- Quỹ khấu hao: được sử dụng đúng mục đích cho việc đầu tư mua sắm, nâng cấp, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc thiết bị luôn được công ty quan tâm hàng đầu. Thật vậy trong những năm qua cùng với việc đầu tư đổi mới hệ thống MMTB là việc trích lập quỹ khấu hao theo quy định của nhà nước đã được công ty thực hiện tốt đảm bảo tích đúng, tích đủ các chi phí phát sinh, hàng năm công ty đều trích một phần từ quỹ khấu hao để trang trải cho các chi phí sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị và trong những năm gần đây, công ty luôn chú trọng đầu tư cho hệ thống quản lý nhằm điều khiển công ty một cách tốt nhất.
- Công tác quản lý hồ sơ thiết bị được công ty tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ theo các cấp độ quản lý khác nhau. Tất cả các máy móc thiết bị khi đưa vào sử dụng đều được lập hồ sơ lý lịch trên cơ sở năng lực hoạt động thực tế, theo ngày giờ và các sự cố hư hỏng trong quá trình sử dụng đều giao cho xí nghiệp trực thuộc và từng xí nghiệp có trách nhiệm cụ thể theo dõi đến từng cấp dưới để gửi báo cáo lên ban lãnh đạo công ty, từ đó sẽ có kế hoạch đầu tư đổi mới thiết bị và sửa chữa kịp thời. Nhìn chung trong những năm qua công ty làm tốt công tác tư tưởng văn hoá, ý thức trách nhiệm đến từng công nhân trong công ty và từ đó có kế hoạch thưởng phạt hợp lý. Chính điều này làm khuấy động phong trào thi đua hăng hái làm việc và kết quả đã không ngừng tăng lên.
35 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị tại Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c sử dụng hết, vẫn còn rất nhiều máy để không sử dụng gây lãng phí một lượng tài sản lớn đấy là chưa tính đén hao mòn vô hình của máy móc thiết bị . Để biết thêm chi tiết về danh mục MMTB của công ty xin tham khảo phần Phụ lục.
Thực trạng sử dụng MMTB của công ty về mặt thời gian.
Để có thể thấy rõ hơn về thực trạng sử dụng MMTB của công ty ta sử dụng chỉ số sau:
Thời gian làm việc thực tế của MMTB
Htg = X 100
Thời gian làm việc theo quy định
Htg : Hệ số làm việc thực tế của MMTB
Htg: càng cao thì hiệu quả sử dụng MMTB của công ty càng cao, và ngược lại Htg mà thấp thì máy móc thiết bị trong công ty hoạt động kém hiệu quả.
Do đặc thù của ngành xây lắp mà thời gian làm việc có thể phải làm việc trong suốt 30 ngày trong tháng, thậm chí còn phải làm thêm giờ một ngày làm cả 3 ca. Theo như quy định thời gian hoạt động của máy móc là 324 giờ trong 1 tháng, nhưng thực tế máy móc thiết bị trong công ty hoạt động chỉ ở mức trung bình (60%-70%) thời gian trong tháng, để có thể biết rõ chính xác thời gian hoạt động của máy móc thiết bị ta theo dõi bảng sau:
STT
Loại MMTB
TTT
QĐ
(h/tháng)
TGTT
(h/tháng)
Htg (%)
2005
2006
2007
2005
2006
2007
1
Thiết bị vận tải
324
217
227
234,6
67
70
72,4
2
Máy khoan các loại
324
218
231
234
67,2
71,2
72,3
3
Máy đào
324
211
218
228
65
67,2
70,3
4
Máy ủi
324
222
219
228
68,4
67,6
70,2
5
Cẩu
324
221
225
230
68,4
69,5
71
6
Hệ thống dàn giáo
324
228
234
243
70,2
72,3
75
7
Máy Cẩu
324
220
229
227
67,9
70,5
70,2
8
Xe lu
324
212
217
228
65,3
67
70,3
Trung Bình
219
225
232
67,15
69,86
71,46
Bảng 5 : Tình hình sử dụng một số MMTB của công ty về mặt thời gian.
( Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36 )
Qua bảng trên ta thấy thời gian làm việc thực tế máy móc thiết bị qua ba năm cụ thể như sau: Năm 2005 hệ số thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị trung bình 67,16, sang đến năm 2006 hệ số thời gian làm việc của máy móc đã tăng lên 2,71 tương ứng tăng lên 4,1% so với năm trước đó là năm 2005. Năm 2007 hệ số thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị trung bình là 71,46%, con số này đã tăng lên 2,3% so với năm 2006. Nguyên nhân của việc máy móc thiết bị trong công ty không hoạt động hết thời gian theo quy định là do đặc thù của mỗi công trình nhận thi công, có những công trình thi công ở những nơi có địa hình không thuận lợi, thời tiết xấu, làm cho máy móc không thể hoạt động, phải ngừng thời gian thi công. Có công trình làm ở địa bàn đông dân cư sinh sống, cho nên máy móc chỉ hoạt động được trong thời gian giờ hành chính không làm được vào ca 3, điều đó cũng ảnh hưởng đến thời gian làm việc của MMTB. Trong Công ty còn nhiều máy móc đã cũ không hoạt động được. Do máy móc phải hoạt động ngoài trời trong một thời gian dài cho nên máy móc bị hao mòn dẫn đến hỏng hóc, vì vậy phải ngừng để sửa chữa, bảo dưỡng...chính những nguyên nhân đó đã gây nên việc thời gian máy móc thiết bị trong công ty chỉ hoạt động ở mức 60%-70% thời gian làm việc thực tế.
Để có thể biét rõ ràng hơn về tình hình thực tế việc sử dụng máy móc trong Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36 ta theo dõi biểu đồ sau:
Biểu đồ 4: Hệ số sử dụng MMTB về mặt thời gian
( Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36)
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy thời gian sử dụng máy móc thiết bị của Công ty qua các năm đã có sự cải thiện đáng kể, thời gian làm việc thực tế của máy móc tăng dần qua mỗi năm. Lí do mấy năm gần đây công ty đã đầu tư thêm được một số MMTB mới, thanh lý bớt một số máy móc thiết bị đã quá cũ, lạc hậu. Công ty cũng đã có sự điều chỉnh trong công việc quản lý và bố trí MMTB ở mỗi công trình thi công ( thuê máy móc tại địa bàn thi công không phải tốn nhiều thời gian điều máy, để có thể điều máy móc đến công trình khác, hoặc cho doanh ngiệp khác thuê)
Thực trạng sử dụng công suất MMTB của Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36.
Đối với một công ty xây lắp thì việc sử dụng hết công suất của máy móc thiết bị là việc hết sức quan trọng, nhưng trong thực tế thì việc sử dụng hết công suất của máy móc thiết bị là việc rất khó khăn. Để có thể biết một cách chính xác và đánh giá đúng tình sử dụng MMTB của công ty ta sử dụng hệ số công suất:
Công suất thực tế sử dụng của MMTB
Hcs = X 100
Công suất tối đa có thể sử dụng của MMTB
Hcs : Hệ số công suất sử dụng MMTB
Hệ số này càng lớn thì công ty sử dụng MMTB đạt được công suất hiệu quả.
Bảng 6: Tình hình sử dụng một số MMTB của công ty về mặt công suất
STT
Loại máy móc
thiết bị
Hệ số công suất
Năm 2005
Hệ số công suất
Năm 2006
Hệ số công suất
Năm 2007
1
Thiết bị vận tải
68
73
70,4
2
Máy khoan các loại
66,9
71,4
72,3
3
Máy đào
67
68,2
70,1
4
Máy ủi
68,2
67,1
70,2
5
Cẩu
69,4
70,1
70,3
6
Hệ thống dàn giáo
70,2
72,6
75,2
7
Máy Cẩu
67,9
71,5
70,1
8
Xe lu
65,3
68
70,3
Trung Bình
67.9
70.3
71.2
( Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36 )
Qua bảng trên ta thấy được hệ số công suất trung bình của máy móc thiết bị trong công ty cụ thể như sau; năm 2005 Hcs = 67,9%, sang đến năm 2006 hệ số sử dụng MMTB đã tăng lên 2,4 tương ứng tăng 3,6% so với năm 2005. Đến năm 2007 thì Hcs = 71,2%. Nguyên nhân của tình trạng MMTB không hoạt động hết công suất do rất nhiều nguyên nhân gây ra như: thời gian hoạt động của MMTB chỉ hoạt động 60 – 70% thời gian, do đặc thù của từng công trình khác nhau, có công trình phải thi công trên địa hình phức tạp, thời tiết khăc nhiệt, máy móc bị hỏng trong quá trình sử dụng phải ngừng để sửa chữa thay thế... chính hàng loạt những nguyên nhân trên đã làm ảnh hưởng đến công suất hoạt động của MMTB.
Để có thể thấy rõ tình hình sử dụng công suất của máy móc của công ty qua các năm ta theo dõi biểu đồ sau.
Biểu đồ 5: Hệ số sử dụng MMTB về mặt công suất
( Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36)
Qua biểu đồ trên ta thấy được hệ số công suất sử dụng MMTB của công ty là chưa được cao, mà nhất là đối với một công ty hoạt động chủ yếu trong ngành xây lắp. Điều đó sẽ gây ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành công trình dẫn đến việc nghiệm thu công trình cũng bị chậm lại thế là doanh thu của công ty cũng bị ảnh hưởng theo. Vì vậy công ty cần phải có những biện pháp để khắc phục tình trạng này trong những năm tới.
Thực trạng khấu hao MMTB của Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36.
Hiện nay công ty đang áp dụng hai phương pháp tính khấu hao là phương pháp khấu hao luỹ thoái và phương pháp khấu hao tuyến tính. Hai phương pháp này có những ưu nhược điểm sau đây:
4.1. Phương pháp tuyến tính.
Công ty đang áp dụng phương pháp khấu hao tuyến tính chủ yếu cho máy móc thiết bị đã qua sử dụng hoặc có thời gian sử dụng lâu dài, tính năng kỹ thuật ít có sự thay đổi: như ô tô, xe uỷ, máy xúc. Sử dụng phương pháp khấu hao tuyến tính thì chi phí khấu hao thấp do được rải đều qua các năm hoạt động nên chi phí khai thác sử dụng được tính ít. Do vậy mức độ huy động công suất của chúng so với thiết bị khác là tương đối cao : như xe 2 cầu Gaz66 là thiết bị vận tải khấu hao hàng năm là 14.2tr và mức độ huy động công suất của loại xe này đạt 85 – 90%
*Ưu điểm của nó là:
Phương pháp này đơn giản dễ sử dụng, đảm bảo thu hồi vốn theo tuổi thọ của máy móc thiết bị, đồng thời nó cũng tạo ra sự ổn định về chi phí khấu hao trong giá thành, tính khấu hao một lần dùng cho cả thời kỳ khấu hao của MMTB .
*Nhược điểm của nó là :
ít có khả năng để hạn chế tổn thất do hao mòn mô hình. Hạn chế việc tái đầu tư vốn đổi mới thiết bị, rủi do về lạm pháp đồng tiền mất giá.Thời gian khấu hao và thu hồi vốn đầu tư kéo dài.
Phương pháp lũy thoái.
Còn phương pháp khấu hao luỹ thoái được áp dụng phổ biến cho các loại máy móc thiết bị mới, tính năng kỷ thuật cao nên chi phí khấu hao thường lớn hơn, dẫn đến chi phí khai thác sử dụng cũng tăng theo làm cho việc huy động thiết bị loại này vào thi công gặp nhiều khó khăn như xe lu, thiết bị khoan hầm...Thực tế là hàng năm công ty phải trích một lượng chi phí khấu hao khá lớn cho việc sử dụng các loại máy móc thiết bị, cộng thêm chi phí vận hành, sửa chữa chúng thì chi phí huy động là rất lớn.
Ưu điểm :
Tạo khả năng thu hồi vốn đầu tư nhanh.
Hạn chế rủi do về lạm pháp, hạn chế tổn thất hao mòn vô hình
Tạo điều kiện đổi mới công nghệ sản xuất.
Nhược điểm :
Khó áp dụng trong doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Dễ ảnh hưởng đến giá thành và lợi nhuận, hạn chế khả năng cạnh tranh.
Khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ với ngân sánh.
Để có thể thấy rõ hơn về tình hình khấu hao MMTB của công ty trong năm gần đây nhất ta có bảng sau:
Bảng 7: Trích khấu hao một vài MMTB năm 2007
Đơn vị tính : Triệu Đồng
Stt
Loại MMTB
Nguyên giá
Khấu hao lũy kế đến năm 2007
GCCL đến ngày 31/12/2007
1
Xe vận tải
5.560
2.457,1
3.102,9
2
Máy khoan
5.200
1.868
3.332
3
Máy đào
4.680
1.534,6
3.145,4
4
Máy ủi
5.900
2.346,2
3.553,8
5
Cẩu
6.640
2094,2
4.545,8
6
Hệ thống dàn giáo
1.750
824,4
925,6
7
Máy phát điện
1.890
925
965
8
Máy nén khí
3.670
1.725
1.945
( Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36)
Đánh giá hiệu quả sử dụng MMTB của công ty đầu tư xây lắp và thương mại 36
Chỉ tiêu về sức sản xuất của MMTB
Để có thể biết rõ hơn về sức sản xuất của MMTB ta sử dụng chỉ số sau:
( Tính theo nguyên giá máy móc thiết bị)
Sức sản xuất của mỗi máy móc thiết bị trong Công ty được tính toán với mục đích: nhằm giúp cho doanh nghiệp hiểu được giá trị của máy móc thiết bị ảnh hưởng, góp phần quan trọng như thế nào tới tổng doanh thu của toàn công ty trong nămDưới đây là bảng biểu thể hiện điều này:
Bảng 8 : Sức sản xuất của MMTB
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
So sánh
tăng giảm 2006/2005
So sánh
tăng giảm 2007/2006
Số tuyệt đối
%
Số
tuyệt đối
%
Tổng D.Thu
69.326
75.632
72.526
6.306
109
-3.106
95,9
Tổng giá trị MMTB
41.165
44.070
44.237,3
2.905
107,1
167.3
100,4
Sức sản xuất của MMTB
1,7
1,71
1,6
0,01
100,6
- 0,11
93,6
( Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36 )
Qua bảng trên ta thấy được sức sản xuất của công ty qua 3 năm (2005 - 2007) cụ thể như sau: năm 2005 sức sản xuất của MMTB là 1.7 tr.đ nhưng sang đến năm 2006 sức xuất của máy móc thiết bị tăng lên 1,71 tr.đ tương ứng 100,6%, Việc tăng sức sản xuất của máy móc thiết bị đã chứng tỏ ban lãnh đạo đã điều hành tốt công việc sản xuất của công ty và đã có những tiến bộ trong việc sử dụng, quản lý MMTB theo chiều hướng tốt hơn so năm trước năm 2005. Năm 2007 sức xuất của máy móc thiết bị của công ty là 1,6 tr.đ con số này đã giảm 0,11 triệu so với năm trước. Dưới đây là biểu đồ thể hiện sức sản xuất của công ty qua 4 năm từ 2004 đến 2007
Biểu đồ 6 : Sức sản xuất của MMTB
1.54
1.56
1.58
1.6
1.62
1.64
1.66
1.68
1.7
1.72
2004
2005
2006
2007
Sức SX của MMTB
( Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36 )
Qua biểu đồ ta thấy được sự tăng giảm sức xuất của máy móc thiết bị qua mỗi năm là không đều, nguyên nhân có sự tăng giảm là tổng doanh thu qua từng năm đều có sự tăng lên giảm xuống trong khi tổng giá trị MMTB tính theo nguyên giá không hề thay đổi, đặc biệt trong năm 2007 mức độ giảm của sức sản xuất MMTB còn đáng lo ngại hơn...
Chỉ tiêu khả năng sinh lời của MMTB
Để đánh giá sức sản xuất MMTB của công ty ta sử dụng chỉ số khả năng sinh lời MMTB. Chỉ tiêu này sẽ cho ta biết 1 đồng vốn cố định của MMTB sử dụng trong 1 năm thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, cụ thể như sau:
(Tính theo nguyên giá máy móc thiết bị)
Từ những số liệu thực tế của công ty ta có được bảng biểu thể hiện khả năng sinh lời MMTB như sau:
Bảng 9 : Khả năng sinh lời của MMTB
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
So sánh tăng giảm 2006/2005
So sánh tăng giảm 2007/2006
Số tuyệt đối
%
Số
tuyệt đối
%
Lợi nhuân
2.612
3.459
2.938
847
132,4
-521
85
Tổng giá trị MMTB
41.165
44.070
44.237,3
2.905
107,05
167.3
100,38
Khả năng sinh lời
0,0634
0,0785
0,0664
0,0151
123,8
- 0,0121
84,6
( Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36 )
Qua bảng trên ta thấy khả năng sinh lời của máy móc thiết bị của công ty qua ba năm cụ thể như sau: Năm 2005 là 0,0634 tr.đ sang đến năm 2006 con số này đã tăng lên 0,0785 tr.đ tương ứng tăng 23,8% so với năm trước đó là năm 2005. Nhưng sang đến năm 2007 khả năng sinh lời của máy móc thiết bị đã giảm xuống còn 0,0664 tr.đ tương ứng giảm 15,4% so với năm 2006, nguyên nhân dẫn đến sự giảm này là do lợi nhuận của công ty năm 2007 giảm 521 tr.đ so với năm 2006.
Chúng ta quan sát biểu đồ dưới đây để thấy rõ hơn:
Biểu đồ 7: Khả năng sinh lời của MMTB
(Nguồn từ Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36)
Đánh giá thực trạng quản lý sử dụng máy móc thiết bị của Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36
Thành tựu
Những thành tựu đã đạt được
Quỹ khấu hao: được sử dụng đúng mục đích cho việc đầu tư mua sắm, nâng cấp, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc thiết bị luôn được công ty quan tâm hàng đầu. Thật vậy trong những năm qua cùng với việc đầu tư đổi mới hệ thống MMTB là việc trích lập quỹ khấu hao theo quy định của nhà nước đã được công ty thực hiện tốt đảm bảo tích đúng, tích đủ các chi phí phát sinh, hàng năm công ty đều trích một phần từ quỹ khấu hao để trang trải cho các chi phí sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị và trong những năm gần đây, công ty luôn chú trọng đầu tư cho hệ thống quản lý nhằm điều khiển công ty một cách tốt nhất.
Công tác quản lý hồ sơ thiết bị được công ty tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ theo các cấp độ quản lý khác nhau. Tất cả các máy móc thiết bị khi đưa vào sử dụng đều được lập hồ sơ lý lịch trên cơ sở năng lực hoạt động thực tế, theo ngày giờ và các sự cố hư hỏng trong quá trình sử dụng đều giao cho xí nghiệp trực thuộc và từng xí nghiệp có trách nhiệm cụ thể theo dõi đến từng cấp dưới để gửi báo cáo lên ban lãnh đạo công ty, từ đó sẽ có kế hoạch đầu tư đổi mới thiết bị và sửa chữa kịp thời. Nhìn chung trong những năm qua công ty làm tốt công tác tư tưởng văn hoá, ý thức trách nhiệm đến từng công nhân trong công ty và từ đó có kế hoạch thưởng phạt hợp lý. Chính điều này làm khuấy động phong trào thi đua hăng hái làm việc và kết quả đã không ngừng tăng lên.
Các công tác khác: Công ty xây lắp và thương mại 36 được sự quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo kịp thời của thường vụ đảng uỷ binh chủng, bộ quốc phòng và các cơ quan chức năng, bộ giao thông, bộ xây dựng.
Với sự phát triển vững vàng và hiệu quả, công ty đã xây dựng được uy tín với các cơ quan trung ương, các địa phương, nhà cung ứng chính điều này là giá trị vô hình giúp công ty thắng thầu các công trình xây dựng cấp quốc gia như công trình nhà ga T1 sân bay quốc tế Nội bài, đường cao tốc Bắc Thăng long Nội Bài.
Trong thời gian qua thông qua các dự án lớn trong cả nước đặc biệt là các dự án hợp tác liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài nên các dự án lớn về đường hầm, cảng biển, đường giao thông từ cấp IVđến cấp II có yêu cầu kỹ thuật cao luôn được công ty hoàn thành tốt, tăng thêm lợi nhuận, công việc làm và thu nhập cho người lao động.
Năng lực về nhân sự và cơ sở hạ tầng: Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân có tay nghề cao, biết sử dụng các công cụ hiện đại, có ý thức kỷ luật tốt nên các máy móc thiết bị đầu tư được sử dụng tốt và có hiệu quả. Cơ sở hạ tầng của công ty được đầu tư, bố trí đầy đủ, có khoa học từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống điều khiển thông suốt trong toàn công ty.
Những tồn tại cần khắc phục
Từ phía nhà nước: Các công trình mà có vốn vay từ ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu á(ADB) thông qua các ban quản lý dự án sẽ không cho phép các công ty của quân đội tham gia đấu thầu và xây dựng điểm này làm giảm nguồn vốn vay của công ty hoặc làm giảm các công trình mà công ty có thể tham gia đấu thầu, ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư mua sắm MMTB.
Nguồn vốn của công ty đầu tư vào máy móc thiết bị cho các dự án vừa và lớn chưa đủ để đáp ứng công ty phải dựa vào một phần nguồn vốn vay tín dụng với lãi suất cao, làm hạn chế khả năng đầu tư vào chiều sâu của công ty.
Đối thủ cạnh tranh: Thị trường xây lắp có sức cạnh tranh gay gắt về giá cả quá thấp, lợi nhuận không thể theo ý muốn, đầu tư phải có giới hạn để đảm bảo không thua lỗ và việc giảm đầu tư vào máy móc thiết bị là điều không thể tránh khỏi.
Về mặt sử dụng máy móc thiết bị. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý sử dụng máy móc thiết bị nhưng số lượng, máy móc thiết bị vẫn chưa đồng bộ việc đầu tư cho máy móc thiết bị còn dàn trải, nơi thừa nơi thiếu. Chính vì vậy trong năm 2001 công ty đã có kế hoạch đầu tư theo chiều sâu, chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải trong những năm qua.
Hệ thống tổ chức quản lý thiết bị của công ty đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn tồn tại bất cập là công ty không trực tiếp quản lý hay có kế hoạch sửa chữa, đổi mới thiết bị cho xí nghiệp mà các xí nghiệp tự lập hồ sơ sửa chữa, quản lý rồi báo cáo với phòng kế hoạch theo định kỳ. Chính điều này làm cho các đội, xí nghiệp đôi khi không báo cáo một cách trung thực chích xác năng lực hoạt động của máy móc thiết bị, việc sử dụng máy móc thiết bị còn ồ ạt, không bảo quản thường xuyên. Mặt khác còn chịu nhiều ảnh hưởng của tác nhân bên ngoài như thời tiết, khí hậu nên nhiều máy móc thiết bị thi công không đáp ứng được nhu cầu công việc, việc đánh giá chỉ trên trạng thái tĩnh qua chỉ tiêu con số nên việc đầu tư nhiều khi chưa đi sát vào thực tế, không thể hiện qua trạng thái động, phát sinh của nhiều nhân tố bên ngoài nên việc mua sắm đôi khi vì tính bức thiết mà chịu giá cao hoặc khan hiếm trên thị trường, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ thi công các công trình.
Hệ thống máy móc thiết bị của công ty gồm rất nhiều chủng loại khác nhau nên khó đánh giá một cách chính xác mức độ hao mòn cho từng loại máy móc thiết bị trên cơ sở năng lực hoạt động thực tế.
Nguyên nhân
Vậy đâu là nguyên nhân gây ra hạn chế trên, đây là một vấn đề quan trọng chúng ta phải tìm hiểu để tìm ra giải pháp khắc phục và hoàn thiện.
2.1 Nguyên nhân khách quan.
Do cơ chế của nhà nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất hợp lý, thủ tục rườm ra trong việc cho vay vốn, cách thức đấu thầu xây dựng của các công ty. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch đầu tư và mua sắm máy móc thiết bị của Công ty.
Do đặc thù của mỗi công trình khác nhau phân tán, trong cả nước nên công tác điều hành quản lý và sử dụng máy móc thiết bị chịu nhiều tác động của thời tiết, khí hậu, địa hình....
Hệ thống thông tin còn nghèo nàn thiếu những thông tin cập nhập từ phía người cung ứng. Những yếu tố rủi ro tiềm tàng trong nền kinh tế lúc nào cũng có thể xảy ra ảnh hưởng đến hiệu quả thi công các công trình và quản lý sử dụng MMTB. Trong khi đó hệ thống cung cấp thông tin cần thiết để tránh rủi ro lại thiếu tạo nên xu hướng đơn giản hoá hoạt động quản lý và sử dụng MMTB.
Thị trường Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung thường xuyên biến động khiến cho việc nhiều công trình phải tạm ngừng hoạt động do giá nguyên vật liệu tăng cao, có công trình đã nhận phải huỷ hợp đồng. Điều đó gây ảnh hưởng không tốt đến kết quả kinh doanh của Công ty.
2.2 Nguyên nhân chủ quan.
Việc quản lý sử dụng máy móc thiết bị hiện nay ở công ty đang gặp khó khăn nhất định. Với việc phân chia MMTB cho từng đội, từng xí nghiệp theo kiểu quản lý phân tán đã phát huy tác dụng kịp thời cho hoạt động thi công những cũng gây ra tình trạng thừa máy chỗ này thiếu máy chỗ kia làm giảm hiệu quả sử dụng. Công ty cũng tiến hành theo kiểu tập trung theo công trình nhưng cũng gây tình trạng trậm trễ trong thi công và chi phí hoạt động máy tăng cao. Do vậy hiện nay công ty phải áp dụng kết hợp cả hai phương pháp trên nhưng hiệu quả quản lý chưa cao đã ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng thiết bị.
Ngày nay hoạt động thuê và cho thuê thiết bị xây dựng đang diễn ra phổ biến, nó có thể giải quyết được những khó khăn về máy móc thiết bị cho các doanh nghiệp khi phải thi công các công trình ở xa. Trước mỗi công trình công ty luôn phải cân nhắc chi phí huy động máy móc thiết bị của công ty với chi phí thuê chúng ngay tại địa bàn để chọn giải pháp thích hợp. Chính điều này đã ảnh hưởng đến việc sử dụng số lượng, thời gian và công suất máy móc của công ty.
CHƯƠNG III
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng MMTB của Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36
Xuất phát từ những thực trạng về quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty Đầu tư Xây lắp và Thương mại 36 như đã nói ở phần trên kết hợp với những kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập tại trường Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội em xin đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng máy móc thiết bị.
Biện pháp thứ nhất: Bố trí sử dụng một cách hợp lý các MMTB.
Cơ sở lý luận: Việc bố trí sử dụng hệ thống MMTB một cách hợp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý sử dụng MMTB. Một trong những nguyên tắc cơ bản của tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp là hệ thống MMTB phải đảm bảo tính cân đối, nhịp nhàng. Điều đó được thể hiện trước hết ở mối quan hệ tỷ lệ thích hợp giữa công suất MMTB, khả năng lao động, số lượng và chất lượng của các loại MMTB. Hay nói một cách khác đó là mối quan hệ tỷ lệ giữa ba yếu tố cơ bản của quá trình thực hiện thi công. Ngoài ra tính cân đối nhịp nhàng còn được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo thi công đồng bộ với hiệu quả cao, khắc phục được tình trạng sản xuất khi thì thong thả cầm chừng, khi thì vội vã, khẩn trương, gây nên những lãng phí về sức người, sức máy móc. Từ ý nghĩa thiết thực đó vấn đề đặt ra là muốn nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị thì cần phải làm tốt công tác quản lý, bố trí sắp xếp chúng, tạo điều kiện cho chúng phát huy với hiệu quả cao nhất.
Cơ sở thực tế: Hiện tại công ty đang gặp khó khăn trong việc quản lý có hiệu quả hệ thống MMTB. Do đặc thù mà từng đội công trình có số lượng máy móc khác nhau, đòi hỏi đầu tư khác nhau nên số lượng, chủng loại không đồng bộ có sự khác biệt hoá rất cao. Mặt khác các đội xây dựng hoạt động trên cơ sở hoạch toán độc lập cho nên tất cả các chi phí đều được tính toán cân nhắc và lựa chọn mức tối ưu để có thể hạ giá thành công trình, tăng lợi nhuận và thu nhập cho người lao động. Trong khi đó, do có chi phí vận chuyển và khấu hao nên chi phí sử dụng máy móc thiết bị của các đội công trình thường cao hơn so với chi phí thuê ngoài do vậy trong nhiều trường hợp các độ công trình dùng phương pháp đi thuê ngoài còn hơn là huy động máy móc của xí nghiệp, dẫn đến việc thừa máy móc tại phân xưởng mà lại thiếu nơi thi công, gây lãng phí rất lớn. Để đẩy mạnh hơn nữa việc sử dụng máy móc đòi hỏi công ty phải có những biện pháp khắc phục tình trạng trên .
Biện pháp thực hiện: Từ thực tế trên em xin đề xuất một số biện pháp nhằm bố trí hợp lí hơn MMTB:
Sắp xếp bố trí lại hệ thống MMTB ở mỗi xí nghiệp bằng cách giảm bớt thiết bị vận tải. Trang bị thêm các loại máy móc thiết bị đặc chủng cần thiết theo ngành nghề kinh doanh trong giai đoạn tới như máy xúc lật, trạm nghiền đá, máy san gạt Carterpilar
Thực hiện quản lý máy móc theo đối tượng và quản lý theo hỗn hợp. Công ty phải lập ra một đội kiểm tra giám sát việc thực thi của các xí nghiệp , có chính sách điều chỉnh kịp thời hoạt động của từng đội xây lắp. ở mỗi đội xây lắp nên phân chia các loại MMTB thông thường như xe vận tải, thiết bị thi công, máy trộn bê tông cho các đội sử dụng nhưng vẫn chịu sự quản lý của đội xây lắp để khi cần công ty có thể vẫn huy động lẫn nhau giữa các đội xây lắp giải quyết được tình trạng nơi thừa, nơi thiếu. Riêng với loại MMTB đặc chủng như thiết bị khoan hầm, thiết bị dò mìn, xe lu rung thì tuỳ theo kế hoạch sản xuất mà đội xây lắp lập kế hoạch chuyển giao cho từng đơn vị thi công đảm bảo phục vụ kịp thời cho hoạt động sản xuất với chi phí thấp nhất.
Công ty tiến hành từng bước giảm dần chi phí khấu hao cho các loại MMTB mới bằng cách trong những năm đầu có thể không cần tính lãi hoặc tính lãi ở mức thấp. Nếu cần có thể dùng lãi xí nghiệp, quĩ đầu tư phát triển, quĩ khấu hao cơ bản của công ty để tính khấu hao MMTB ở các đội xây lắp và thu lại trong những năm sau.
Thực hiện giao khoán cho mỗi tổ, mỗi đầu xe để mỗi tổ, mỗi đầu xe tự có trách nhiệm tìm việc cho mình, tránh tình trạng “cha chung không ai khóc”.
Hiệu quả thực hiện: Khi đã thực hiện đúng và đầy đủ các biện pháp trên thì hiệu quả sử dụng sẽ được nâng cao, công suất và thời gian hoạt động của MMTB của công ty tăng cao hơn trước, đồng thời các đội xây lắp vẫn có thể quản lý được số MMTB của mình, nâng cao được hiệu quả hoạt động của chúng, có điều kiện để tính khấu hao, cải thiện đời sống cho công nhân trực tiếp vận hành máy và rút ngắn vòng quay của vốn từ đó tăng hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
Biện pháp thứ hai : Nâng cao thời gian làm việc thực tế của MMTB.
Cơ sở lý luận: Hệ số thời gian làm việc thực tế phản ánh trình độ sử dụng MMTB của mỗi doanh nghiệp. Thông qua hệ số này ta có thể thấy được khả năng huy động công suất máy móc thiết bị cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Hệ số này tính ra càng cao càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng MMTB càng lớn. Bên cạn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2665.doc