Công ty Dệt Kim Đông Xuân (nhà máy Dệt Kim Đông Xuân trước đây), được thành lập từ năm 1959 theo quyết định số 1083/QĐ cấp ngày 13 tháng 4 năm 1959 của Bộ Công Nghiệp nhẹ (Nay là Bộ Công Nghiệp). Đây là doanh nghiệp nhà nước đầu tiên của nghành dệt kim Việt Nam.
Năm 1980 nhà máy được mở rộng theo quyết định số 213/TTG ngày 1/7/1980 của Thủ Tướng Chính Phủ.
Ngày 31/12/1992 Bộ công nghiệp nhẹ (nay là bộ công nghiệp) có quyết định số 704/CNN - TCLĐ chuyển đổi tổ chức và hoạt động của nhà máy Dệt Kim Đông Xuân thành công ty Dệt Kim Đông Xuân với tên giao dịch là DOXIMEX.
115 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hâu á gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ 15% - 20%. Sản phẩm may mặc ở Châu á được coi là sản phẩm truyền thống, được phát huy dựa vào lợi thế nguồn nhân công tương đối dồi dào. Từ năm 1990 đến nay Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 thế giới, chiếm 11% kim ngạch nhập khẩu trên toàn thế giới (khoảng 20.000 triệu USD). Nhưng đây không phải là thị trường xuất khẩu lớn, kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 2,5% kim ngạch nhập khẩu. Nhật Bản nhập khẩu hàng may mặc chủ yếu từ Trung Quốc (63%), Italia, Mỹ, Hàn Quốc.
Trái với Nhật, Trung Quốc là quốc gia cung cấp hàng may mặc chủ yếu cho thị trường thế giới. Trung Quốc xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông, Mỹ, EU và rất nhiều quốc gia khác sản phẩm may mặc có giá rẻ, mẫu mã thông thường, chất lượng trung bình. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm là 20 - 25 tỷ USD, trong khi kim ngạch nhập khẩu chỉ bằng 10% kim ngạch xuất khẩu. Trung Quốc đang thay đổi thướng phát triển để chuyển từ một quốc gia có ngành công nghiệp dệt may "lớn" thành "mạnh', với một số biện pháp tăng sức cạnh tranh quốc tế là điều chỉnh quy mô sản xuất, hiện đại hoá thiết bị, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm dựa trên lợi thế về tính thông dụng của sản phẩm. Nghiên cứu khả năng sản xuất và phương thức tiếp cận thị trường của Trung Quốc sẽ cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu.
Hồng Kông là quốc gia sử dụng chủ yếu phương thức tạm nhập tái xuất để xuất khẩu hàng may mặc ra thị trường thế giới. Trong mấy năm gần đây, tổng giá trị xuất khẩu của Hồng Kông là 20 đến 23 tỷ USD thì giá trị hàng tái xuất chiếm 50%. Thị trường cung cấp nguyên vật liệu và bán thành phẩm chủ yếu cho Hồng kông là Trung Quốc. Nhưng khác với quan điểm của Trung Quốc là nhấn mạnh tính thông dụng và mức giá rẻ của sản phẩm, Hồng Kông sản xuất và xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc cao cấp, các sản phẩm thời trang, độc đáo và ấn tượng. Trong tương lai, mô hình buôn bán "tam giác" Hồng Kông - Trung Quốc - tái xuất khẩu rất có triển vọng vì hiện tại Hồng Kông đã thuộc về Trung Quốc, công nghiệp may mặc vẫn chủ yếu dựa vào khả năng sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn và khai thác các thị trường mới.
2.1.3.2 Thị trường nhập khẩu.
a. Thị trường Bắc Mỹ
Các nước Bắc Mỹ là những nhà nhập khẩu hàng may mặc lớn. Riêng hai nước Mỹ, Canada chiếm gần 30% khối lượng nhập khẩu của thế giới. Mỹ là quốc gia đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng giá trị nhập khẩu của thế giới. Kim ngạch nhập khẩu những năm cuối thập kỷ 90 lên tới 40 - 45 tỷ USD. Chính vì biết được nhu cầu nhập khẩu lớn ở thị trường Mỹ nên các quốc gia ngày càng tăng cường khả năng thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này. Để quản lý và hạn chế nguồn hàng nhập khẩu, Mỹ đã ký thoả thuận hạn ngạch song phương với 41 nước. Lĩnh vực may mặc của Mỹ là lĩnh vực có sự bảo hộ rất lớn với biểu thuế 48%. Các quốc gia khác cũng có hy vọng với sự ra đời của ATC, Mỹ sẽ cắt giảm mức thuế này và duy trì ở mức 18%. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi, hạn ngạch của Mỹ có lẽ sẽ chặt chẽ hơn - điều này rất quan trọng đối với một số nước Đông Nam á.
Gần đây, nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ đã chuyển mạnh từ khu vực Châu á sang các nước Mêhicô, các nước vùng Caribê, là một số nước có ưu thế về mức lương thấp. Bên cạnh đó, sự chuyển dịch này còn do xu hướng tăng cường mối quan hệ thương mại khu vực, do quy định về xuất xứ hàng hoá làm cao thêm rào cản hàng may mặc nhập khẩu từ các nước Châu á.
Để hiểu thêm về thị trường Mỹ trong lĩnh vực buôn bán, tiêu thụ hàng may mặc, ta có thể tham khảo một số số liệu cụ thể đã được thu thập năm 1998.
Năm 1998, 25 nước xuất khẩu chính xuất khẩu vào thị trường Mỹ 53,769 tỷ USD hàng dệt may các loại thì trong đó hàng may mặc đã chiếm 40,926 tỷ USD, cụ thể từng nước như sau:
Bảng 2.1: Các nước xuất khẩu chính vào thị trường Mỹ
Nước xuất khẩu
Giá trị
(triệu USD)
Nước xuất khẩu
Giá trị
(triệu USD)
Mehico
Trung Quốc
Hồng Kông
Dominique
Honduras
Bangladesh
Đài Loan
Hàn Quốc
El Salvador
Philippines
Indonesia
India
Thailand
6.906,4
4.427,6
4.394,2
2.394,2
1.946,1
1.622,7
2.072,3
2.033,3
1.198,3
1.771,5
1.653,3
1.582,6
1.452,6
14.Sri Lanka
15. Costa Rica
16. Guatenmala
17. Canada
18. Macao
19. Pakistan
20. Thổ Nhĩ Kỳ
21. Malaysia
22. Jamaica
23. Cambodia
24. Haiti
25. Ai Cập
1.391,5
829,2
1.163,7
1.469,1
1.078,4
685,7
749,1
756,6
393,9
492,7
228,6
337,3
(Nguồn: Báo cáo hội thảo thị trường - Tổng công ty dệt may Việt Nam)
Những con số cho thấy thị trường Mỹ là một thị trường rộng, nhu cầu cao và nhiều người nghiên cứu về thị trường Mỹ cũng đã có nhận xét rằng người Mỹ không chú ý quá nhiều đến chất lượng mà đòi hỏi người xuất khẩu phải đáp ứng số lượng hàng lớn, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết của hợp đồng, sẵn sàng huỷ hợp đồng khi vi phạm, ít thể hiện sự thông cảm. Việt Nam đã ký hiệp định thương mại với Mỹ và hai nước đã có sự đàm phán về hàng dệt may.
b. Thị trường EU.
Thị trường EU là một thị trường rộng, có khả năng nhập khẩu không kém gì thị trường Mỹ. Năm 1999, EU nhập khẩu 41 tỷ Euro tương đương với 43 tỷ USD hàng may mặc. Các nước xuất khẩu chính đa phần là những nhà xuất khẩu chính của Mỹ, tuy nhiên ở thị trường này kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có lớn hơn ở Mỹ.
EU là thị trường xuất khẩu may mặc theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam, chiếm 43% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu đặc biệt phát triển mạnh từ sau hiệp định buôn bán hàng dệt - may giữa Việt Nam với EU được ký kết năm 1992 và được thực hiện từ năm 1993, tốc độ tăng trưỏng trong thập kỷ 90 đạt khoảng 20%- 23%, với sản phẩm chủ yếu là áo jacket. Nhưng Việt Nam còn gặp khó khăn trong hoạt động xuất khẩu sang EU.
Thứ nhất: do không ký được hợp đồng trực tiếp với bạn hàng EU, nên gần 80% hàng may mặc xuất khẩu phải gia công qua nước thứ ba, do đó không được hưởng ưu đãi thuế quan của các nước EU.
Thứ hai: số hạn ngạch EU dành cho Việt Nam quá thấp so với các nước ASEAN và Trung Quốc - mặc dù đầu tháng 4/ 2000, EU đã tăng thêm 27% hạn ngạch cho Việt Nam.
Thứ ba: sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống như áo jacket, áo sơ mi, quần âu còn các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất ra rất ít.
Hạn ngạch mà EU dành cho Việt Nam có bao nhiêu chúng ta thực hiện hết kể cả sử dụng các điều khoản linh hoạt (chuyển đổi, giao trước của năm tiếp theo). Nếu không có hạn ngạch chúng ta còn có thể xuất khẩu vào thị trường này nhiều hơn nữa. Vấn đề hạn ngạch thuộc trách nhiệm của các nhà đàm phán còn những nhà sản xuất cần nắm những vấn đề khác, xem chúng ta đang đứng ở đâu, hiệu quả đạt đến mức nào, còn khắc phục những vấn đề gì để tăng khả năng cạnh tranh, nhất là khi không còn áp dụng chế độ hạn ngạch. Có thể tóm tắt thị trường EU như sau:
Bảng 2.2 các nước xuất khẩu chính hàng may mặc vào EU.
Nước xuất khẩu
Giá trị xuất khẩu (tỉ euro)
Nước xuất khẩu
Giá trị xuất khẩu (tỉ euro)
1.Trung Quốc
2. Thổ Nhĩ Kỳ
3. Hồng Kông
4. Tunisie
5. Maroc
5,336
4,386
2,605
2,283
2,035
6. Rumani
7. Ba Lan
8. Bangladesh
9. India
10. Indonesia
11.Việt Nam
1,845
1,843
1,609
1,581
1,313
0,592
(Nguồn: báo cáo hội thảo thị trường - tổng công ty dệt may Việt Nam)
Trong khi đó Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là hàng may sẵn và mới đạt hơn 680 triệu USDk chủ yếu lại là hàng gia công. Giá trị xuất khẩu này nếu so sánh với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của EU thì Việt Nam chỉ chiếm 1,58% (680/42.000 triệu USD) và nó chứng tỏ thị phần của Việt Nam tại EU còn quá nhỏ, lợi nhuận thu được không lớn vì toàn là hàng gia công.
2.2. Khái quát về công ty Dệt Kim Đông Xuân.
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển.
Công ty Dệt Kim Đông Xuân (nhà máy Dệt Kim Đông Xuân trước đây), được thành lập từ năm 1959 theo quyết định số 1083/QĐ cấp ngày 13 tháng 4 năm 1959 của Bộ Công Nghiệp nhẹ (Nay là Bộ Công Nghiệp). Đây là doanh nghiệp nhà nước đầu tiên của nghành dệt kim Việt Nam.
Năm 1980 nhà máy được mở rộng theo quyết định số 213/TTG ngày 1/7/1980 của Thủ Tướng Chính Phủ.
Ngày 31/12/1992 Bộ công nghiệp nhẹ (nay là bộ công nghiệp) có quyết định số 704/CNN - TCLĐ chuyển đổi tổ chức và hoạt động của nhà máy Dệt Kim Đông Xuân thành công ty Dệt Kim Đông Xuân với tên giao dịch là DOXIMEX.
Qua nhiều năm đầu tư, cải tiến và mở rộng sản xuất đến nay công ty đã có một dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh từ dệt, xử lý hoàn tất, cắt, may, in, thêu bằng các thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến của Nhật Bản, Italia, Đức bộ máy điều hành đội ngũ cán bộ chuyêngười môn nghiệp vụ có nhiều kinh nghiệm.
Hiện nay công ty Dệt Kim Đông Xuân gồm 3 cơ sở chính:
+ Cơ sở 1: 67 Ngô Thì Nhậm - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
+ Cơ sở 2: 250B Minh Khai - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
+ Cơ sở 3: 524 Minh Khai - Hai Bà Trưng - Hà Nội
2.2.2 Chức năng, nhiệm vụ của công ty.
2.2.2.1. Chức năng:
- Hoạt động sản xuất kinh doanh độc lập, tự hạch toán trên cơ sở lấy thu bù chi và có lãi, khai thác nguồn vật tư, nhân lực, tài nguyên của đất nước đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước và phát triển kinh tế.
- Sản xuất các loại vải dệt kim và quần áo dệt kim dùng cho người lớn và trẻ em với nhiều chất liệu khác nhau, trong đó chủ yếu từ sợi 100% cotton.
- Kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp.
+ Xuất khẩu: các sản phẩm như: T- Shirt, P - Shirt, quần áo thể thao, đồ lót người lớn và trẻ em.
+ Nhập khẩu : vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị dây chuyền phục vụ sản xuất của công ty.
2.2.2.2 Nhiệm vụ:
- Là đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, công ty Dệt Kim Đông Xuân góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành dệt may Việt Nam nói chung và phát triển hàng dệt kim nói riêng. Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, kiến nghị với Bộ Công Nghiệp giải quyết các vấn đề vướng mắc trong sản xuất kinh doanh.
- Tuân thủ Pháp luật Nhà Nước về quản lý hành chính, quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng liên quan đến sản xuất kinh doanh của công ty.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hiện có đồng thời chủ động huy động nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, tự bù đắp chi phí sản xuất, tự cân đối xuất nhập khẩu, đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi và hoàn thành nghĩa vụ nộp Ngân sách Nhà Nước. Nghiên cứu thực hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ.
- Quản lý và đào tạo đội ngũ công nhân công nghệ, cán bộ quản lý để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và theo kịp sự đổi mới của Đất nước.
2.2.3. Bộ máy tổ chức và quản lý kinh doanh của công ty
Xuất phát từ tình hình sản xuất kinh doanh, yêu cầu của thị trường công ty đã không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý. Đến nay bộ máy tổ chức quản lý của công ty được chia làm 2 cấp: Công ty, xí nghiệp. Hệ thống lãnh đạo của công ty gồm: Ban giám đốc và các phòng, ban nghiệp vụ giúp cho giám đốc trong việc tiến hành chỉ đạo quản lý.
* Ban giám đốc gồm:
+ Tổng giám đốc.
+ Phó tổng giám đốc thương mại.
+ Phó tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật sản xuất.
* Hệ thống phòng ban gồm:
+ Phòng nghiệp vụ.
+ Phòng kỹ thuật.
+ Phòng tài chính kế toán.
+ Phòng quản lý chất lượng.
+Văn phòng công ty
* Các xí nghiệp thành viên: gồm 6 xí nghiêp là xí nghiệp dệt, xí nghiêp xử lý hoàn tất, xí nghiệp cơ khí sửa chữa, xí nghiệp may 1, xí nghiệp may 2, xí nghiệp may 3.
Mô hình tổ chức quản lí của công ty được tổ chức theo nguyên tắc lãnh đạo - Chỉ đạo trực tuyến. Đứng đầu là Tổng giám đốc công ty sau là các phòng ban nghiệp vụ và sau cùng là các đơn vị thành viên trực thuôc.
Sau đây là mô hình cơ cấu tổ chức của công ty Dệt Kim Đông Xuân.
Tổng giám đốc
Phó Giám Đốc T.Mại
Phó giám Đốc Kỹ Thuật SX
Phòng kỹ thuận
Văn phòng công ty
Phòng nghiệp vụ
Phòng QLCL
Phòng TC-KT
Các xí nghiệp thành viên
Hình 2.1 : Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty Dệt Kim Đông Xuân
Chú thích:
: Mối quan hệ quản lý chỉ đạo.
: Mối quan hệ phối hợp công tác và hỗ trợ nghiệp vụ
: Mối quan hệ hỗ trợ công tác và chỉ đạo nghiệp vụ.
2.3 tình hình kinh doanh xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân.
2.3.1 Tình hình kinh doanh của công ty trong một số năm qua.
Những năm gần đõy, mặc dự gặp khụng ớt khú khăn, thỏch thức nhưng với nỗ lực đầu tư đổi mới thiết bị cụng nghệ cú chọn lọc, đổi mới trong sản xuất và quản lớ cả chiều rộng lẫn chiều sõu, đa dạng húa thị trường và sản phẩm, ỏp dụng hệ thống quản lớ chất lượng Iso 9002 trong mọi khõu của sản xuất nhằm đảm bảo cam kết về chất lượng sản phẩm, đủ sức thoả món được cả những đơn đặt hàng khắt khe về chất lượng sản phẩm, với nỗ lực khụng mệt mỏi của toàn cỏn bộ cụng nhõn viờn. Những năm qua, Cụng ty DKĐX đó gặt hỏi được những kết qủa rất khả quan. Dưới đõy là bảng kết quả hoạt động kinh doanh của cụng ty một số năm gần đõy:
Biểu 2.1: Kết quả sản xuất kinh doanh từ 1999-2002.
Nhỡn vào bảng kết quả kinh doanh của cụng ty trong vũng 4 năm gần đõy (1999-2002) ta thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của cụng ty diễn ra theo chiều hướng tớch cực, cụng ty làm ăn cú hiệu quả, luụn cú lói (tổng doanh thu luụn lớn hơn tổng chi phớ). Tổng doanh thu qua cỏc năm nhỡn chung cú xu hướng gia tăng. Lợi nhuận của cụng ty từ năm 1999 là 929 triệu đồng sang năm 2000 đó tăng 13,02% lờn 1.050 triệu đồng, sang năm 2001 lợi nhuận tiếp tục tăng do doanh thu tăng từ 78.546 triệu đ lờn 84.136 hay tăng 7,11%. Sự gia tăng này lại lớn hơn sự gia tăng của tổng chi phớ (7,09% về số tương đối). Nhưng sang năm 2002, Sự sụt giảm của doanh thu từ 84136 xuống 83319 triệu đồng (chủ yếu là do giảm doanh thu xuất khẩu ở thị trường chủ lực truyền thống là Nhật Bản với số lượng hợp đồng chỉ bằng 50% những năm trước đú. Trong những hợp đồng mà cụng ty kớ được thỡ những sản phẩm truyền thống bị giảm sản lượng và thay thế vào đú là những sản phẩm mới, yờu cầu chất liệu mới, cụng nghệ cao, chi phớ nhõn cụng và nguyờn liệu tăng nhiều so với cỏc sản phẩm trước đõy, nhưng số lượng cũng hạn chế.), đó làm cho lợi nhuận giảm sỳt.Ngoài nguyờn nhõn nền kinh tế Nhật suy thoỏi kộo dài, làm sức mua người dõn Nhật giảm, rồi đồng Yờn mất giỏ thỡ cạnh tranh gay gắt cũng là một nhõn tố làm doanh thu xuất khẩu giảm. Cụng ty phải cạnh tranh gắt về giỏ đối với sản phẩm của Trung quốc-một quốc gia cú nhiều ưu thế về hàng dệt may, rồi nhiều nhõn tố làm cho giỏ thành sản phẩm tăng lờn như giỏ nguyờn vật phụ liệu nhập khẩu tăng, giỏ nhõn cụng, giỏ điện, nước…Điều này làm giảm sức cạnh tranh về giỏ của hàng húa. Cỏc hợp đồng xuất khẩu mà cụng ty kớ với cỏc doanh nghiệp Mĩ một phần là gia cụng, nờn hiệu quả thấp (lợi nhuận chưa cao)… Mặc dự cụng ty đó tiến hành cỏc biện phỏp giảm chi phớ như: hợp lớ hoỏ cơ cấu tổ chức sản xuất tăng năng suất sản xuất, ỏp dụng cỏc biện phỏp giảm chi phớ nguyờn phụ liệu đầu vào, tổng chi phớ cú giảm so với năm 2001, nỗ lực tăng doanh thu từ thị trường nội địa …Lợi nhuận năm 2002 vẫn giảm từ 1140 triệu đồng năm 2001 xuống cũn 1082 triệu đ (giảm gần 5,1%).
2.3.2 Tình hình xuất khẩu.
2.3.2.1 Hoạt động xuất khẩu
Trong các lĩnh vực kinh doanh hoạt động xuất khẩu được công ty Dệt Kim Đông Xuân rất chú trọng và trung bình mỗi năm kim ngạch xuất khẩu của công ty đạt 3,5 triệu USD. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty là quần áo dệt kim, vải dệt kim. Trong số những mặt hàng trên, đồ lót, quần áo sơ sinh, quần áo bệnh viện là ba mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty.
Trong một số năm gần đây, hình thức xuất khẩu của yếu của công ty là xuất khẩu trực tiếp theo giá FOB tức là mọi trách nhiệm về vận chuyển, bảo hiểm và rủi ro của hàng hoá thuộc về người mua kể từ khi hàng hoá được giao dọc theo mạn tàu. Trong các năm 2001 và 2000 toàn bộ hàng hoá đều được xuất khẩu dưới hình thức này. Riêng chỉ có năm 2002 công ty có tiến hành xuất khẩu một phần nhỏ hàng hoá theo hình thức xuất khẩu uỷ thác theo yêu cầu của khách hàng Ailen. Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Các hình thức xuất khẩu của công ty
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tổng knxk
3460
3485
3030
Xuất khẩu trực tiếp
3460
3485
3014
Xuất khẩu uỷ thác
16
(Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của công ty)
Hình thức xuất khẩu trực tiếp giúp công ty giảm bớt chi phí và tăng lợi nhuận, đồng thời tạo cơ hội cho công ty có mối liên hệ trực tiếp với khách hàng, với thị trường, hiểu biết rõ hơn về nhu cầu thị trường để từ đó đáp ứng những nhu cầu này tốt hơn. Ngoài ra xuất khẩu trực tiếp theo giá FOB nhằm tránh để công ty phải mua bảo hiểm và chịu trách nhiệm cho tới khi hàng hoá đến tận tay người nhập khẩu.
Như chúng ta đã biết, khi cuộc sống của con người ngày càng phát triển thì mọi nhu cầu nói chung để trở thành một mặt hàng rất nhạy bén với thời gian, với mỗi quốc gia và chính ở mỗi con người. Để nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt kim đòi hỏi công ty cần linh động, hiều biết tốt về lĩnh vực mình kinh doanh như: tập quán, lối sống, quan niệm về thời trang, khí hậu... của các quốc gia mà công ty tiến hành xuất khẩu vào. Mỗi quốc gia có một đặc điểm khác nhau về những yếu tố trên nên để nắm bắt được tất cả là một điều vô cùng khó khăn, cần có nhiều thời gian và chi phí... do đó công ty đã tập trung vào một số yếu tố quan trọng như: mẫu mã, màu sắc, thời tiết khí hâu,thu nhập, mức sống.
* Màu sắc, mẫu mã.
Đặc biệt đối với sản phẩm may mặc, giữa các nước hoặc các đoạn thị trường của mỗi nước có sự khác nhau quan trọng về sở thích màu sắc. Màu sắc là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị thẩm mỹ của sản phẩm may mặc. Nó còn phụ thuộc vào từng loại, từng kiểu mốt quần áo nhất định. Hơn nữa, sự ưa chuộng về màu sắc trong trang phục cũng thay đổi rất nhanh, có thể từng mùa, từng năm hoặc nhanh hơn thế. Vấn đề là muốn xuất khẩu sản phẩm may mặc phải nắm bắt được những sở thích, thị hiếu cũng như xu hướng thay đổi về sở thích thị hiếu màu sắc của mỗi thị trường, mỗi nước để làm ra các sản phẩm thích nghi với từng thị trường xuất khẩu.
Ví dụ: đối với thị trường Nhật Bản, khách hàng ưa chuộng màu trắng tinh khiết cho sản phẩm đồ lót của họ thì khách hàng Mỹ lại ưa những màu sặc sỡ, nhiều họa tiết trên sản phẩm. Ngược lại, khách hàng ở thị trường EU lại mong muốn sự tao nhã, nhẹ nhàng trong màu sắc sản phẩm. Từ sự khác biệt này công ty đã tìm hiểu để có kế hoạch sản xuất phù hợp với các đơn đặt hàng.
* Thời tiết khí hậu:
Quần áo là yếu tố quan trọng góp phần tạo ra cảm giác thoải mái trong công việc cũng như đảm bảo sự sang trọng lịch sự cho người tiêu dùng chúng, và đối với công ty Dệt Kim Đông Xuân do sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là đồ lót nên điều này càng được chú ý hơn. Mà quần áo dù mặc trong hay ngoài cũng phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, khí hậu. Khí hậu ở mỗi vùng một khác, nên việc chọn chất liệu vải cho sản phẩm xuất khẩu cũng được công ty rất chú ý, ví dụ khách hàng EU với yêu cầu chất lượng cao về vệ sinh, công ty đã có những loại quần áo lót có tính sát trùng. Đối với khách hàng Mỹ thì sản phẩm đồ lót của công ty lại có tính chống khô da, tính thấm mồ hôi cao...đây cùng là một trong các yếu tố làm tăng tính cạnh tranh cho mặt hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu của công ty .
* Thu nhập, mức sống:
Hàng may mặc vừa là hàng hoá có nhu cầu thiết yếu nhưng đồng thời lại có nhu cầu cao cấp, vì vậy khi nghiên cứu thị trường nước ngoài công ty đã chú ý đến thu nhập của người tiêu dùng để sản xuất ra các sản phẩm có chi phí hợp lý, thoả mãn nhu cầu của từng thị trường. Ví dụ ở những nước có thu nhập thấp như các nước một số nước Châu á thì công ty chủ yếu quan tâm đến giá cả và độ bền của sản phẩm tức là chất liệu vải và giá cả là mối quan tâm hàng đầu.
ở những nước có thu nhập cao thì người tiêu dùng đặc biệt chú ý đến mẫu mốt, kiểu dáng, bởi vòng đời sản phẩm đối với họ là rất ngắn. Chẳng hạn như thị trường EU là thị trường dân cư có thu nhập cao, chi tiêu cho may mặc nhiều nên yêu cầu cao về kiểu mốt, mẫu mã chất lượng. Với thị trường này yêu cầu về chức năng bảo vệ của quần áo chỉ chiếm khoảng 10 - 15% còn yêu cầu về thẩm mỹ, mốt, mẫu thời trang chiếm tới 85 - 90% giá trị sử dụng. Hay như thị trường may mặc Nhật Bản là thị trường được cung cấp rất tốt, người tiêu thụ chỉ mua cái gì thích hợp với mình. Người tiêu thụ Nhật Bản quan tâm đến chất lượng là trên hết và kiểm tra kỹ lưỡng trước khi mua. Do vậy muốn xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường Nhật Bản công ty đã phải cố gắng để đáp ứng sự mong muốn của khách hàng và sản xuất ra sản phẩm với chất lượng cao.
Với sự chú ý đúng mức các yếu tố trên công ty đã đạt được một số kết quả trong hoạt động xuất khẩu như sau:
Bảng 2.2: Kết quả xuất khẩu theo cỏc sản phẩm chớnh qua một số năm
Năm
2000
2001
2002
Sản phẩm chính
Số lượng
Giá trị
Số lượng
Giá trị
Số lượng
Giá trị
(Cái + m)
(1000$)
(Cái + m)
(1000$)
(Cái + m)
(1000$)
1. Quần áo lót và áo phông
4020000
3442
4040000
3363
2858000
2189
2. Quần gen
38500
11
155000
64
165000
104
3.Quần áo bệnh viện và trẻ sơ sinh
5300
41
244.000
248
4.Quần áo trẻ em
330.000
350
5. Sản phẩm khác
6. Tổng
4096924
3459,4
4248902
3484,7
3735431
3006,9
(Nguồn: Phũng nghiệp vụ cụng ty.)
Qua bảng trờn ta thấy: Mặc dự kim ngạch giảm đều qua cỏc năm nhưng sản phẩm quần ỏo lút và ỏo phụng là những sản phẩm đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất : Năm 2000, doanh thu từ sản phẩm này chiếm tới 99% kim ngạch xuất khẩu, sang 2001 mặc dự số lượng sản phẩm xuất khẩu cú tăng nhưng kim ngạch xuất vẫn giảm bởi giỏ xuất khẩu giảm, tỉ trọng kim ngạch xuất của 2 mặt hàng này cú giảm xuống nhưng vẫn cũn rất cao tới 96,5%, năm 2002 tiếp tục giảm xuống cũn72,79% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Nguyờn nhõn chớnh của tỡnh trạng trờn là do thị trường Nhật là thị trường lớn nhất nhập khẩu 2 mặt hàng này, thời gian qua do thị trường Nhật suy giảm nờn đó ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất của 2 mặt hàng này.
Mặt hàng quần gen, đang cho thấy khả năng phỏt triển lớn với số lượng sản phẩm xuất năm 2001 bằng 4 lần năm 2000, kộo theo kim ngạch xuất tăng gấp 6 lần, đạt 64000 USD. Sự gia tăng này cho thấy mặt hàng quần gen khỏ được giỏ. Năm 2002, mặt hàng quần gen tiếp tục cho kim ngạch xuất khẩu tăng 60%..
Mặt hàng quần ỏo bệnh viện và trẻ sơ sinh cũng cho mức tăng lớn về cả số lượng lẫn kim ngạch.
Cuối cựng là mặt hàng quần ỏo trẻ em, mặc dự mới xõm nhập thị trường quốc tế (từ năm 2002), nhưng mặt hàng này đó chứng tỏ khả năng phỏt triển mạnh của mỡnh với kim ngạch xuất 330.000 USD, chiếm 11% tổng kim ngạch xuất năm 2002.
2.3.2.2 thị trường xuất khẩu hàng dệt kim của công ty Dệt Kim Đông Xuân
Đối với công ty Dệt Kim Đông Xuân việc củng cố và giữ vững các thị trường xuất khẩu truyền thống đồng thời tìm kiếm thêm các thị trường mới là vấn đề sống còn. Đặc biệt là trong tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng may mặc ở Việt Nam như hiện nay.
Công ty đã sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau, bằng các hình thức và biện pháp khác nhau trên khắp các Châu Lục. Riêng thị trường xuất khẩu hàng may mặc hiện đã có tới 10 thị trường và trong tương lai con số đó chắc chắn sẽ còn tăng thêm. Xem số liệu trong bảng sau:
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty theo thị trường
ĐVT: USD
Thị trường
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Nhật Bản
4.043.839
3.715.572
3.358.893
3.162.436
2.234.249
EU
66.314
100.502
288.225
216.665
Đức
39.876
35.545
Đan Mạch
22.346
163.950
CH Ailen
32.392
19.275
16.321
Anh
7.581
10.219
105.000
108.000
áo
18.857
Pháp
35.016
92.344
Mỹ
555.994
Hungari
11.346
Tổng cộng
4.1110.153
3.715.572
3.459.395
3.484.677
3.018.254
(Nguồn: Phòng Nghiệp vụ - Cty Dệt Kim Đông Xuân)
Qua những số liệu trên ta có thể thấy thị trường ổn định nhất của công ty là thị trường Nhật Bản. Nhật là một bạn hàng lớn của Việt Nam trong các hợp đồng xuất nhập khẩu tơ sợi, hàng dệt may. Tuy nhiên họ chủ yếu là nhập khẩu tơ sợi về để sản xuất và xuất khẩu đi các nước khác chứ sản lượng nhập khẩu hàng may mặc không nhiều. Thị trường Nhật Bản là thị trường khó tính luôn đòi hỏi cao về chất lượng, các dịch vụ sản phẩm, thời hạn giao hàng và giá cả phải chăng. Đây cũng là một thị trường quen thuộc đối với các cán bộ kinh doanh của công ty do họ đã có nhiều năm hoạt động trên thị trường này và đã xây dựng được những mối quan hệ bạn hàng bền vững, chặt chẽ. Do vậy đây là một thị trường cần được ưu tiên của công ty Dệt Kim Đông Xuân.
Thị trường các nước EU như Anh, Pháp, Đức...tuy là những thị trường tiêu thụ mới mẻ đối với công ty song đã thể hiện rõ tiềm năng rất lớn mạnh. Đây là một thị trường đông dân (350 triệu người) lại có sức tiêu dùng vải cao (17 kg/ 1 người). Yêu cầu về hàng may mặc đặc biệt cao. Nhu cầu tiêu dùng để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10- 15% giá trị sản phẩm, còn 80- 90% là theo mốt, nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm may là chính. Bởi vậy để thâm nhập s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số biện pháp nhằm năng cao suất khẩu dệt may ở công ty Kim Đông Xuân.DOC