Là một chi nhánh của Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (một Công ty lớn của Bộ giao thông vận tải) Tracimexco Hà nội có những chức năng sau:
Thông qua các hoạt động kinh doanh XNK, liên doanh, hợp tác với nước ngoài để thực hiện chức năng chính là nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị phục vụ ngành giao thông vận tải, tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa từ nước ngoài tới các tổ chức cá nhân tiêu dùng nội địa, đáp ứng yêu cầu của các ngành trong nền kinh tế quốc dân và góp phần tạo công ăn việc làm, cũng như tăng tích lũy cho ngân sách Nhà nước (thông qua nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước).
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1723 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp tài chính chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p
Từ ảnh hưởng của các nhân tố nói trên, đứng ở góc độ tài chính doanh nghiệp, để tăng lợi nhuận các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới các biện pháp chủ yếu sau:
1. Phấn đấu giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Đây là biện pháp cơ bản làm tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Bởi vì giá thành sản phẩm là 1 chỉ tiêu tổng hợp quan trọng đối với doanh nghiệp sản xuất cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm đồng nghĩa với việc lãng phí hay tiết kiệm lao động xã hội, bao gồm lao động sống, lao động vật hoá trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm cao hay thấp phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng vật tư lao động, tiền vốn của doanh nghiệp. Việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn trên sẽ xác định việc hạ giá thành và ngược lại. Đó cũng là một đòi hỏi khách quan khi các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như chúng ta đã biết, đối với các doanh nghiệp sản xuất, việc hạ giá thành sản xuất là con đường chủ yếu để tăng lợi nhuận cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, nó cũng là tiền đề để hạ giá bán nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, kể cả trong và ngoài nước. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, việc hạ giá thành sản phẩm của các ngành sản xuất sẽ mang lại sự tiết kiệm lao động xã hội, tăng tích luỹ cho nền kinh tế nói chung. Đặc biệt khi chính sách thuế của Nhà nước thay đổi. Thuế là hình thức thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, trong đó có thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc hạ giá thành sản phẩm sẽ làm tăng số lợi nhuận do đó làm tăng nguồn thu cho ngân sách. Như vậy, vấn đề hạ giá thành sản phẩm không phải chỉ là vấn đề quan tâm của từng ngành sản xuất, từng doanh nghiệp mà còn là vấn đề của toàn ngành, toàn xã hội.
Đứng trên góc độ quản lý, cần phải biết nguồn gốc, nội dung của giá thành để từ đó biết được nguyên nhân cơ bản nào, những nhân tố cụ thể nào đã làm tăng hoặc giảm giá thành và chỉ trên cơ sở đó ngành quản lý mới đề ra các biện pháp để hạn chế, loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố tiêu cực, phát huy mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tích cực, khai thác khả năng tiềm tàng của việc quản lý sử dụng các nguồn vật tư, lao động và tiền vốn, không ngừng hạ giá thành của từng sản phẩm cũng như của toàn bộ sản phẩm. Để hạ giá thành sản phẩm, biện pháp cơ bản nhất là phải tiết kiệm mọi chi phí trong quá trình tạo ra sản phẩm cũng như chi phí để tiêu thụ sản phẩm. Nói cụ thể là, phải tiết kiệm về nguyên nhiên vật liệu, tiết kiệm nhân công, tiết kiệm chi phí sản xuất chung, chi phí bất thường, chi phí quản lý v..v. Tuy nhiên, tìm mọi biện pháp tiết kiệm trong điều kiện phải đảm bảo nâng cao năng suất lao động và năng cao chất lượng sản phẩm. Làm được điều đó mới thực hiện được mục đích hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tăng cường được chữ “Tín”, tăng tiêu thụ và cuối cùng là tăng lợi nhuận.
2. Tăng thêm sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đây là một biện pháp quan trọng nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Giả sử các điều kiện khác không thay đổi thì khối lượng sản phẩm, hàng hóa dịch vụ, tiêu thụ cung ứng có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Khả năng tăng sản lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp ở nước ta còn rất lớn vì đa số các doanh nghiệp mới chỉ sử dụng khoảng 50-60% công suất máy móc thiết bị. Nếu chúng ta biết tận dụng hết công suất máy móc, thiết bị thì việc tăng sản lượng ngay từ nội lực của doanh nghiệp là một việc hoàn toàn có khả năng thực hiện được. Đi đôi với việc tăng sản lượng của sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ cung ứng phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi vì chất lượng của sản xuất kinh doanh nói chung, chất lượng của sản phẩm nói riêng là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Chất lượng của sản phẩm càng cao thì sản phẩm của doanh nghiệp càng có uy tín trên thị trường, tạo ra sức cạnh tranh lớn để doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ được sản phẩm, đó chính là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện các yếu tố sản xuất không thay đổi, việc đảm bảo và tăng được chất lượng sản phẩm là điều kiện cơ bản để tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Để nâng cao chất lượng, doanh nghiệp cần chú ý tới các yếu tố sau:
Tình hình trang bị, tình trạng kỹ thuật của máy móc thiết bị cũng như việc quản lý sử dụng chúng.
Nguyên vật liệu được cung cấp trong quá trình sản xuất nếu đảm bảo cung cấp vật tư đúng chủng loại, đảm bảo chất lượng sẽ là tiền đề đảm bảo chất lượng của sản phẩm và ngược lại.
Vấn đề quản lý doanh nghiệp nói chung, quản lý sản xuất nói riêng như việc bố trí sắp xếp dây chuyền sản xuất, việc thường xuyên rà soát các định mức, việc tổ chức lao động khoa học, việc áp dụng thưởng phạt có liên quan đến chất lượng sản phẩm
Lực lượng lao động trong đó phải tính đến tay nghề và thái độ, ý thức trách nhiệm của từng người trực tiếp sản xuất
Tăng cường quản lý và sử dụng vốn hợp lý.
Đối với vốn lưu động:
Vốn lưu động là số vốn doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào quá trình sản xuất, lưu thông và từ trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại sau một chu kỳ kinh doanh. Tại một thời điểm nhất định, vốn lưu động tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong các giai đoạn mà vốn đi qua, điều này làm chúng ta khó kiểm soát chặt chẽ chúng. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vốn lưu động là:
Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết, tránh hiện tượng thiếu vốn để làm mất cơ hội kinh doanh hoặc không biết sử dụng nguồn vốn gây ra lãng phí.
Tuyệt đối không để bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài.
Xác định đúng tỷ lệ cho phép của tài sản thuộc các tài sản lưu động.
Liên tục đẩy nhanh vòng quay vốn lưu động.
Thận trọng khi chuyển một bộ phận vốn lưu động thành vốn cố định hay ngược lại.
Muốn thực hiện thành công các biện pháp nói trên, doanh nghiệp cần phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật, áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại và trình độ thành thạo tay nghề của người lao động. Bên cạnh đó, về phía Nhà nước cũng cần có chính sách kinh tế, pháp luật phù hợp, nhằm tạo ra môi trường pháp lý, môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng hấp dẫn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngày càng phát triển và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều. Từ đó sẽ góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, dân giàu nước mạnh như đường lối lãnh đạo của Đảng.
Đối với vốn cố định:
Sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm có quan hệ mật thiết với việc hạ thấp chi phí và giá thành. Đặc biệt việc tổ chức tốt việc quản lý và sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp với số vốn hiện có có thể tăng được khối lượng sản xuất sản phẩm, tiết kiệm được chi phí và hạ giá thành sản phẩm, góp phần quan trọng vào lợi nhuận của Công ty.
Quản lý chặt chẽ và sử dụng tốt vốn cố định giúp cho doanh nghiệp bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. Vốn cố định của doanh nghiệp thường chi phối năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Nó tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh và sau một thời gian dài mới được thu hồi toàn bộ. Trong quá trình đó, có nhiều rủi ro có thể nẩy sinh dẫn đến tình trạng doanh nghiệp có thể mất vốn cố định như : Lạm phát ở mức cao, thiên tai hoả hoạn hoặc quản lý lỏng lẻo hoặc sử dụng không tốt tài sản cố định đặc biệt là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Tiến bộ khoa học kỹ thuật một mặt tạo ra những máy móc hiện đại , có công suất cao, có quy trình công nghệ tiên tiến, mặt khác nó lại là nguyên nhân trực tiếp tạo ra rủi ro lớn đối với máy móc thiết bị và công nghệ đang dùng. Đó là hao mòn vô hình.
Phần II
tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (tracimexco - hà nội)
I. Quá trình hình thành & phát triển của Công ty từ khi thành lập đến nay.
1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế của một quốc gia, vấn đề đầu tiên tạo cơ sở tiền đề cho quá trình phát triển đó là cơ sở hạ tầng, khi có cơ sở hạ tầng vững chắc các ngành nghề trong nền kinh tế sẽ được đầu tư và phát triển, chính cơ sở lý luận đó ngành giao thông vận tải có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Và Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Trước hết, để tìm hiểu Công ty Tracimexco Hà nội, ta cần tìm hiểu khái quát về Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (Tracimexco).
Tiền thân của Công ty là Cục tư vấn đầu tư và dịch vụ hợp tác quốc tế giao thông vận tải thành lập tháng 8/1988, đến năm 1991 đổi tên thành Công ty (Tổng Công ty tư vấn đầu tư và dịch vụ hợp tác quốc tế). Sau một thời gian phát triển, năm 1992 Công ty Tracimexco ra đời dưới sự hợp nhất của hai Công ty Tracimex và Viettraximex. Và là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ giao thông vận tải. Bước vào những năm của thời kỳ đổi mới (công nghiệp hoá, hiện đại hóa) Tracimexco đạt được kết quả to lớn, góp phần cho công cuộc xây dựng đất nước. Với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là kinh doanh XNK vật tư, thiết bị phương tiện ngành giao thông vận tải, Công ty đã chiếm vị trí quan trọng trong ngành giao thông vận tải, do vậy Công ty đã có mặt ở nhiều nơi, có nhiều chi nhánh, xí nghiệp. Tracimexco Hà nội là một trong những chi nhánh của Tracimexco ở miền Bắc và được thành lập qua 3 lần đổi tên:
Theo quyết định số 814 QĐ/TCCB- LĐ ngày 2/6/1994 của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải: “chuyển toàn bộ phần còn lại của Tổng Công ty tư vấn đầu tư và dịch vụ hợp tác quốc tế - Interco” thành “Xí nghiệp dịch vụ đầu tư thương mại - ITS” trực thuộc Công ty XNK và hợp tác quốc tế (Tracimex), tên giao dịch là Tracimex-ITS.
Ngày 26/1/1996, theo quyết định số 140 QĐ/ TCCLB- LĐ của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải đổi tên “Xí nghiệp dịch vụ đầu tư và thương mại” thành “Xí nghiệp sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị - Tramed Hà nội”, trực thuộc Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (Tracimexco).
Đến ngày 15/4/1997 theo quyết định số 908 QĐ/ TCCLB-LĐ của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải đổi tên “Xí nghiệp sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị” thành “Chi nhánh Tracimexco Hà nội” trực thuộc Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải.
Công ty là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập có tư cách pháp nhân có tài khoản riêng ở ngân hàng có con dấu riêng, hoạt động tuân thủ pháp luật Việt Nam, quản lý theo chế độ một thủ trưởng và theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, quản lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích tập thể và lợi ích người lao động trực tiếp. Với nguyên tắc hoạt động trên, ngày nay Tracimexco Hà nội đang vững bước trên con đường của mình.
Chức năng, nhiệm vụ của Công ty.
2.1. Chức năng.
Là một chi nhánh của Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (một Công ty lớn của Bộ giao thông vận tải) Tracimexco Hà nội có những chức năng sau:
Thông qua các hoạt động kinh doanh XNK, liên doanh, hợp tác với nước ngoài để thực hiện chức năng chính là nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị phục vụ ngành giao thông vận tải, tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa từ nước ngoài tới các tổ chức cá nhân tiêu dùng nội địa, đáp ứng yêu cầu của các ngành trong nền kinh tế quốc dân và góp phần tạo công ăn việc làm, cũng như tăng tích lũy cho ngân sách Nhà nước (thông qua nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước).
2.2. Nhiệm vụ.
Bao gồm những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Xuất nhập khẩu và kinh doanh vật tư, thiết bị phương tiện giao thông vận tải và các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp khác.
Lắp ráp, phục hồi, tân trang thiết bị, phương tiện giao thông vận tải.
Vận tải đường biển, đường bộ.
Dịch vụ đại lý vận chuyển hàng hóa quốc tế và đại lý hàng hải.
Dịch vụ tư vấn gọi vốn nước ngoài để phục vụ xây dựng cơ sở vật chất ngành giao thông vận tải.
Hợp tác xuất khẩu lao động.
Sản xuất kinh doanh XNK vật liệu xây dựng, trang trí nội thất và chuyển giao công nghệ mới xây dựng công trình giao thông vận tải bằng vật liệu xây dựng mới.
Dịch vụ du lịch- kinh doanh khách sạn.
Dịch vụ thông tin thương mại và hợp tác quốc tế giao thông vận tải.
Với các nhiệm vụ trên, Tracimexco Hà nội quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh nhà nước giao khai thác và tự tạo nguồn bằng mọi cách, hình thức hợp lý để sản xuất kinh doanh, đồng thời tự đảm bảo, trang trải về mặt tài chính, tự tạo điều kiện để thúc đẩy kinh doanh phát triển nhằm tạo hiệu quả cao.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
3.1. Tổ chức bộ máy quản lý
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý
Giám đốc
Phòng Kinh doanh XN khẩu
Phòng tài chính kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Trung tâm dịch vụ thương mại và vận tải
Phòng vận tải và giao nhận hàng hoá
Qua sơ đồ trên ta thấy hiện nay Công ty đang hoạt động với cơ cấu tổ chức như sau:
Đứng đầu là giám đốc chi nhánh Tracimexco Hà nội, là người lãnh đạo cao nhất, chịu trách nhiệm điều hành chung về mọi hoạt động của Công ty. Là người đại diện cho mọi quyền lợi và nghĩa vụ của Công ty trước pháp luật và cơ quan chủ quản. Do vậy, Giám đốc phải xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phải xác định được phương hướng, cách thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra tạo điều kiện để các phòng ban chức năng, các cửa hàng, trung tâm trực thuộc Công ty thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng của mình.
3.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban.
* Phòng hành chính tổng hợp:
Giúp giám đốc Công ty quản lý các mặt công tác như chỉ huy điều hành quản lý các mặt thuộc tổ chức nhân sự, thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với người lao động, làm tốt công tác bảo vệ người lao động. Tham mưu quản lý chỉ đạo nghiệp vụ, các mặt công tác tổ chức cán bộ nhân sự lao động tiền lương, đào tạo thi đua khen thưởng, kỷ luật
* Phòng tài chính kế toán:
Giúp ban giám đốc thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, thống kê tài chính, thông tin kinh tế trong Công ty, lập và thực hiện các kế hoạch tài chính và các báo cáo tài chính.
Tham mưu quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ về công tác tài chính kế toán, thống kê của Công ty, chức năng nhiệm vụ của phòng tài chính kế toán:
Phân phối và điều hoà vốn, phục vụ cho sản xuất và kinh doanh của Công ty. Bố trí vốn cho XNK, cung ứng vật tư, XDCB, sửa chữa công trình cho Công ty.
Tham mưu cho giám đốc ban hành, theo dõi và thực hiện các quy chế pháp lý về kinh tế tài chính, quyết toán và phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh, xử lý những tồn tại trong sản xuất kinh doanh về mặt tài chính.
Đề xuất, kiến nghị, bổ sung sửa chữa những bất hợp lý trong chi phí lưu thông, giá cả hàng hoá Công ty đang thực hiện.
Chịu trách nhiệm công tác thống kê của Công ty về doanh số mua vào, bán ra giá trị hàng tồn kho
Giải quyết công nợ mua bán hàng hoá và các khách hàng khác của Công ty, quản lý tài sản của Công ty
Tham gia dự án về ký kết hợp đồng kinh doanh
* Phòng kinh doanh:
Chức năng, nhiệm vụ của phòng kinh doanh bao gồm:
Tham mưu cho lãnh đạo về quản lý nghiệp vụ kinh doanh, XNK và thị trường, xây dựng kế hoạch XNK
Tổng hợp và lập các kế hoạch của Công ty trình lên cấp trên
Lo các thủ tục hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép và các thủ tục xuất khẩu, tham mưu cho lãnh đạo Công ty ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
Trực tiếp quản lý mặt hàng kinh doanh, tìm biện pháp giải quyết hàng tồn, hướng dẫn và kiểm tra việc quản lý kho cùng phòng tài chính đánh giá tài sản
Quan hệ với các Bộ, Nhà nước để Công ty tham gia các dự án
* Phòng vận tải và giao nhận hàng hóa:
Quản lý và thực hiện toàn bộ công tác vận tải hàng hóa, làm thủ tục xuất nhập khẩu nội địa của chi nhánh. Tiếp thị và mở rộng bạn hàng trong công tác vận tải và giao nhận hàng hóa nội địa và quốc tế. Quản lý hai đại lý vận tải quốc tế là SDV/TTA Pháp và LOHIG úc theo sự ủy quyền của giám đốc chi nhánh.
* Trung tâm dịch vụ thương mại và vận tải (Hải Phòng):
Là trung tâm kinh doanh của chi nhánh đại diện tại Hải Phòng, hoạt động sản xuất kinh doanh theo ủy quyền của giám đốc chi nhánh với mọi chức năng ngành nghề được giao.
Tổ chức bộ máy kế toán và công tác kế toán của Công ty.
4.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán.
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của Công ty
Kế toán trưởng
Kế toán
tổng hợp
Kế toán thanh toán ngân hàng
Kế toán quỹ
(thủ quỹ)
Kế toán thanh toán với khách hàng
- Kế toán trưởng: Điều hành và tổ chức công việc trong phòng, hướng dẫn hạch toán, quan hệ với các cơ quan tài chính, tổ chức, ngân hàng. Ngoài ra còn chịu trách nhiệm về các thuyết minh báo cáo tài chính, độ chính xác và trung thực của thông tin, tham mưu cho giám đốc
- Kế toán tổng hợp: Có nhiệm vụ thực hiện công tác kế toán cuối kỳ, giữ sổ cái tổng hợp cho tất cả các phần hành và phần ghi sổ cái tổng hợp, lập báo cáo nội bộ báo cáo lên Công ty theo định kỳ báo cáo
- Kế toán thanh toán ngân hàng: Lập các chứng từ thanh toán qua ngân hàng, theo dõi và định khoản hạch toán các khoản báo nợ, báo có qua ngân hàng để xác định số dư của tài khoản tiền gửi, tài khoản tiền vay qua ngân hàng
- Kế toán quỹ: Tập trung vào các nghiệp vụ thu chi tiền mặt trực tiếp phục vụ nhu cầu về tiền mặt, cuối tháng tập trung tổng kết tình hình thu chi tiền mặt trong phòng kế toán.
- Kế toán thanh toán với khách hàng: Theo dõi các chứng từ thu, chi liên quan đến các khoản vốn bằng tiền (tiền mặt, tiền vay...), theo dõi các khoản thanh toán với người mua, người bán.
4.2. Tổ chức sổ kế toán.
Hình thức tổ chức sổ kế toán tại Công ty: Chứng từ ghi sổ
Phương pháp hạch toán hàng tồn kho : Kê khai thường xuyên
Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng: Theo phương pháp khấu trừ
Sơ đồ trình tự ghi sổ kế toán
Bảng tổng hợp chứng từ gốc
Sổ, thẻ kế toán chi tiết
Chứng từ gốc
Sổ quỹ
Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
Chứng từ ghi sổ
Bảng
tổng
hợp
chi
tiết
Sổ cái
Bảng cân đối số phát sinh
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
II. Tình hình thực hiện lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải hà nội
1.Kết quả hoạt động của Công ty trong năm 2002 - 2003
1.1. Những kết quả Công ty đã đạt được trong hai năm qua .
Mỗi một doanh nghiệp muốn hình thành, vận hành và phát triển thì điều kiện đầu tiên doanh nghiệp đó phải có một số vốn kinh doanh nhất định. Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà nội trong hai năm qua đã gặt hái được những thành tựu đáng kể. Do đó trước khi xem xét tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty chúng ta hãy xem xét về tài sản, vốn và nguồn vốn đảm bảo cho Công ty hoạt động trong hai năm 2002-2003 như thế nào. Qua bảng tài sản và nguồn vốn ta thấy:
Bảng 1. Khái quát tài sản và nguồn vốn của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
So sánh 2003/2002
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tuyệt đối
Tỷ lệ (%)
I
Tài sản
27.328
100
34.537
100
7.209
26,4
1
TSLĐ
18.824
68,9
25.256
73,1
6.432
34,2
2
TSCĐ
8.504
31,1
9.281
26,9
0.777
9,1
II
Nguồn vồn
27.328
100
34.537
100
7.209
26,4
1
Nợ phải trả
25.218
92,3
30.752
89,0
5.534
22,0
2
Vốn CSH
2.110
7,7
3.785
11,0
1.675
79,4
(Số liệu từ báo cáo tài chính)
Qua bảng số liệu trên, ta thấy năm 2003, tài sản lưu động chiếm 73,1% trong tổng tài sản, tài sản cố định chiếm 26,9% trong tổng tài sản. Điều này cho thấy Công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh là chính. Ta có thể thấy rằng so với năm 2002 thì năm 2003 có sự tăng lên cả về tài sản và nguồn vốn.
So sánh giữa 2 năm 2002 và 2003 thì thấy rằng: Tổng tài sản của Công ty năm 2003 so với năm 2002 tăng 7.209 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 26,4%. Tỷ lệ tăng như vậy cho thấy tình hình tài sản của Công ty đã có sự thay đổi và có những bước phát triển đi lên. Tài sản lưu động của Công ty năm 2003 tăng 6.432 triệu đồng so với năm 2002 tương ứng với 34,2%, nhưng tài sản cố định lại tăng rất ít, chỉ có 0.777 triệu đồng so với năm 2002, tương ứng với 9.1%
Cơ cấu nguồn vốn cũng có sự thay đổi. Nợ phải trả năm 2003 tăng 5.534 triệu đồng so với năm 2002 với tỷ lệ tăng là 22,0%. Nguồn vốn chủ sở hữu năm 2003 tăng 1.675 triệu đồng, tương ứng với 79,4%. Điều này chứng tỏ rằng Công ty đã có những khoản vay dài hạn và ngắn hạn tăng lên so với năm 2002, đặc biệt là Công ty đã có nhiều cố gắng tăng nguồn vốn chủ sở hữu. Trong nguồn vốn chủ sở hữu so với tổng nguồn vốn còn thấp (7,7% năm 2002 và 11% năm 2003). Nhưng vốn chủ sở hữu năm 2003 so với năm 2002 tăng đáng kể với tỷ lệ là 79,4%. Điều này có tác dụng tích cực đối với Công ty trong việc chủ động trong sử dụng vốn mặt khác giảm lãi suất vay vốn.
Từ bảng trên, ta nhận thấy tổng nguồn vốn của Công ty đang có xu hướng tăng lên. Như vậy Công ty đã tìm được hướng đi đúng và có một vị trí trên thị trường. Tuy nhiên để đánh giá hiệu quả đồng vốn kinh doanh của Công ty, chúng ta phải xem xét kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển doanh nghiệp chỉ có sự lựa chọn duy nhất là sản xuất hoạt động kinh doanh phải có hiệu quả thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận đạt được. Không nằm ngoài quy luật đó, mọi cố gắng nỗ lực của Công ty trong những năm qua là vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Muốn tối đa hoá lợi nhuận thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá theo đúng ngành nghề đã đăng ký mà còn có thể tiến hành các hoạt động khác(hoạt động tài chính, hoạt động bất thường). Để thấy được tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty ta xem xét bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Qua bảng dưới đây ta có thể nhận xét như sau:
Doanh thu bán hàng của Công ty năm 2002 là 83.452,94 triệu đồng, năm 2003 là 95.620,36 triệu đồng, tăng 12.167,12 triệu đồng so với năm 2002, tương ứng với 14,58%. Đây là tỷ lệ tăng thể hiện sự nỗ lực trong sản xuất kinh doanh và khả năng tiêu thụ hàng hóa của Công ty.
Doanh thu thuần năm 2003 cũng tăng so với năm 2002 là 12.242,06 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 14,7%. Đặc biệt, các khoản giảm trừ trong năm 2003 giảm so với năm 2002 là -34,8% chỉ còn 139,72 triệu đồng. Con số này cho thấy trong năm 2003 doanh nghiệp không ngừng cố gắng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh do đó mà sang năm 2003 số lượng hàng bán bị trả lại giảm hẳn so với năm 2002 là -74,64 triệu đồng.
Do doanh thu của Công ty tăng nên lợi nhuận gộp của Công ty cũng tăng theo. Năm 2003 lợi nhuận gộp của Công ty đạt 3.765,37 triệu đồng, tăng so với năm 2002 là 698,95 triệu đồng, tương ứng với 22,8%. Công ty không những chú trọng đến việc tiết kiệm chi phí kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Trong 2 năm qua, Công ty đã thực hiện rất tốt việc quản lý và sử dụng chi phí kinh doanh của mình, điều đó được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
TT
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
So sánh 2003/2002
Số TĐ
%
A
B
1
2
3
4
1
Tổng doanh thu
83.452,94
95.620,36
12.167,42
14,58
2
Các khoản giảm trừ
214,36
139,72
-74,64
-34,8
3
Doanh thu thuần (3=1-2)
83.238,58
95.480,64
12.242,06
14,7
4
Giá vốn hàng bán
80.172,16
91.715,27
11.543,11
14,4
5
Lợi nhuận gộp (5=3-4)
3.066,42
3.765,37
698,95
22,8
6
Chi phí bán hàng
947,63
668,42
-279,21
-29,46
7
Chi phí QLDN
1.642,53
2.179,21
436,68
21,38
8
Lợi nhuận thuần từ HĐKD
476,26
917,74
441,48
92,70
9
Thu nhập HĐ tài chính
525,396
773,434
248,038
47,21
10
Chi phí hoạt động tài chính
907,980
1.263,738
355,758
36,98
11
Lợi nhuận HĐTC
-382,584
-490,304
-107,72
-28,16
12
Thu nhập bất thường
264,61
352,76
88,15
33,3
13
Chi phí bất thường
89,72
107,69
17,97
20,03
14
Lợi nhuận HĐ bất thường
174,89
245,07
70,18
40,13
15
Lợi nhuận trước thuế
268,566
672,506
403,94
150,40
16
Thuế thu nhập DN phải nộp
85,94
215,20
129,26
150,40
17
Lợi nhuận sau thuế
182,626
457,306
274,68
150,40
18
Thu nhập bình quân
1,023
1,135
0,112
10,9
Trong năm 2003, mặc dù doanh thu tăng 14,58% so với năm 2002 nhưng chi phí bán hàng lại giảm hẳn từ 947,63 triệu đồng trong năm 2002 xuống 668,42 triệu đồng trong năm 2003, tỷ lệ giảm là -29,46%. Điều đó chứng tỏ Công ty đã tiết kiệm được chi phí cho việc tiêu thụ hàng hóa của Công ty. Ngược lại, năm 2003 chi phí quản lý doanh nghiệp của Công ty tăng 436,68 triệu đồng, tăng 21,38% so với năm 2002. Điều nàyđòi hỏi Công ty phải có nhiều biện pháp khắc phục giảm tối đa những khoản chi tiêu để thực hiện tối đa hóa lợi nhuận cho Công ty của mình.
Như chúng ta đã biết: Lợi nhuận = Doanh thu thuần - Chi phí
Từ công thức trên ta thấy doanh thu thuần là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh thu tăng kéo theo lợi nhuận tăng. So với năm 2002 thì năm 2003 lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty tăng 441,48 triệu đồng đạt 917,74 triệu đồng so với 476,26 triệu đồng của năm 2002, tỷ lệ tăng là 92,70%
Lợi nhuận từ hoạt động tài chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24405.DOC