Luận văn Một số biện pháp marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của Công ty Dệt Kim Hà Nội

Công ty Dệt Kim Hà Nội là một công ty sản xuất thuộc ngành sản xuất công nghiệp nhẹ mà Sở Công nghiệp Hà Nội trực tiếp quản lý.

Mặt hàng sản xuất của công ty là dệt các bít tất dùng cho người lớn và trẻ em như: bít tất Jacquard, xùi, rib, thêu dùng cho computer và bít tất giấy phụ nữ. Mặt hàng của công ty đa dạng về mẫu mã phong phú về mầu sắc, kiểu dáng và đặc biệt là chất lượng cao đáp ứng tiêu dùng trong và ngoài nước.

Năng lực sản xuất hiện nay của Công ty là 7 triệu đôi bít tất/ năm. Sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền thiết bị hiện đại và tương đối đồng bộ được nhập khẩu từ Tiệp Khắc, Hàn Quốc, Nhật, Italia .

 

doc102 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1987 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của Công ty Dệt Kim Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được cải tiến, hoàn thiện. + Phát hiện cơ hội bán hàng và khai thác triệt để cơ hội đó. - Tạo dựng uy tín của sản phẩm: Uy tín của sản phẩm là tổng hợp các chỉ tiêu phản ánh về mặt chất lượng của sản phẩm (chất lượng, khả năng tiêu thụ, sở thích, độ thỏa dụng, di ứng với sự biến động của thị trường ...). Để tạo dựng uy tín sản phẩm chủ yếu tập trung vào các yếu tố sau: + Chất lượng sản phẩm. + Nhãn hiệu sản phẩm. + Bao bì đóng gói. - Phát triển sản phẩm mới: Phát triển sản phẩm là yêu cầu sống còn của hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Muốn có sản phẩm mới tích cực nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ cuộc sống của con người. * Phát triển sản phẩm mới cần qua các bước sau: Bước 1: Xác định sản phẩm mới: + Nghiên cứu thăm dò nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp đang có. + Nghiên cứu và phân tích những ưu điểm, nhược điểm những sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. + Nghiên cứu những công nghệ mới, công nghệ tiên tiến để ứng dụng vào sản xuất sản phẩm mới (nghiên cứu khả thi, nghiên cứu chi tiết ...). + Phân tích, đánh giá, so sánh chi phí và doanh thu khi phát triển sản phẩm mới với việc duy trì sản xuất sản phẩm cũ (có tính đến chi phí cơ hội). Những dấu hiệu cần nhanh chóng sản xuất sản phẩm mới: - Doanh số có chiều hướng giảm mà không phải từ các nguyên nhân kinh tế khác. - Sản phẩm đã được phổ biến rộng khắp. - Nhu cầu tiêu dùng đã đến mức bão hòa (không tăng). Sau khi đã xác định phương án mặt hàng (sản phẩm mới) xong cần phải thẩm định lại toàn bộ: - Dung lượng thị trường và khả năng xuất hiện ở thị trường mới. - Khả năng cạnh tranh và sự phản ứng của các nhà doanh nghiệp. - Khả năng đầu tư kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp. - Hệ thống kênh phân phối, chương trình tuyên truyền quảng cáo. - Xác định hiệu quả kinh doanh, thời gian thu hồi vốn. Bước 2: Tiến hành sản xuất sản phẩm mới bao gồm: - Chế thử. - Vận hành, sử dụng nhằm khám phá khiếm khuyết. - Khắc phục nhược điểm của sản phẩm mới. - Sản xuất đại trà. - Làm thích ứng với thị trường, với yêu cầu của khách hàng. Bước 3: Tung sản phẩm ra thị trường: + Tổ chức giới thiệu sản phẩm mới bao gồm quảng cáo, tuyên truyền, trưng bày triển lãm, hội chợ ... + Chào bán với những chính sách khuyến mãi khác nhau tuỳ theo đối tượng. Chú ý: Lựa chọn thời điểm để đưa sản phẩm mới ra thị trường. Triển khai thành nhiều giai đoạn (thăm dò, củng cố và khẳng định). Bước 4: Thu thập ý kiến khách hàng về sản phẩm mới nhằm tìm ra những nguyên nhân thành công và thất bại. 5. Chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược tiêu thụ sản phẩm: Bao gồm chính sách về giá cả, chính sách phân phối hàng hóa vào các kênh tiêu thụ, chính sách xúc tiến ... đã được trình bày ở phần I. III. Mối quan hệ của marketing với tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất. Tiêu thụ sản phẩm là hoạt động nhằm thực hiện hình thái giá trị của sản phẩm được sáng tạo ra trong lao động sản xuất, nhằm chuyển hóa lao động cá biệt được vật hóa sang lao động xã hội được thừa nhận thông qua giá trị. Do vậy tiêu thụ sản phẩm là hoạt động quan trọng không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh, nó là một khâu, một mắt xích của quá trình sản xuất mở rộng. Tiêu thụ sản phẩm giúp cho hoạt động kinh doanh được diễn ra không những thường xuyên liên tục mà còn đạt hiệu quả trong kinh doanh, chỉ có thông qua tiêu thụ người ta mới có thể đánh giá được sản xuất kinh doanh có đạt hiệu quả đến đâu, đồng thời thấy rõ sự thừa nhận của xã hội với lao động cá biệt, tức là đã thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường vận hành theo những quy luật kinh tế như quy luật giá trị quy luật cung cầu, cạnh tranh ... những quy luật này luôn gắn liền với hoạt động trao đổi hàng hóa dịch vụ, đã không ngừng huy động những nguồn lực vào việc sáng tạo ra của cải và giá trị mới làm giầu cho cá nhân và xã hội. Chính vì vậy mà hàng hóa được sản xuất ra lớn hơn cầu về hàng hóa và có xu hướng bão hòa trên thị trường, dẫn đến tiêu thụ sản phẩm của cá doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Để tiếp tục thực hiện tốt hoạt động kinh doanh người ta tìm mọi cách để chiều lòng khách hàng bằng cách thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Cách thức, biện pháp và khoa học nghiên cứu nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ hết sản phẩm hàng hóa được doanh nghiệp sản xuất đó là hoạt động marketing. Ngày nay, các công ty không thể sống còn đơn giản chỉ bằng việc làm tốt công việc của mình. Họ phải làm một công việc hoàn hảo nếu như họ muốn chiến thắng trong các thị trường được đặc trưng bởi sự tăng trưởng chậm và sự cạnh tranh gay gắt ở trong nước và ngoài nước. Người tiêu dùng và các người mua kinh doanh đứng trước một số lớn các nhà cung cấp và đang tìm kiếm để thoả mãn các nhu cầu của mình, do đó họ tìm sự hoàn hảo về chất lượng, giá trị và chi phí khi họ lựa chọn các nhà cung cấp cho mình. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng chìa khóa của việc hoàn thành được lợi nhuận cho công ty là việc biết và thỏa mãn các khách hàng có mục tiêu với những sản phẩm siêu đẳng có tính cạnh tranh cao. Và marketing là chức năng của công ty bao gồm việc xác định các mục tiêu về khách hàng và tốt nhất để thỏa mãn các nhu cầu và mong muốn của họ một cách có tính cạnh tranh và có khả năng sinh lợi nhuận. Marketing có nguồn gốc từ con người là một sinh vật với những nhu cầu đòi hỏi và những mong muốn. Các nhu cầu và các mong muốn tạo ra một trạng thái thiếu tiện nghi và nó sẽ được giải quyết thông qua các sản phẩm thu được để thỏa mãn các nhu cầu và mong muốn này. Marketing là chức năng quản lý công ty về tổ chức và tiền lương toàn bộ các hoạt động kinh doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể để đến việc đưa hàng hóa đó đến người tiêu thụ cuối cùng nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận cao nhất. Qua việc phân tích ở trên đây cho thấy marketing là hoạt động nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, làm cho hoạt động tiêu thụ vừa là một khoa học, vừa là nghệ thuật vừa là bí quyết thành công trên thương trường. Marketing ngày nay không thể thiếu được; người nào, doanh nghiệp nào nắm được, làm chủ được marketing sẽ gặt hái được những thành công rực rỡ. Đương nhiên hoạt động tiêu thụ sản phẩm không phải là marketing, bởi marketing chỉ xuất hiện khi nào, ở đâu có nền kinh tế thị trường, ở đâu mà cung lớn hơn cầu về hàng hóa. Hoạt động marketing chỉ là một trong biện pháp quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm chứ không phải là tất cả. Tuy nhiên tiêu thụ và marketing có quan hệ mật thiết với nhau, tiêu thụ phải nhờ có marketing mới phát triển được tức là marketing làm tiền đề cho hoạt động tiêu thụ, ngược lại marketing gắn liền với tiêu thụ, marketing là để tiêu thụ nếu không có tiêu thụ không có marketing. Kết luận: Marketing là tất yếu của quy luật cạnh tranh trên thị trường nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa. ở Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường thì hàng hóa được tạo ra ngày một phong phú, nhu cầu của người tiêu dùng càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, phương thức phục vụ. Chính trong hoàn cảnh này marketing đã du nhập vào Việt Nam ngày một tỏ ra tác dụng và không thể thiếu được. Tuy vậy hoạt động marketing chỉ mới dừng ở một số hoạt động riêng rẽ, thiếu sự nhất quán và quan tâm một cách đúng mức. Nhiều doanh nghiệp còn hiểu sai và hết sức đơn giản về marketing, dẫn đến sự kém phát huy tác dụng của marketing trong kinh doanh nhất là trong tiêu thụ sản phẩm. Cần thiết trang bị kiến thức marketing không những trong lĩnh vực giảng dạy, học thuật mà còn cả trong thực tiễn kinh doanh. Muốn vậy phải không ngừng đầu tư và dựa trên đặc thù của Việt Nam đưa marketing thâm nhập vào cuộc sống, lao động sản xuất kinh doanh để có thể tự mình làm chủ được hoạt động marketing một cách vững vàng. Chương II Thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt Kim Hà Nội 1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty Dệt Kim Hà Nội. Công ty Dệt Kim Hà Nội tên giao dịch quốc tế là: Hanoi Knitting company, tiền thân là Nhà máy Dệt kim Hà Nội, được thành lập vào năm 2000 thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội. Trụ sở chính của công ty tại Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Công ty hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Sở Công nghiệp Hà Nội. Trước năm 1986, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu dựa vào chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh do Nhà nước phân bổ theo hệ thống của chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước quyết định yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất, công ty chỉ biết tổ chức sản xuất như thế nào để đảm bảo được định mức tiêu dùng vật tư mà Nhà nước quy định. Trong thời kỳ này có một ưu điểm như công ty yên tâm tập trung vào sản xuất, không phải đối mặt với một số vấn đề gai góc là đó sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, sự biến động lên xuống của cung cầu về hàng hóa làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển sản xuất. Trong thời gian dài công ty luôn đạt chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước giao cho. Đời sống của người lao động tương đối ổn định. Tuy vậy, trong thời gian này đã gặp phải một số nhược điểm cơ bản: kế hoạch pháp lệnh đã thui chột tính chủ động sáng tạo và tạo ra sự ỷ lại của các doanh nghiệp vào Nhà nước doanh nghiệp. Quy luật giá trị không phát huy được tác dụng kích thích và điều tiết sản xuất, các phạm trù hàng hóa tiền tệ, tài chính, tín dụng thương mại ... bị vi phạm nghiêm trọng. Sản xuất bằng mọi giá để đảm bảo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, đã xem nhẹ tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, hàng hóa được sản xuất ra luôn bị những cơ chế phân phối cứng nhắc ảnh hưởng nhiều đến tâm lý người tiêu dùng, do vậy luôn tạo ra khan hiếm giả tạo càng làm căng thẳng giữa quan hệ cung cầu về hàng hóa ... Từ sau những năm 1986, cùng chung với việc đổi mới kinh tế của đất nước trên cơ sở tạo lập một cơ chế tư duy kinh tế mới. Công ty có những bước phát triển mới, nhanh chóng đổi mới thiết bị sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm từng bước thỏa mãn thị trường trong nước, từng bước ra nhập thị trường quốc tế. Tuy vậy về vấn đề hiệu quả kinh doanh còn nhiều điều phải nghiên cứu, xem xét một cách nghiêm túc để tìm ra những giải pháp thiết thực nhất, để có thể góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa của công ty, củng cố vững chắc chỗ đứng ở thị trường nước ngoài truyền thống, phát triển mở rộng ở thị trường mới. 2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty Dệt Kim Hà Nội là một công ty sản xuất thuộc ngành sản xuất công nghiệp nhẹ mà Sở Công nghiệp Hà Nội trực tiếp quản lý. Mặt hàng sản xuất của công ty là dệt các bít tất dùng cho người lớn và trẻ em như: bít tất Jacquard, xùi, rib, thêu dùng cho computer và bít tất giấy phụ nữ. Mặt hàng của công ty đa dạng về mẫu mã phong phú về mầu sắc, kiểu dáng và đặc biệt là chất lượng cao đáp ứng tiêu dùng trong và ngoài nước. Năng lực sản xuất hiện nay của Công ty là 7 triệu đôi bít tất/ năm. Sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền thiết bị hiện đại và tương đối đồng bộ được nhập khẩu từ Tiệp Khắc, Hàn Quốc, Nhật, Italia ... Dây chuyền sản xuất sản phẩm thể hiện tại sơ đồ sau: Khíu Dệt chọn gấp Sấy Nhuộm k.tra đóng gói Công nghệ sản xuất của công ty đạt mức tiên tiến như công nghệ dệt rib của Nhật Bản, công nghiệp sản xuất bít tất thêu bằng computer của Hàn Quốc, và Italia. Phần công nghệ của Tiệp Khắc đã cũ. Nhằm đạt được chất lượng cao và phù hợp với công nghệ sản xuất, nguyên liệu dùng cho sản xuất của công ty chủ yếu là nhập ngoại (80%) từ các nước như Hàn Quốc, Nhật, Pakistan, ấn Độ, Trung Quốc ... phần còn lại công ty mua của Hanosimex, Dệt 8/3, Dệt Nam Định ... Nguyên liệu chính để sản xuất sản phẩm là sợi cotton, sợi acryamid, spandex, polyeste, polycarathane ... Trước đây trong thời kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Công ty Dệt Kim Hà Nội chỉ đơn thuần là một doanh nghiệp sản xuất, mọi công việc sản xuất được thực hiện theo kế hoạch trên giao, cấp trên chịu trách nhiệm cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc, thiết bị ... và là người quyết định tiêu thụ sản phẩm, việc bán hàng như thế nào đã có hệ thống thương nghiệp 3 cấp chuyên lo. Những năm gần đây khi mà nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong sản xuất và kinh doanh, công ty được tự quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu và cho ai. Chính vì vậy, công ty tự lo đầu vào và đầu ra của sản xuất. Vấn đề quan trọng bậc nhất hiện nay sản xuất luôn gắn chặt với thị trường do thị trường quyết định. Để đáp ứng và thỏa mãn những yêu cầu khắt khe của thị trường đòi hỏi công ty phải không ngừng đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao công nghệ và năng lực sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị hiếu của khách hàng, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, nhất là sang một số thị trường khó tính như Nhật Bản, EU ... Bắt đầu từ năm 1992, côn ty được phép xuất khẩu trực tiếp đã tạo điều kiện cho công ty tìm kiếm bạn hàng, mở rộng kinh ngạch xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đến nay 60% sản phẩm của công ty được xuất khẩu sang Nhật Bản thông qua chương trình hợp tác giữa Công ty Dệt Kim Hà Nội và Công ty Inter System với thời hạn 10 năm. Đến năm 1998 sản phẩm của công ty đã xâm nhập thị trường EU, tuy vậy hiện nay mới đang dừng ở mức thăm dò tìm hiểu thị trường, hy vọng trong thời gian tới công ty sẽ tăng mạnh kim ngạch xuất nhập khẩu ở thị trường này. 3. Chức năng nhiệm vụ của bộ máy tổ chức quản lý của công ty. Hệ thống hóa bộ máy tổ chức quản lý của công ty được hình thành trên cơ sở quyết định thành lập công ty. Công ty là một pháp nhân và có đầy đủ tư cách pháp nhân trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình. Trong đó giám đốc là người có đầy đủ năng lực pháp lý và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trước cấp trên và trước Nhà nước. Cơ chế bộ máy tổ chức quản lý của công ty hoạt động theo chế độ 1 thủ trưởng, tức là giám đốc là người hoàn toàn điều hành mọi hoạt động của công ty. Để tạo điều kiện cho việc hoàn thành mọi công việc quản lý của mình, giám đốc lựa chọn phó giám đốc giúp việc do giám đốc uỷ quyền. Đồng thời giám đốc công ty cử một số chuyên viên, trợ lý phụ trách tham mưu từng công việc và mảng công việc cụ thể. Giám đốc điều hành hoạt động của công ty theo sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty như sau: Biểu 1: Mô hình tổ chức bộ máy của công ty Giám đốc Phó giám đốc kỹ thuật Phân xưởng sản xuất Phó giám đốc kinh tế Phòng K.thuật Phòng K.thuật Phòng K.thuật Phòng K.thuật Phòng K.thuật Phòng Vật tư Phòng CT TT SP Như vậy giám đốc là người phụ trách chung, ngoài ra trực tiếp phụ trách xuất nhập khẩu (XNK) và công tác TCCB. Trên cơ sở tham khảo những ý kiến của chuyên gia giúp việc, giám đốc quyết định mọi hoạt động của công ty từ những vấn đề về chiến lược kinh doanh, vấn đề đầu tư, vấn đề tài chính về biện pháp sản xuất kinh doanh, phân phối các lợi ích, tiêu thụ sản phẩm ... như thế nào. Phó giám đốc kinh tế được giám đốc uỷ quyền phụ trách tiếp các mảng về kinh doanh như: tài chính, hạch toán kế toán, đảm bảo vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm, ... Trong mô hình tổ chức thì phó giám đốc kinh tế phụ trách các phòng như Tài vụ, phòng Kế hoạch, phòng Tiêu thụ sản phẩm ... Phó giám đốc kỹ thuật được giám đốc uỷ quyền phụ trách các mảng về kỹ thuật sản xuất, về công nghệ là người trực tiếp phụ trách kỹ thuật, phòng KCS, các phân xưởng sản xuất, bộ phận kỹ thuật phụ trách sản xuất ... Trong hệ thống tổ chức trên thì có một số phòng chức năng làm tham mưu cho giám đốc, chỉ đạo nghiệp vụ sản xuất kinh doanh, cung cấp một số dịch vụ như tài chính, nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật của các dự án sản xuất, cung cấp vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, điện nước, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm ... Một số phân xưởng trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Cụ thể chức năng nhiệm vụ của các bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công ty như sau: - Phòng kỹ thuật sản xuất: quản lý kỹ thuật, xây dựng và điều độ kế hoạch sản xuất; cung ứng quản lý vật tư nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm; quản lý lao động và tiền lương; đảm nhiệm công tác an toàn lao động. - Phòng tài chính kế toán: quản lý tài chính, kế toán và hệ thống thống kê của công ty. - Phòng xuất nhập khẩu: giao dịch đối ngoại; tiếp thị; quản lý việc xuất nhập khẩu vật tư nguyên vật liệu và sản phẩm cùng với phòng tài chính thực hiện nhiệm vụ thanh toán quốc tế. - Bộ phận văn phòng: lưu trữ và phát hành các hồ sơ văn bản, tiếp nhận thông tin bên trong và bên ngoài công ty. Xếp lịch tổ chức các cuộc họp nội bộ và tiếp khách theo yêu cầu của giám đốc công ty. - Bộ phận hành chính: đội bảo vệ, y tế công ty, quản lý nhà ăn, điều độ lái xe và đảm nhiệm các công tác phục vụ khác. - Phân xưởng dệt 1: sản xuất bít tất Nilon, Jacquard trên hệ thống thiết bị của Tiệp Khắc. - Phân xưởng dệt 2: sản xuất bít tất Rib trên hệ thống thiết bị của Hàn Quốc và của Nhật. - Phân xưởng dệt 3: sản xuất bít tất thêu trên hệ thống thiết bị của Hàn Quốc và Italia. - Phân xưởng nhuộm: gia công tẩy nhuộm tất cả các loại bít tất sản xuất bằng sợi mộc trên hệ thống máy móc thiết bị của Hàn Quốc. 4. Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty. 4.1. Phân tích năng lực sản xuất kinh doanh của công ty: Công tác đầu tư đã được công ty hết sức quan tâm và coi như một trong những nội dung hoạt động quan trọng, là biện pháp tích cực và hiệu quả nhất để từng bước nâng cao trình độ công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm đạt chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo điều kiện ổn định phát triển công ty. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường và dự đoán xu hướng phát triển công nghệ sản xuất bít tất trong và ngoài nước, công ty đã lựa chọn và quyết định thực hiện các chương trình đầu tư phát triển đúng hướng đạt hiệu quả cao. Từ năm 1991-1999 hàng năm công ty đã thực hiện đầu tư trung bình: 200.000 USD, tốc độ tăng trưởng về đầu tư từ 10-15% năm. Với kết quả đầu tư đạt được như trên, tới trình độ và năng lực máy móc thiết bị của công ty như sau: - Công nghệ sản xuất bít tất Rib gồm 2 dây chuyền: + Dây chuyền sản xuất bít tất Rib xuất khẩu trong chương trình hợp tác sản xuất với Công ty Inter/ System (Nhật Bản) gồm 100 máy BS1, 15 máy dệt BS3 và hệ thống thiết bị sau dệt. Khíu, nhuộm, định hình. Sản lượng 3 triệu đôi 1 năm. + Dây chuyền sản xuất bít tất Rib sản xuất hàng nội địa gồm 80 máy dệt BS2 và hệ thống thiết bị sau dệt. Sản lượng 2 triệu đôi 1 năm. Công nghệ sản xuất bít tất Rib là công nghệ tiên tiến đang phát triển trên thé giới và đã được áp dụng vào Việt Nam lần đầu tiên tại Công ty Dệt Kim Hà Nội từ năm 1992. Sản phẩm có giá trị sử dụng cao, thông dụng với mọi tầng lớp, được khách hàng trong nước và ngoài nước tín nhiệm và nhu cầu ngày càng tăng. Hiện tại 60% sản phẩm được xuất khẩu sang Nhật, phần còn lại tiêu thụ nội địa, trong thời gian tới công ty tiếp tục hoàn thiện và mở rộng năng lực sản xuất loại sản phẩm này. - Dây chuyền công nghệ sản xuất bít tất thêu dùng computer gồm 16 máy dệt của Hàn Quốc, Italy công suất: 600.000 đôi/ năm. Đây là công nghệ hiện đại mới phát triển trên thế giới, áp dụng tại công ty năm 1992. Đến nay đội ngũ cán bộ công nhân (CBCN) kỹ thuật đã tiếp thu được công nghệ, duy trì sản xuất ổn định và đưa ra thị trường các loại sản phẩm mới bền đẹp, hợp vệ sinh. Đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, công ty tiếp tục đầu tư từng bước để mở rộng năng lực sản xuất loại sản phẩm này và có triển vọng thâm nhập được vào thị trường EU. - Hệ thống công nghệ thiết bị của Tiệp Khắc: sản xuất bít tất Nylon, Jacquard gồm 80 máy D3VA, D3VC, D2VC. Công suất 1,5 triệu đôi/ năm, thiết bị cũ đã sử dụng được gần 20 năm. Công ty có biện pháp phục hồi, bảo dưỡng duy trì sự hoạt động các thiết bị để sản xuất sản phẩm phục vụ khách hàng trong nước: Quân đội Việt Nam, Bộ Nội vụ và một phần trên thị trường tự do. Với năng lực và trình độ thiết bị công nghệ như trên của công ty, cân đối với triển vọng về thị trường tiêu thụ, trong thời gian tới công ty cần có kế hoạch xây dựng và thực hiện các chương trình đầu tư phát triển các công nghệ mới hiện đại như công nghệ bít tất Rib, Computer, tất giấy phụ nữ. Thay thế dần các công nghệ cũ lạc hậu không có khả năng tiêu thụ như bít tất Nylon Jacquard, mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Thực hiện mục tiêu "công nghiệp hóa và hiện đại hóa" đất nước của Đảng thông qua các hình thức đầu tư, tự đầu tư, liên doanh, liên kết với các công ty trong nước và nước ngoài. Biểu số 2: Năng lực sản xuất. Thiết bị Nhãn hiệu Năng lực (đôi/ca) Số lượng Năng lực (đôi/năm) I. Máy dệt: 1. Máy dệt bít tất Jacquard 2. Máy dệt bít tất Rib 3. Máy dệt bít tất xùi 4. Máy dệt bít tất thêu 5. Máy dệt bít tất link Uniplet (Tiệp) BooSeong (NTT) Lkenaga (Nhật) SooSan (Hàn Quốc) Lonaty (Italia) BooSeong (NTT 37 25 40 45 30 95 192 10 14 17 3.300.000 6.050.000 370.000 700.000 470.000 II. Máy khíu: - Máy - Tay China Japan 500 1.000 30 13 6.000.000 400.000.000 III. Sấy khô: Samduk (NTT) 80 kg/lần 0,2 IV. Máy giặt Samduk (NNT) 40 kg/lần 0,0 V. Máy sấy định hình: - Điện - Hơi (Nhật) (NTT) 1.00 3.200 01 02 900.000 2.900.000 VI. Máy nhuộm Sam duk (NTT) 1.800 04 2.200.000 VII. Nồi hơi 500 kg/h 1.500kg/h 01 01 4.2. Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty: Kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một số năm. Chuyển sang cơ chế mới - cơ chế thị trường, như tất cả các doanh nghiệp khác. Công ty Dệt Kim Hà Nội đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng trước tình hình đó, Công ty Dệt Kim Hà Nội đã tìm ra con đường phát triển đúng hướng vì vậy đã tháo gỡ được khó khăn và đạt được kết quả kinh doanh khá cao, điều đó thể hiện ở biểu sau: Biểu số 3: Một số chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh. TT Chỉ tiêu ĐVT 1999 2000 2001 1 Giá trị TSL công nghiệp Triệu đồng 17.225 19.519 25.826,5 2 Sản phẩm chủ yếu Đôi 2.660.642 3.457.756 4.831.428 3 Doanh thu Triệu đồng 20.101 28.495 39.684 4 Chi phí Triệu đồng 19.110 27.141 38.169 5 Tổng quỹ thu nhập: - Quỹ tiền lương - BHXH trả thay lương Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng 1.441,7 1.437,6 4,1 1.900,6 1.896,2 4,4 2.782,9 2.775,2 7,7 6 Cán bộ, công nhân viên Người 375 390 430 7 Tiền lương bằng Đồng 354.500 419.200 573.900 8 Thuế doanh thu Triệu đồng 639 972 1.025 9 Thuế vốn Triệu đồng 169,5 168 168,5 10 Thuế lợi tức Triệu đồng 346,67 473,8 737 11 Nộp ngân sách Triệu đồng 1.151 1.443 2.115 12 BHXH phải nộp Triệu đồng 137,9 178,3 269,5 13 Lãi (lợi nhuận) Triệu đồng 990,5 1.353,7 1.515 Qua bảng chỉ tiêu tổng hợp như trên chúng ta có một số nhận xét như sau: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp không ngừng tăng lên nhất là năm 2001 tăng lên 32% nhờ có đầu tư mạnh mẽ về máy móc và cải tiến công nghệ. Số lượng sản phẩm chủ yếu cũng không ngừng tăng lên qua các năm, năm 2000 tăng 30% so với 1999. Tuy vậy, có nhận xét rằng so với năng lực sản xuất hiện có thì công ty cũng chỉ sản xuất được xấp xỉ 50%. Điều đó chứng tỏ khả năng sản xuất của công ty còn rất lớn. Doanh thu của công ty qua các năm tăng bình quân 40%, năm 2000 tăng 41% so với 1999, năm 2001 tăng 39% so với năm 2000. Cùng với các chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu về tổng thu nhập chỉ tiêu về lao động, chỉ tiêu về tiền lương bình quân cũng không ngừng tăng lên về tổng thu nhập năm 2000 tăng 32% so với 1999, năm 2001 tăng 46% so với 2000. Về lao động: năm 2000 tăng 4% so với 1999, năm 2001 tăng 10% so với 2000, điều này chứng tỏ quy mô về sản xuất về nhân lực đã không ngừng được nâng lên về tiền lương bình quân năm 2000 tăng 18% so với 1999, năm 2001 tăng 37% so với 2000, điều này chứng tỏ đời sống của cán bộ, công nhân được cải thiện so với trước, nhất là chỉ tiêu lạm phát của năm 2000, 2001 thấp. Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác như chỉ tiêu về chi phí: năm 2000 tăng 42% so với 1999, năm 2001 tăng 40,6% với 2000. Qua các chỉ tiêu trên cho thấy rằng: Tốc độ tăng của các chỉ tiêu phản ánh quy mô sản xuất cao hơn tốc độ tăng của nhân công, chứng tỏ rằng công ty đã chú trọng đến công nghệ hiện đại, tăng đầu tư kỹ thuật, máy móc thiết bị để mở rộng quy mô sản xuất. Tổng thu nhập qua các năm tăng nhiều hơn tốc độ tiền lương bình quân, như vậy công ty giảm phần thu nhập chi cho quỹ tiền lương. Các chỉ tiêu khác như về thuế doanh thu, thuế vốn, thuế lợi tức nộp ngân sách, có sự biến động khác, trong đó có các khoản thuế doanh thu, lợi tức, nộp ngân sách tăng mạnh, điều này chứng tỏ công ty luôn làm tốt nghĩa vụ với Nhà nước, năm sau cao hơn năm trước. Để phân tích câu hỏi về chất lượng kinh doanh chúng ta xem xét một số chỉ tiêu sau: + Chỉ tiêu năng suất lao động bình quân: Sản phẩm chủ yếu Nbg = Số người 1999 : 7.095 SP/ người 2000 : 8.866 SP/ người 2001 : 11.235 SP/ người. Qua đây chúng ta thấy rằng năng suất lao động của công ty không ngừng được tăng lên nhờ đầu tư vào máy móc thiết bị. Năng suất lao động năm 2000 tăng 25% so với 1999, năng suất lao động bình quân năm 2001 tăng 26% so với 2000. + Chỉ tiêu doanh thu trên l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc15307.DOC
Tài liệu liên quan