Luận văn Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ của công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Phần I: Công tác tiêu thụ sản phẩm là một khâu then chốt

trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 3

I. Thực chất công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp 3

1. Quan niệm về tiêu thụ sản phẩm 3

2. Các trường hợp được xác định là tiêu thụ sản phẩm 4

II. Nội dung công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp 5

1.Chuẩn bị tiêu thụ sản phẩm 5

1.1.Tiến hành nghiên cứu và dự báo thị trường 5

1.2. Xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm 8

2.Tổ chứccác hoạt động tiêu thụ sản phẩm 15

2.1.Xây dựng hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm 15

2.2. Trang bị nơi bán hàng 16

2.3. Tổ chức bán hàng 17

3.Tổ chức các hoạt động sau bán hàng 17

3.1. Dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng 17

3.2. Đánh giá kỳ tiêu thụ sản phẩm 18

III. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm 18

1.Quan niệm và phương pháp đánh giá tốc độ tiêu thụ 18

1.1 Quan niệm về tốc độ tiêu thụ 18

1.2 Các chỉ tiêu đánh giá tốc độ tiêu thụ 19

2.Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tốc độ tiêu thụ

2.1.Các nhân tố khách quan 21

 

2.2.Các nhân tố chủ quan 23

3. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm 25

 

Phần 2: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của

công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội 27

I.Quá trình hình thành và phát triển của công ty 27

1.Quá trình hình thành 27

2.Quá trình phát triển 28

II.Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của công ty

có ảnh hưởng tới tốc độ tiêu thụ sản phẩm 31

1.Đặc điểm về cơ cấu sản xuất 32

2.Đặc điểm về sản phẩm và thị trường tiêu thụ 33

3.Đặc điểm về nguyên vật liệu 34

4.Đặc điểm về quy trình công nghệ và máy móc thiết bị 35

5.Đặc điểm về đội ngũ lao động của công ty 37

III.Thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của

công ty Dệt vi công nghiệp Hà Nội trong những năm gần đây 38

1.Phân tích tình hình tiêu thụ 38

1.1.Tình hình tiêu thụ theo khối lượng sản phẩm 38

1.2.Tình hình tiêu thụ theo cơ cấu sản phẩm 40

1.3Tình hình tiêu thụ theo khách hàng 41

1.4.Tình hình tiêu thụ theo theo mùa vụ 44

2.Phân tích các yếu tố chủ yếu tác động đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm 46

2.1.Các nhân tố khách quan 46

2.1.Các nhân tố chủ quan 49

3.Đánh giá tổng quát tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty 53

3.1.Những kết quả đạt được 53

3.2.Những tồn tại cần khắc phục 56

3.3.Nguyên nhân của những tồn tại trên 57

 

Phần 3: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản

phẩm của công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội 59

1.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường 59

2.Đẩy mạnh đa dạng hoá sản phẩm 64

3.Hoàn thiện chính sách giá 67

4.Tăng cường các biện pháp xúc tiến bán hàng 70

5.Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm 75

6.Những kiến nghị đối với Nhà nước 76

Kết luận 77

Danh mục tài liệu tham khảo 78

 

 

 

 

doc80 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ của công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng và giá thành sản phẩm thể hiện ở chỗ chất lượng sản phẩm thấp hoặc không ổn định, tỷ lệ phế phẩm cao, mức tiêu hao nguyên vật liệu cao sẽ làm cho giá thành đơn vị sản phẩm cao làm cho sản phẩm khó cạnh tranh được với các cùng loại trên thị trường do đó có tác động không nhỏ đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Tình hình máy móc thiết bị của công ty được cho ở biểu 2. Hầu hết sợi và dệt vải của công ty là các máy móc thanh lý của nhà máy dệt 8/3, dệt Nam Định hoặc các máy móc được trang bị từ rất lâu của Trung Quốc. Công ty đang từng bước đầu tư máy móc thiết bị mới đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sản xuất như đầu tư 6 máy dệt của Trung Quốc (2000), sắp tới sẽ đầu tư một dây chuyền sản xuất vải địa công nghiệp, là một sản phẩm mới mà chưa có doanh nghiệp nào trong nước sản xuất. Về thiết bị may của công ty hầu hết là còn mới, thiết bị chủ yếu là nhập từ Nhật Bản từ năm 1990, tuy nhiên sản phẩm may mặc lại không phải là thế mạnh của công ty. Ngoài ra, công ty còn có một dây chuyền sản xuất vải mành nhúng keo được lắp đặt và và hành từ năm 1999, kết quả của việc hai đối tác Pháp và Trung Quốc rút khỏi liên doanh với công. 5.Đặc điểm về đội ngũ lao động của công ty. Qua nhiều lần sắp xếp lại cơ cấu, từ chỗ công ty có 1097 lao động trong cơ chế cũ, đến nay mặc dù quy mô sản xuất tăng lên nhưng tổng số lao động chỉ có 922 người (năm 2001). Đặc điểm về lao động của công ty là số lao đọng nữ chiếm tỷ trọng cao khoảng 75% do lĩnh vực sản xuất của công ty thuộc ngành Biểu 2: Hệ thống máy móc thiết bị của Công ty Tên thiết bị Xuất xứ Năm SX Năm lắp đặt Số hiện có Chờ thanh lý Thời gian sử dụng (năm) I.Thiết bị sợi 1.Máy đậu 1381B TQ 1969 1969 04 0 32 2.Máy ống 1332M TQ 1968 1969 03 0 32 3.Máy xe R811 TQ 1974 1975 20 0 26 4.Máy xe R812 TQ 1974 1975 04 0 25 5.Máy xe 1392 TQ 1968 1969 10 0 32 6.Máy xe 1393 TQ 1968 1968 05 0 33 7.Máy xe A631 TQ 1966 1967 11 0 34 8.Máy xe R841 TQ 1991 1993 4 0 8 II. Thiết bị dệt 1.Máy dệt mành G641 TQ 1967 1968 02 0 33 2.Máy dệt mành G642 TQ 1992 1993 06 0 8 3.Máy dệt 1511 TQ 1957 1958 60 20 43 4.Máy dệt 1511M TQ 1961 1961 96 0 40 5.Máy dệt GRATER Mỹ 1970 1771 04 0 32 6.Máy là 1425 TQ 1974 1974 01 0 29 7.Máy dệt vải mành VN 1983 1983 01 0 18 8.Máy kiểm vải TQ 1970 1971 02 0 30 9.Máy đóng kiện TQ 1968 1969 01 0 32 III. Thiết bị may 1.Máy kim bằng Nhật 1989 1990 60 0 11 2.Máy vắt sổ Nhật 1989 1990 16 0 11 3.Máy 2 kim cố định Nhật 1989 1990 6 0 11 4.Máy 2 kim cơ động Nhật 1989 1990 1 0 11 5.Máy cuốn ống Nhật 1989 1990 2 0 11 6.Máy viền cổ Nhật 1989 1990 2 0 11 7.Máy đính bo Nhật 1989 1990 1 0 11 8.Máy đíng cúc Nhật 1989 1990 2 0 11 9.Máy thùa khuyết Nhật 1989 1990 2 0 11 10.Máy là hơi Nhật 1989 1990 1 0 11 11.Máy là tay LX 1989 1990 6 0 11 ( Nguồn: phòng KT-ĐT) Chú thích: +TQ: Trung Quốc +VN: Việt Nam +LX: Liên Xô công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động nữ nhằm khai thác sự khéo lẻo của các thao tác làm việc trong lĩnh vực dệt may. Bên cạnh đó số lao động nữ chiếm tỷ trọng cao đòi hỏi công ty phải có những chế độ riêng có đối với người phụ nữ như thời gian nghỉ do sinh con, các chế độ chăm sóc sức khỏe, an toàn lao động,... điều này sẽ làm ảnh hưởng đến công tác điều độ sản xuất, bố trí lao động nhất là trong những vụ sản xuất chính. Do đó công ty đã phải có nhiều cố gắng trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất, đảm bảo đúng tiến độ có hàng để cung ứng cho thị trường. Sợi đơn Sợi đơn Máy đậu Máy xe lần I Máy xe lần II Sợi dọc Máy suốt Sợi ngang Máy dệt Xưởng nhúng keo Kiểm vải Đóng kiện Nhập kho Mành PA Mành Pêcô Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ sản xuất vải mành Sợi đơn Sợi đơn Máy đậu Máy xe Máy ống Máy mắc Máy dồn Máy go Sợi dọc Máy đậu Máy xe suốt Sợi ngang Máy dệt Kiểm vải Máy gấp Đóng kiện Nhập kho Nhập kho Sơ đồ 3: Quy trình công nghệ sản xuất vải bạt Về chất lượng lao động khá cao, số công nhân lành nghề chiếm trên 83% tổng số công nhân, số bậc thợ trung bình là 4 cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành. Về lao động quả lýcó tới hơn 51% có trình độ đại học và 37% trung cấp. Đây chính là một lợi thế cho sự phát triển sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tiêu thụ nói riêng của công ty. Hàng năm công ty vẫn cho cán bộ quản lý đi học hàm thụ để nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. III. Thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội qua những năm gần đây 1.Phân tích tình hình tiêu thụ. 1.1.Tình hình tiêu thụ theo chủng loại sản phẩm. Như đã nêu ở phần trước, danh mục chủng loại sản phẩm của công ty là các sản phẩm vải bạt, vải phin các loại,vải mành làm lốp xe và sản phẩm may. Tình hình tiêu thụ theo chủng loại sản phẩm được cho ở biểu 3. Qua số liệu ở biểu này ta có thể phân tích như sau: -Với sản phẩm vải bạt các loại, khách hàng chủ yếu là các công ty giầy vải như Thượng Đình, Thụy Khuê ...,sản lượng tiêu thụ có nhiều biến động bất thường. mức tiêu thụ năm 1998 đạt 1.407 nghìn m, đến năm 1999 mặc dù có sự tác động của cuộc khủng tài chính khu vực và thế giới sản lượng tiêu thụ vẫn tăng lên đạt mức cao nhất trong các năm qua 1.584 nghìn m. Nguyên nhân là do các khách hàng truyền thống của công ty như công ty giầy Thượng Đình, Thăng Long đều làm ăn đạt kết quả tốt như công ty giầy Thượng Đình sản xuất hết công suất mà không đủ tiêu thụ. Tuy nhiên qua các năm 2000, 2001 sản lượng tiêu thụ đều thấp hơn so với năm 1999, cụ thể năm 2000 chỉ tiêu thụ được 1.057 nghìn m (bằng 68,3% năm 1999), năm 2001 có tăng so với năm 2000 (1.117 nghìn m) song vẫn thấp hơn so với năm 1999. Nguyên nhân của sự giảm sút này một phần là do trên thị trường có thêm một số doanh nghiệp cũng tham gia sản xuất vải bạt làm giầy xuất khẩu một phần là vẫn còn tồn tại những vấn đề về chất lượng sản phẩm như còn xảy ra những lô hàng bị khiếu kiện về chất lượng sản phẩm. -Với sản phẩm vải phin các loại, sản lượng tiêu thụ liên tục giảm từ 1.210 nghìn kg (1998) xuống còn 317 nghìn kg (2001), trong 4 năm liền không có năm nào hoành thành kế hoạch tiêu thụ. Mặc dù công ty đã cắt giảm kế hoạch tiêu thụ qua mỗi năm, nhưng có năm sản lượng tiêu thụ chỉ đạt 64% kế hoạch (1999). Nguyên nhân của tình hình này là do sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 1999, vì sản phẩm là nguyên liệu cho các doanh nghiệp khác, nên sự khó khăn của khách hàng sẽ làm giảm sản lượng tiêu thụ . Mặt khác sản phẩm vải phin đang ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống sản phẩm, trên thị trường có nhiều sản phẩm thay thế với tính năng chất lượng tốt hơn giá rẻ hơn. -Với sản phẩm sợi xe các loại đã có mức gia tăng sản lượng tiêu thụ liên tục từ năm 1998 đến năm 2000, cụ thể sản lượng tiêu thụ năm 1998 là 70.000 kg tới năm 2000 là 110.00, tuy nhiên đến năm 2001 con số này lại giảm xuống còn 90.700 kg, chỉ đạt 82% so với năm 2000 sản phẩm sợi xe là sản phẩm truyền thống có uy tín của công ty trên thị trường với các khách hàng như công ty xi măng Hoàng Thạch, phân đạm Hà Bắc..,nhưng nhu cầu về sản phẩm này lại không lớn cộng với sự cạnh tranh của các công ty như công ty TNHH Hương Sen, Bình Minh. -Với sản phẩm vải mành trong đó chủ yếu là vải mành PA nhúng keo là sản phẩm thay thế cho vải mành sợi bông và vải mành sợi Pêcô, chính thức được sản xuất từ cuối năm 1999. Sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền công nghệ công ty mới tiếp nhận sau khi liên doanh 3 bên giữa công ty với Pháp và Trung quốc giải thể, đây là sản phẩm mới nhưng đã khẳng định được chỗ đứng trong danh mục sản phẩm của công ty. Sản lượng tiêu thụ tăng liên tục từ 21.400kg (1999), 127.900kg (2000) và 467.000kg (2001). Về tỷ lệ năm 2000 đạt 597,6% so với năm 1999, con số này tương ứng của năm 2001 so với năm 2000 là 372,2%. -Với sản phẩm may sản lượng tiêu thụ tăng qua 3 năm từ 1998 đến 2000 song lại giảm xuống vào năm 2001, đây không phải là sản phẩm chủ yếu của công ty vì xí nghiệp may được thành lập với mục đích giải quyết số lao động dư thừa do kết quả của việc tinh giảm biên chế. Sản phẩm may chưa tạo được khả năng cạnh tranh trên thị trường như các công ty may Đức Giang, Thăng Long, May 10, 19/5...công ty sản xuất chủ yếu theo các đơn đặt hàng uỷ thác xuất khẩu vào các thị trường có hạn ngạch nên nhiệm vụ sản xuất không ổn định, giá trị đóng góp vào thu nhập của công ty không cao. Từ kết quả phân tích trên cho thấy cơ cấu sản phẩm tiêu thụ của công ty đã có sự thay đổi đáng kể trong các năm qua, sản lượng vải các loại tiêu thụ giảm đáng kể trong khi sản lượng vải mành PA tăng lên. Sự thay đổi này và tác động của nó tới kết quả tiêu thụ nói chung được phân tích ở phần tiếp theo 1.2. Tình hình tiêu thụ theo cơ cấu giá trị sản phẩm Doanh thu tiêu thụ của các chủng loại sản phẩm của công ty được cho ở biểu 4. Từ biểu dưới cho thấy doanh thu tiêu thụ các sản phẩm vải sợi của công ty giảm đáng kể qua các năm từ 28.660 triệu (1998) xuống còn 19.096 triệu năm 2001, từ chỗ doanh thu vải sợi chiếm tỷ trọng 89,23% tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm (1999) đã giảm xuống còn 36,08% năm 2001. Mặc dù vậy, ta thấy tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm vẫn tăng lên qua 3 năm từ 31.287 triệu năm 1999 đến 52.896 triệu năm 2001, có được kết quả này là do sự đóng góp của doanh thu tiêu thụ vải mành mà chủ yếu là vải mành PA, loại sản phẩm được đưa vào sản xuất từ năm 1999 tỷ trọng tăng lên rất nhanh trong tổng doanh thu tiêu thụ thể hiện qua số liệu: doanh thu vải mành PA năm 1999 là 1020 triệu chiếm 3,26% tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, con số này tương ứng năm 2000 là 6.951 triệu, chiếm 18,69% và năm 2001 là 27.816 triệu chiếm 52,59%. Kết quả này cho thấy doanh thu tiêu thụ vải mành PA từ chỗ chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm từ năm đầu đưa vào sản xuất qua các năm đã có tỷ trọng đóng góp lớn nhất trong tổng doanh thu so với các sản phẩm khác. Và do đó sản phẩm vải mành PA đã trở thành sản phẩm chủ lực của công ty Biểu 4: Cơ cấu doanh thu tiêu thụ các sản phẩm 1999-2001 Đơn vị tính: 1 triệu đồng Doanh thu 1998 1999 2000 2001 Doanh thu Tỷ trọng (%) Doanh thu Tỉ trọng (%) Doanh thu Tỉ trọng (%) Doanh thu Tỉ trọng (%) Tổng số 32.120 100 31.287 100 37.179 100 52.896 100 1.Doanh thu sợi dệt 28.660 89,23 27.268 88,44 22.559 60,67 19.086 36,08 2.Doanh thu vải mành 760 2,37 606 1,94 6.951 18,69 27.816 52,59 3.Doanh thu may 2.700 8,4 2.999 9,58 7.669 20,64 5.994 11,33 (Nguồn: Các báo cáo sản xuất kinh doanh 1998-2001) 1.3. Tình hình tiêu thụ theo khách hàng Khách hàng là nhân tố quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, có được khách hàng thì doanh nghiệp mới tiêu thụ sản phẩm. Đối với công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội, là một công ty đã có mặt từ lâu trên thương trường, công ty đã tạo lập được nhiều khách hàng truyền thống như công ty Cao su Sao vàng, công ty giầy Thượng Đình, công ty giầy Thăng Long...Tình hình tiêu thụ theo khách hàng của công ty được phân tích theo hai chủng loại sản phẩm chủ yếu là vải các loại và vải mành qua biểu 5 và biểu 6. Từ số liệu biểu 5 cho thấy công ty giầy Thăng Long là khách hàng lớn nhất của công ty đối với mặt hàng vải đã giảm dần mức tiêu thụ từ 813.179 m (1998) xuống còn 201.350 m (2001) tức là còn khoảng 1/4 lượng tiêu thụ năm 1998. Cũng như công ty giầy Thăng Long, các công ty giầy vải Thượng Đình, Hiệp Hưng,Cần Thơ...số lượng tiêu thụ đều giảm từ năm 1998 đến 2001 cụ thể công ty giầy Thượng Đình tiêu thụ 245.440m (1998) thì đến năm 2001 chỉ còn 54.150m. Con số này tương ứng đối với công ty giầy Hiệp Hưng là 400.350m và 70.086m. Chính sự giảm sút này đã làm sản lương tiêu thụ vải của công ty giảm từ 2.617.000m (1998) xuống còn 1.771.000m (2001). Điều này cho thấy công ty đang mất dần một số khách hàng truyền thống. Trong khi đó với công ty giày Thuỵ Khuê tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty lại có chiều hướng tốt mức tiêu thụ tăng liên tục qua các năm từ 40.877m (1998) đến 157.427 (2000) và 169.376m (2001), từ chỗ chỉ chiếm 1,56% tổng sản lượng tiêu thụ (1998) thì đến năm 2001 con số này là 11,81%. Cùng với công ty giầy Thuỵ Khuê công ty đã có thêm nhiều khách hàng mới có triển vọng tiêu thụ tốt như công ty da giầy Sài Gòn- chi nhánh tại Hà Nội và công ty da giầy Hà Nội với mức tiêu thụ tăng nhanh qua các năm. Ví dụ công ty da giầy Hà Nội đã tăng mức tiêu thụ từ 4.597 m (2000) lên 30.055 m (2001) với mức tăng 553% so với năm 2000. đây sẽ là những khách hàng quan trọng của công ty trong thời gian tới đối với sản phẩm vải các loại, loại sản phẩm đang bị giảm nhịp độ tiêu thụ. Biểu 5: Tình hình tiêu thụ sản phẩm vải theo khách hàng của công ty Đơn vị tính: m Khách hàng 1998 1999 2000 2001 Số lượng Số lượng So 98 (%) Số lượng So 99 (%) Số lượng So 00 (%) 1.Công ty giầy Thăng Long 813.179 500.200 62,11 311.474 62,3 201.350 64,6 2.Công ty giầy Thương Đình 245.440 364.000 148,3 233.723 64,2 54.150 23,2 3.Công ty giầy Hiệp Hưng 400.350 220.800 55,3 219.961 99,6 70.086 31,9 4.Công ty giầy Thụy Khuê 40.877 90.000 220,2 157.427 174,9 169.376 107,6 5.Công ty giầy Cần Thơ 177.978 80.200 44,8 76.169 95 72.381 95 6.Công ty da giầy Sài Gòn 0 24.400 -- 14.438 59,2 45.616 315,9 7.Công ty da giầy Hà Nội 0 0 -- 4.597 -- 30.055 653,81 8.Khách hàng khác 939.176 1.043.400 111,1 753.184 72,2 790.968 105 Tổng số 2.617.000 2.323.0000 88,7 1.771.000 76,2 1.434.000 80,9 (Nguồn: Báo cáo sản xuất kinh doanh) Còn đối với sản phẩm vải mành (biểu 6) kể từ năm 1999 trở về trước lượng tiêu thụ rất thấp do sản phẩm vải mành lúc đó chỉ là vải mành sợi bông và sợi Pêcô không đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất lốp xe do không phù hợp với công nghệ mới. Năm 1999 công ty đã chế thử thành công vải mành PA nhúng keo có đủ khả năng thay thế cho vải mành mà các công ty cao su vẫn phải nhập ngoại. Kể từ năm 2000 vải mành PA đã thay thế toàn bộ các loaị vải mành cũ. Nhờ đó mà lượng tiêu thụ vải mành đã tăng lên. Ngoài công ty cao su sao vàng là khách hàng quen thuộc của công ty đã có thêm hàng loạt các khách hàng mới như công ty cao su Miền Nam, công ty cao su Đà Nẵng, nhà máy cao su 75, công ty cao su chất dẻo Đại Mỗ. Sản lượng tiêu thụ của tất cả các công ty này đều tăng lên. Cụ thể công ty cao su sao vàng tăng lượng tiêu thụ vải mành từ 10.100 kg (1998) lên 130.673 kg (2001). Nhà máy cao su 75 sản lượng tiêu thụ tăng từ 16.045 kg (2000) lên 22.728 kg (2001) (tăng 41%) con số tương ứng đối với công ty TNHH nhựa Lúa Vàng là 12.726 (2000), 22.732 (2001) tăng 78,6%. Biểu6: Tình hình tiêu thụ vải mành theo khách hàng Đơn vị tính: kg Khách hàng 1999 2000 2001 Số lượng So 98 (%) Số lượng So 99 (%) Số lượng So 00 (%) 1.Công ty cao su Sao vàng 10.100 117,6 54.793 126,4 130.673 238,5 2.Công ty cao su Nghệ An 5.300 92 0 -- 0 -- 3.Công ty cao su Đà Nẵng -- 0 -- 31.008 -- 4.Công ty cao su Miền Nam -- 0 -- 94.227 -- 5.Nhà máy cao su 75 -- 16.046 -- 22.728 141,6 6.Công ty cao su chất dẻo Đại Mỗ 1.200 98 8.809 734 13.008 147,7 7.Công ty TNHH Nhựa Lúa Vàng 1.100 102 12.726 1156 22.732 178,6 8.Khách hàng khác 3.700 35.505 959 161.643 455,2 Tổng số 21.400 127.900 476.000 (Nguồn: Báo cáo sản xuất kinh doanh 1998-2001) Từ kết quả phân tích trên cho thấy sản lượng sản phẩm tiêu thụ theo khách hàng của công ty có nhiều biến động đặc biệt là đối với sản phẩm vải các loại, tỷ trọng tiêu thụ của nhiều khách hàng truyền thống giảm thay vào đó là các khách hàng mới. Để đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường tiêu thụ công ty cần phải quan tâm hơn nữa tới các khách hàng cũ để chăn đà giảm sút lượng tiêu thụ như có các chính sách ưu tiên trong giá bán, thanh toán. Đồng thời công ty phải giữ vững và phát triển mối quan hệ với các khách hàng mới biến họ trở thành khách hàng truyền thống trong tương lai. Một lý do nữa để cần phải quan tâm đến các khách hàng này là: họ chủ yếu thuộc khu vực thị trường phía Bắc sẽ thuận lợi cho công ty trong việc chuyên chở sản phẩm, giảm được chi phí vận tải, các hao hụt trong các điều kiện chuyên chở bảo quản. 1.4. Tình hình tiêu thụ theo mùa vụ Do sản phẩm của công ty là nguyên liệu cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất khác nên tính thời vụ sẽ phụ thuộc vào tính thời vụ của sản phẩm mà khách hàng của công ty sản xuất .Các sản phẩm có sự biến động theo thời vụ là vải các loại và sợi. Đặc biệt là vải với khách hàng chủ yếu là các công ty giầy vải. Sản phẩm giầy vải là sản phẩm tiêu dùng theo thời mùa, mùa tiêu dùng chủ yếu là mùa Đông và mùa Xuân khi thời tiết đang rét. Biểu 7 là kết quả tiêu thụ theo quý của sản phẩm vải các loại qua các năm từ 1998 đến 2001. Biểu 7:Cơ cấu tiêu thụ vải theo quý Đơn vị: 1000 m Quý 1998 1999 2000 2001 Tiêu thụ % Tiêu thụ % Tiêu thụ % Tiêu thụ % I 594 22,7 707 30,4 339 19,2 299 21,0 II 514 19,7 347 14,9 296 16,7 283 19,9 III 680 26 507 21,8 523 29,5 358 25,2 IV 824 31,6 766 32,9 613 34,6 483 33,9 Tổng số 2.612 100 2.323 100 1.771 100 1.428 100 (Nguồn: Báo cáo sản xuất kinh doanh) Biểu 8: Cơ cấu tiêu thụ vải bình quân theo quý Quý I II II IV Tổng cộng Tiêu thụ trung bình 484,8 360 517 671,5 2.032,3 Tỉ lệ (%) 23,85 17,17 25,44 33,04 100 (Nguồn: Báo cáo sản xuất kinh doanh 1998 - 2001) Số liệu của bảng cho thấy cơ cấu vải tiêu thụ tính theo quý qua các năm hầu như không đổi, sản lượng đều cao ở quý 3 và 4, thấp ở quý 2, cụ thể là quý 4 có mức tiêu thụ đều trên 30%, quý 2 đều thấp hơn 20% so với tổng sản lượng tiêu thụ. Nếu tính bình quân qua 4 năm quý 4 chiếm 33,06%, quý 2 chiếm 17,71% so với tổng sản lượng tiêu thụ trong năm (Biểu 8). Nguyên nhân là do khách hàng của công ty như giầy Thượng Đình, Thăng Long, Thụy Khuê đều phải tăng sản lượng sản xuất vào quý 3,4 để kịp đáp ứng nhu cầu tiêu thụ vụ Đông xuân, còn vào quý 2, những tháng trước mùa hè lượng sản xuất giảm Cũng với cách phân tích này qua biểu 9 và biểu 10 cho biết khối lượng tiêu thụ theo mùa vụ của sản phẩm sợi. Khác với vải, cơ cấu sản lượng sợi tiêu thụ theo quý có nhiều biến động qua các năm, như năm 1998 tỷ lệ sợi tiêu thụ trong năm đạt cao nhất vào quý 3 và 4 đạt trên 30% tổng mức tiêu thụ, nhưng năm 1999 lại có sự chuyển dịch, mức tiêu thụ lớn lại vào quý 2 và quý 4, năm 2001 mức tiêu thụ cao nhất lại ở quý 1 chiếm tới 42,8% tổng mức tiêu thụ cả năm trong khi quý 4 đạt mức thấp nhất với tỷ lệ 16%. Với sự biến động bất thường như vậy việc tính toán cơ cấu tiêu thụ trung bình theo quý (biểu 10) không có ý nghĩa lắm. Biểu 9: Cơ cấu sản lượng sợi tiêu thụ theo quý Quý 1998 1999 2000 2001 Tiêu thụ % Tiêu thụ % Tiêu thụ % Tiêu thụ % I 7.110 13,2 6.410 23,6 6.382 5,8 38.784 42,8 II 12.905 23,9 9.920 36,5 23.334 20,9 20.876 23,0 III 17.430 32,3 1.855 6,8 31.904 28,7 16.521 18,2 IV 16.513 30,6 9.010 33,1 49.563 44,6 14.522 16,0 Tổng số 53.958 100 27.195 100 111.181 100 90.703 100 (Nguồn: Báo cáo sản xuất kinh doanh 1998-2001) Biểu 10: Cơ cấu sản lượng vải tiêu thụ bình quân quý Quý I II III IV Cả năm Tiêu thụ bình quân 14.672 16.759 16.972 22.402 70.760 Tỉ lệ 20,7 23,7 23,9 31,7 100 2. Phân tích các nhân tố chủ yếu tác động đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm của công ty Tốc độ tiêu thụ sản phẩm của bất kỳ một doanh nghiệp nào đều bị tác động bởi nhiều các nhân tố khách quan và chủ quan. Với đặc thù sản phẩm là tư liệu sản xuất, tốc độ tiêu thụ sản phẩm của công ty bị ảnh hưởng bởi các yếu nhân tố sau: 2.1. Các nhân tố khách quan 2.1.1. Môi trường kinh tế-chính trị-pháp luật. Có thể nói trong thời gian qua môi trường chính trị pháp luật nước ta tương đối ổn định, tốc độ phát triển kinh tế đạt khá trung bình 7% mỗi năm, tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt trên 10%/năm, lạm phát được duy trì ở mức thấp...Đây là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Có thể kể ra một số tác động quan trọng của các nhân tố này tới hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và công tác tiêu thụ sản phẩm nói riêng của công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội Thứ nhất, kể từ khi nhà nước thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra mạnh mẽ, đã có nhiều ngành có sản phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài như nông sản, thực phẩm, dệt may, da giầy...mà trong đó hai ngành dệt may và da giầy được đánh giá là ngành có năng lực cạnh tranh cao trong hội nhập. Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may liên tục tăng năm 1995 đạt 850 triệu USD thì năm 2001 đạt 1900 triệu USD. đến năm 2005 hiệp định dệt may ACT trong khuôn khổ WTO có hiệu lực lúc đó buôn bán dệt may sẽ hoà nhập theo các nguyên tắc của WTO và tất cả các nước xuất khẩu sẽ có điều kiện thương mại như nhau, Việt Nam sẽ có điều kiện cạnh tranh bình đẳng với Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, ...trong lĩnh vực này. Với công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội, tuy sản phẩm may không phải là sản phẩm chủ lực nhưng đây cũng là một cơ hội mới cho sự phát triển. Đối với ngành da giầy, sự phát triển cũng rất khả quan, dự kiến sản lượng da giầy sản xuất tới năm 2005 là 500 triệu đôi trong đó xuất khẩu 450 triệu đôi; năm 2010 là 650 triệu đôi, xuất khẩu 550 triệu đôi. Riêng đối với thị trường Mỹ là thị trường tiềm năng mà Việt Nam đang nỗ lực để xâm nhập, hàng năm nhập khẩu khoảng 12 tỷ USD giầy dép từ châu á. Những điều kiện phát triển khả quan của ngành giầy như vậy sẽ tác động trực tiếp đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm của công ty vì các khách hàng chính của công ty là cá công ty giầy vải đang tham gia xuất khẩu như công ty giầy Thụy Khuê, Thăng Long, Thượng Đình, Hiệp Hưng... Thứ hai là bên cạnh những kết quả thu được từ của quá trình hội nhập trong phát triển, các doanh nghiệp còn phải đối mặt với những thách thức lớn. Như việc Việt Nam ra nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFTA sẽ phải xoá bỏ dần hàng rào thuế quan, bảo hộ sản xuất. Theo các hiệp định đã ký kết, Việt Nam sẽ phải cắt bỏ thuế nhập khẩu giầy dép từ 50%(2000) xuống còn 5% vào năm 2006 (theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 95-2000) ngành giầy da sẽ phải chịu sự cạnh tranh của đối thủ nước ngoài trên thị trường trong nước và điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ vải cho các công ty giầy của công ty. Cùng vơí sự tác động gián tiếp qua ngành giầy, công ty cũng chịu sự tác động trực tiếp của quá trình hội nhập này vì hiện nay ngành sản xuất vải công nghiệp vẫn được nhà nước bảo hộ cho tiêu thụ trong nước, hàng năm nhà nước chỉ cho phép nhập khẩu một lượng vải nhất định để đảm bảm lượng tiêu thụ của các doanh nghiêp trong nước mà doanh nghiệp lớn nhất trong lĩnh vực này chính là công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội. Khi sự bảo hộ này bị phá bỏ, công ty sẽ phải chịu nhiều sức ép trong cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài như Trung Quốc, ấn Độ, Thái Lan,... 2.1.2.Đối thủ cạnh tranh. Kể từ khi mở cửa nền kinh tế, công ty không còn giữ được vị trí độc tôn trong lĩnh vực sản xuất vải công nghiệp. Trên trị trường đã xuất hiên hàng loạt các doanh nghiệp sản xuất cùng chủng loại sản phẩm với công ty thuộc tất cả các loại hình doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, nước ngoài. Có thể chia đối thủ cạnh tranh thành hai loại: a.Đối thủ trong nước. Các đối thủ này chủ yếu cạnh tranh với sản phẩm vải sợi và hàng may mặc. Các doanh nghiệp sản xuất vải như công ty hiện nay có công ty dệt 19/5, công ty dệt Vĩnh Phú và nhiều công ty tư nhân mới tham gia vào lĩnh vực này. Những công ty này nói chung có dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại hơn nên chất lượng, giá thành thấp hơn tạo nên sức ép cạnh tranh đối với công ty. Chính sự cạnh tranh này đã làm giảm đáng kể lượng vải tiêu thụ trong những năm qua như đã phân tích ở phần trên. Với sản phẩm sợi cũng chịu sự cạnh tranh của các công ty tư nhân như công ty TNHH Hương Sen, Bình Minh. Còn với sản phẩm may công ty hầu như không có chỗ đứng trên thị trrường trong nước trước các đối thủ lớn trong lĩnh vực may mặc như May 10, Thăng Long, Đức Giang, 19/5,... b.Đối thủ nước ngoài Hiện nay, trên thị trrường vải công nghiệp thị phần của các công ty nước ngoài rất lớn chiếm trên 60%. Các công ty này chủ yếu đến từ Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia. Sản phẩm của các công ty này được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, chất lượng cao và giá thành thấp. Hơn nữa thuế nhập khẩu các loại mặt hàng này rất thấp khoảng 1%. Với công ty Dệt vải công nghiệp Hà Nội không có những lợi thế như vậy nên rất khó cạnh tranh được với các đối thủ này. Để cạnh tranh được với hàng nhập ngoại, trước đây công ty đã thực hiện liên doanh với Trung Quốc và Pháp trong lĩnh vực sản xuất vải mành nhúng keo, phục vụ cho ngành sản xuất lốp xe nhưng do làm ăn kém hiệu quả, liên doanh đã phải giải thể vào năm 1999. Công ty đứng ra tiếp nhận dây chuyền công nghệ sản xuất này, vừa sản xuất vừa tự nghiên cứu hoàn thiện, kết quả qua 3 năm sản xuất cho thấy sản phẩm đạt chất lượng tốt, có khả năng thay thế được sản phẩm nhập ngoại v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10466.DOC
Tài liệu liên quan