của năm 2000 giảm so với năm 1999 là do năm 2000 một số máy móc của công ty đã bị hỏng vì quá cũ. Tuy nhiên, năm 2001 công ty đã đầu tư một số máy móc thiết bị mới nên lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh đã tăng vượt cả năm 2000 và năm 1999. Còn năm 1997 và năm 1998 lại xấp xỉ nhau đến năm 1999 lại có tăng lên.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng là do tổng doanh thu năm 2001 so với năm 2000 tăng 105,83% và năm 2001, công ty không phải nộp thuế giá trị gia tăng mà được nhà nước hoàn thuế là: 397,1 triệu đồng nên doanh thu thuần tăng 109,03%. Lãi gộp tăng 123,36% nhưng chi phí nghiệp vụ kinh doanh (chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp ) tăng quá nhiều (118,62%) - Tức là tốc độ tăng còn nhanh hơn cả tốc độ tăng của doanh thu, doanh thu thuần làm lợi nhuận bị giảm bớt. Thế nhưng năm 2001 chi phí nghiệp vụ kinh doanh của công ty tăng nhiều đã làm ảnh hưởng đến lợi nhuận.
1.3.Những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Theo số liệu ở bảng 2 ta thấy: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2001 so với năm 2000 tăng một lượng là: +89,84 triệu đồng, do ảnh hưởng của các nhân tố sau:
Do tổng doanh thu bán hàng thay đổi:
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, doanh thu bán hàng có quan hệ cùng chiều với lợi nhuận: Doanh thu tăng, lợi nhuận tăng và ngược lại.
Doanh thu bán hàng năm 2001 so với năm 2000 tăng lên:
Theo số liệu ở bảng 2 ta có:
DDT=20009,03 - 18907=1102,03 (triệu đồng).
Do vậy, tổng doanh thu bán hàng đã làm cho lợi nhuận tăng lên +1102,03 triệu đồng. Mà tổng doanh thu của công ty là tổng hợp doanh thu tiêu thụ từ bốn hoạt động chính như sau:
Bảng 4: Doanh thu tiêu thụ bộ phận của công ty.
Đơn vị : Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Gia công hàng xuất khẩu
3128
3618
3563
3921
4560
Sản xuất hàng xuất khẩu
5326
6219
7362
7422
7684,03
Sản xuất hàng nội địa
2876
3228
3336
3531
4687
Kinh doanh vật tư
4098
4624
4962
4033
3070
Tổng
15428
17695
19223
18907
20009,03
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm - Công ty may xuất khẩu Phương Mai
Theo bảng trên ta thấy: Doanh thu tiêu thụ hàng nội địa năm 2001 so với năm 2000 của hoạt động sản xuất hàng nội địa tăng nhưng kinh doanh vật tư thì giảm. Năm 2000, do công ty chưa có sự đầu tư vào máy móc thiết bị nên chất lượng sản phẩm còn thấp so với thị trường thế giới nên hoạt động xuất khẩu còn gặp khó khăn còn năm 2001, khi hoạt động xuất khẩu được củng cố thì thị trường nội địa của công ty cũng được củng cố theo. Thực tế năm 2000 và năm 2001 đã chứng tỏ công ty vẫn có một vị trí, dù nhỏ bé trên thị trường nội địa nhưng chưa được đầu tư phát triển. Vì vậy công ty ngày càng phải quan tâm đến hoạt động tiêu thụ nội địa hơn.
Còn 3 năm 1997, năm 1998 và năm 1999 thì kinh doanh vật tư nhiều hơn sản xuất hàng nội địa nhiều. Chứng tỏ công ty đã có sự quan tâm hơn khi mà hàng nội địa năm 2000 và năm 2001 tăng mạnh còn kinh doanh vật tư có sự giảm sút. Điều này còn cho ta thấy công ty đã sử dụng vật tư một cách hợp lý hơn.
Nhìn vào bảng 4 ta có doanh thu tiêu thụ từ lĩnh vực xuất khẩu và doanh thu tiêu thụ từ hàng hoá nội địa gia tăng dần theo từng năm điều này cho ta thấy khách hàng của công ty cũng đã tăng lên.Trong tình hình thị trường sản phẩm may mặcđang diễn ra sôi động ở nước ta thì việc doanh thu tiêu thụ trong nước tăng là yếu tố chứng tỏ công ty đã thực sự chú trọng thị trường này. Điều này chứng tỏ sản phẩm của công ty cũng đã có sự cạnh tranh
ảnh hưởng do giá vốn hàng bán thay đổi:
Giá vốn hàng bán là một trong những nhân tố quan trọng, chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá vốn hàng bán càng thấp, lợi nhuận càng tăng.
Giá vốn hàng bán năm 2001 tăng so với năm 2000 một lượng là
Theo số liệu ở bảng 2 ta có:
DGV = 19086 - 17646,27 = + 1439,73 triệu đồng
Nên lợi nhuận công ty giảm: - 1439,7 triệu đồng
Theo số liệu ở bảng 2 ta thấy: Tốc độ tăng của giá vốn hàng bán năm 2001 so với năm 2000 là 108,16% xấp xỉ bằng tốc độ tăng của doanh thu thuần (105,83%) nhưng vẫn cần xem xét nhân tố này để tìm ra khoản mục nào tăng không hợp lý để có biện pháp khắc phục.
Thực chất ảnh hưởng của giá vốn hàng bán đến lợi nhuận là ảnh hưởng của giá thành sản xuất và nó tác động ngược chiều với lợi nhuận. Theo chế độ tài chính hiện hành, giá vốn hàng bán được tổng hợp từ ba khoản mục chính: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Đây là khoản mục tăng lớn nhất trong giá vốn hàng bán, cũng là khoản mục tác động lớn nhất làm giảm lợi nhuận. Chi phí nguyên vật liệu ở công ty may xuất khẩu Phương Mai được xác định dựa trên hai yếu tố:
+ Giá mua nguyên vật liệu.
+ Định mức tiêu hao vật liệu/ sản phẩm.
Bảng 5: Giá mua một số vật liệu chính.
Đơn vị: Đồng
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Vải katê (m)
14500
1500
1500
15300
15300
Vải tráng nhựa (m)
7500
7500
8000
8500
8500
Bông (m)
4500
5000
5500
6000
6000
Chỉ các loại (cuộn)
9000
10500
11000
11500
13000
Khoá áo (chiếc)
1000
1000
1000
1500
1500
Thùng cattn (chiếc)
1500
1500
2000
2500
2500
Nguồn: Bảng giá- công ty may xuất khẩu Phương Mai
Theo bảng 5: Ta thấy qua các năm giá mua vật liệu không mấy thay đổi, bảng giá một số vật liệu chính hầu như không biến động đây là một lợi thế đối với công ty may xuất khẩu Phương Mai bởi thời gian vừa qua hàng may mặc ở nước ta phát triển mạnh nên các nguồn cung cấp nguyên liệu cũng được phát triển theo, rất dồi dào và ổn định.
Vì giá vật liệu chính hầu như không tăng nên có thể kết luận rằng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tăng, ngoài nguyên nhân khách quan là hoạt động sản xuất của công ty tăng nên cần nhiều nguyên liệu hơn, còn do nguyên nhân chủ quan là sự thay đổi của định mức tiêu hao vật liệu.
Ta xét một trong những sản phẩm chủ yếu của công ty là áo khoác ba lớp.
Bảng 6: Định mức tiêu hao sản xuất áo ba lớp.
Vật liệu
Tiêu dùng
Chênh lệch
Kế hoạch
Thực tế
Mức
Tỷ lệ%
Vải bolen (m)
2,10
2,12
0,12
100,95
Vải katê (m)
0,8
0,8
0
100
Dây nẹp nhựa (m)
0,4
0,4
0
100
Cúc chịu nhiệt (chiếc)
7,0
7,0
0
100
Mex (m)
0,13
0,15
0,02
115,38
Chỉ xanh (m)
2,25
3
0,75
133,33
Khoá (chiếc)
3
3
0
100
Nguồn: Bảng định mức- Công ty may xuất khẩu Phương Mai
Định mức tiêu hao vật liệu của công ty thực tế đã tăng so với kế hoạch. Điều này chứng tỏ trước hết, công tác kế hoạch vật tư chưa thực sự đi sát với thực tế và nó cũng phản ánh có thể sản phẩm hỏng của công ty nhiều, chứng tỏ trình độ công nhân chưa cao, sử dụng nguyên vật liệu còn lãng phí. Vì vậy công ty đã không hoàn thành được kế hoạch tiêu hao vật liệu đã đề ra nên công ty cần xem xét vấn đề này.
Như vậy, chi phí nguyên vật liệu tăng nhanh là kết quả tất yếu của việc mở rộng sản xuất. Nhưng bên cạnh đó, cũng do hoạt động quản lý và hoạt động kế hoạch vật tư của công ty còn chưa được tốt. Công ty cần chú ý để giảm bớt chi phí này, góp phần tăng lợi nhuận.
Chi phí nhân công trực tiếp:
Thu nhập bình quân của công nhân năm 2000 là: 815000 đồng/tháng. Năm 2001 là: 900000 đồng/tháng nên tổng chi phí lương tăng 295,8 triệu đồng, hay đạt 110,43%. Điều đó chứng tỏ hoạt động kinh doanh của công ty được mở rộng, phát triển nên thu nhập tăng.
Tỷ suất lợi nhuận theo lao động (Lợi nhuận sau thuế/Tổng chi phí tiền lương) năm 2000 là: 6,04 ; năm 2001 là: 8,01 chứng tỏ việc quản lý và sử dụng lao động của công ty có hiệu quả hơn.
Bảng 7: Tiền lương công nhân công ty may xuất khẩu Phương Mai
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Giá trị sản lượng sản phẩm
15327,48
17558,57
19082,53
18716,43
20406,13
Số công nhân bình quân
200
250
290
290
290
Giá trị sản lượng bình quân
76,64
70,23
65,8
64,54
70,37
Tiền lương bình quân (đồng/tháng)
700000
750000
800000
850000
900000
Nguồn: Bảng tiền lương công ty may xuất khẩu Phương Mai.
Từ bảng trên ta thấy tiền lương của công nhân tăng dần theo từng năm đối với công nhân thì thu nhập được tăng nhưng đối với công ty thì tăng một khoản chi phí. Tuy nhiên, vì giá trị sản lượng tăng nên tổng quỹ tiền lương tăng là điều cần thiết và ta có giá trị sản lượng bình quân tăng chứng tỏ năng suất lao động bình quân tăng đây là ảnh hưởng tích cực vì năng suất lao động sẽ làm giảm chi phí trong giá thành sản xuất. Vấn đề là công ty cần điều chỉnh cho hai tỷ lệ này tương đương nhau thì hợp lý hơn.
Tóm lại, chi phí nhân công trực tiếp tăng là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh được mở rộng.
Chi phí sản xuất chung:
* Chi phí nghiệp vụ kinh doanh thay đổi:
Đây là nhân tố ảnh hưởng ngược chiều với lợi nhuận, cụ thể là: Chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại.
Chi phí nghiệp vụ kinh doanh năm 2001 tăng so với năm 2000 là:
DCPNVKD = 1020,15 - 860,02 = + 160,13 triệu đồng đã làm lợi nhuận giảm tương ứng là: -160,13 triệu đồng.
Đây là nhân tố có tác động tăng lớn nhất ( 118,62%), bởi vậy cần đi sâu xem xét nhân tố này xem nó tăng ở khâu nào.
Bảng 8: Chi phí nghiệp vụ kinh doanh.
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm2001
Chi phí bán hàng
67,2
67,8
68,6
68,3
69
Chi phí vận chuyển, bốc dỡ
76,3
79,5
88,31
84,26
79,32
Chi phí nhân viên quản lý
86,5
88,9
94,2
89,8
96,78
Chi phí đồ dùng văn phòng
45,1
46,2
47,4
46,5
48,4
Chi phí khấu hao tài sản cố định
24,9
25,3
38,8
26,9
49,85
Thuế, phí và lệ phí
8,91
9,01
9,42
9,6
10,16
Chi phí dịch vụ mua ngoài
236,5
240,2
259,3
244,4
397,9
Chi phí bằng tiền khác
158,01
167,4
179,4
186,5
169,3
Lãi vay ngân hàng
97,28
98,79
101,4
103,76
99,44
Tổng số
800,7
823,1
886,83
860,02
1020,15
Nguồn: Báo cáo quyết toán các năm - Công ty may xuất khẩu Phương Mai
Dựa vào bảng 8 ta thấy: Chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng dần theo tùng năm và 3 năm cuối tăng mạnh hơn do doanh nghiệp phải chịu một khoản chi khác là thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chi phí nghiệp vụ kinh doanh năm 2001 tăng 160,13 triệu đồng so với năm 2000 do ảnh hưởng của các nhân tố sau:
-Chi phí bán hàng tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: 0,9 triệu đồng.
-Chi phí vận chuyển bốc dỡ giảm làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh giảm:
- 4,94 triệu đồng.
-Chi phí nhân viên quản lý tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: + 6,98 triệu đồng.
-Chi phí đồ dùng văn phòng tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: + 1,9 triệu đồng.
-Chi phí khấu hao tài sản cố định tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: + 22,95 triệu đồng.
- Thuế, phí và lệ phí làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: +0,56 triệu đồng.
-Chi phí dịch vụ mua ngoài tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: + 153,5 triệu đồng. Đây là khoản mục tăng nhiều nhất trong chi phí nghiệp vụ kinh doanh.
-Chi phí bằng tiền khác giảm làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh giảm: - 17,2 triệu đồng.
-Trả lãi vay ngân hàng năm 2001 giảm: - 4,32 triệu đồng so với năm 2000 làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh giảm tương ứng 4,32 triệu đồng.
Nhìn chung, chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng theo từng năm do hầu hết các khoản mục của chi phí này đều tăng. Chi phí nghiệp vụ kinh doanh gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp mà chi phí bán hàng hầu như không thay đổi nên chủ yếu là chi phí quản lý doanh nghiệp tăng. Tuy nhiên so với tốc độ tăng của doanh thu tiêu thụ (105,83%), tốc độ tăng của chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng đã lớn hơn nhiều (118,62%), làm giảm lợi nhuận đi nhiều và nó cũng chứng tỏ khoản chi này tăng nhanh như vậy cần phải xem xét. Nhưng vì đây là khoản chi đầu tư, nâng cấp và mở rộng cơ sở sản xuất cũng rất cần thiết bởi vậy vấn đề là công ty cần tìm cách đẩy nhanh doanh thu tiêu thụ.
Chi phí trực tiếp cho bán hàng của doanh nghiệp chiếm quá ít trong tổng chi phí nghiệp vụ kinh doanh của doanh nghiệp. Dù chi phí tăng làm giảm lợi nhuận nhưng đây là một khoản chi cần thiết để tăng doanh thu tiêu thụ, công ty cần phải xem xét phải chăng khoản chi này còn ít nên sản phẩm của công ty ở thị trường nội địa chưa được biết tới nhiều.
Tóm lại, mặc dù chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng cao nhưng khoản tăng đó là hợp lý. Vì vậy, công ty cần đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ nhằm tăng doanh thu thì mới tăng được lợi nhuận.
*Các khoản giảm trừ doanh thu thay đổi:
Đây là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng nhưng làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp và hàng bán bị trả lại.
Năm 2000 hàng bán bị trả lại của công ty là: 15,57 triệu đồng.
Từ ngày 1/1/1999 công ty áp dụng thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất là 10%.
VATphải nộp =VATđầu ra -VATđầu vào
VATđầu ra được tính trên doanh thu từ kinh doanh vật tư và sản xuất trong nội địa của công ty.
VATđầu vào được tính trên lượng vật tư mua vào tiến hành sản xuất để tiêu thụ trong nước lẫn xuất khẩu.
Cụ thể năm 2000 với: VATđầu ra= 201,9 triệu đồng.
VATđầu vào=26,9 triệu đồng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100481.doc