Luận văn Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang EU

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ 2

I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ 2

1. Khái niệm 2

2. Đặc điểm 3

3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 3

3.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 3

3.2 Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 4

II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 4

1. Xuất khẩu trực tiếp 5

2. Hoạt động gia công xuất khẩu 5

3. Hoạt động xuất khẩu uỷ thác 5

4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu 6

5. Xuất khẩu theo nghị định thư 6

III. CÁC LÝ THUYẾT XUẤT KHẨU 6

1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith 6

2. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo 7

3. Mô hình chuẩn của Hecksher – Ohlin 8

IV. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 9

1. Môi trường chính trị 10

2. Chính sách trợ cấp của chính phủ 10

3. Các hiệp định thương mại 10

4. Chính sách tỷ giá hối đoái 10

5. Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế 11

6. Rủi ro 12

7. Các chính sách thuế 12

- Thuế quan 12

- Trợ cấp xuất khẩu 12

- Hạn ngạch 12

8. Các yếu tố khoa học công nghệ 13

9. Nhân tố con người 13

V. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU 13

1. Cách xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu 13

2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu 14

- Tỷ xuất lợi nhuận của vốn sản xuất kinh doanh 14

- Tỷ suất lợi nhuận của doanh số bán thực hiện 14

- Tỷ suất lợi nhuận của tổng chi phí sản xuất kinh doanh 14

- Tỷ suất giá trị gia tăng (GTGT) của tổng giá trị kinh doanh 14

- Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu: 15

- Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu (DX) 15

- Chỉ tiêu lợi nhuận trong xuất khẩu 16

VI. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC 17

1. Kinh nghiệm của Nhật Bản - điển hình cho nhóm nước tư bản công nghiệp phát triển. 17

2. Kinh nghiệm của Trung Quốc. 17

3. Kinh nghiệm của Malayxia. 18

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VIỆC XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG LIÊN MINH CHÂU ÂU TRONG THỜI GIAN QUA 19

I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN TRONG VIỆC MỞ RỘNG QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN MINH CHÂU ÂU 19

Vị thế của EU trên thế giới 19

Nền tảng quan hệ ngoại thương Việt Nam – EU 21

1.1.Việt Nam 21

2.2. EU 23

II. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU) THỜI GIAN QUA 25

1. Trước năm 1990 25

2. Sau năm 1990 26

3. Các Hiệp định thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam – EU. 29

4. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU 30

4.1. Cơ cấu bạn hàng 30

4.2. Cơ cấu mặt hàng 31

Hàng dệt may: 31

Hàng giày dép: 33

Hàng thủy sản: 35

5. Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu Việt Nam – EU thời gian qua 40

5.1. Quy mô thương mại 40

5.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam 44

5.3. Quan hệ giữa các đối tác 48

III. THUẬN LỢI VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN THÁCH THỨC CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁVIỆT NAM SANG EU 49

1. Thuận lợi 49

a) Tạo dựng thế và lực trên thương trường quốc tế 49

b) Giải quyết vấn đề thị trường 50

c) Việt Nam và EU là hai nền kinh tế thị trường ở các trình độ khác nhau nên có thể bổ sung cho nhau, tăng cường thu hút đầu tư, công nghệ. 50

d) Việt Nam được hưởng chế độ ưu đãi của EU 50

e) Thay đổi chuyển dịch cơ cấu kinh tế 51

2. Những khó khăn thách thức xuất khẩu sang EU 51

2.1. Nhóm khó khăn liên quan tới Việt Nam 51

(a) Chất lượng hàng hoá Việt Nam chưa thoả mãn thị trường 51

(b) Hàng xuất khẩu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu bên ngoài 53

(c) Bị thiệt do làm hàng gia công xuất khẩu 53

Doanh nghiệp chưa coi trọng vai trò của công nghệ hiện đại 54

(e) Hệ thống luật pháp kinh tế, thương mại của nước ta còn cồng kềnh, không ổn định 54

Nhóm khó khăn liên quan đến EU 55

EU chưa có một chiến lược thúc đẩy xuất khẩu cụ thể đối với Việt Nam 55

Giá hàng hoá của EU còn cao, không phù hợp với tiềm năng tài chính của Việt Nam 55

EU chưa có một kênh phân phối sản phẩm chung tại thị trường Việt Nam cũng như một đầu mối xuất khẩu thống nhất sang thị trường các nước Đông Nam Á 56

EU vẫn xem Việt Nam là nước có nền thương nghiệp quốc doanh khi áp dụng những biện pháp chống bán phá giá 56

EU vẫn dùng các biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá Việt Nam 56

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU 58

I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU TRONG GIAI ĐOẠN MỚI 58

1. Định hướng chung về phát triển thương mại của Việt Nam 58

2. Định hướng phát triển thương mại Việt Nam - EU 58

II. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - EU 59

Chủ đề 2: Tăng cường quan hệ kinh tế giữa Châu Á và Châu Âu 60

Chủ đề 3: Hợp tác về phía các doanh nghiệp 61

1. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá sang EU giai đoạn 2000 - 2004 61

2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá sang EU giai đoạn 2005 - 2010 62

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦAVIỆT NAM – EU 63

1. Nhóm các giải pháp vĩ mô 63

1.1. Nâng cao vai trò của cơ quan quản lý 63

1.1.1. Dự báo và thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp và người sản xuất trong nước biết thị trường cần gì trong năm nay và trong một vài năm tới 64

1.1.2. Đàm phán, ký kết các văn bản pháp lý với các nước thành viên EU 64

1.1.3. Giới thiệu cho các doanh nghiệp những nguồn thị trường hấp dẫn trong khối EU 65

1.1.4. Tổ chức doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm tại các nước thành viên EU 65

1.1.5. Tích cực tạo lập thông tin hai chiều 66

1.2. Tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu vào EU 67

1.2.1. Thành lập thí điểm Quỹ xuất khẩu mậu dịch vào EU 67

1.2.2. Sớm thành lập và phát triển Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu và các loại quỹ tín dụng khác 67

1.3. Tăng lực đẩy cho xuất khẩu 68

1. Hàng dệt may 68

2. Hàng da – giày 68

3. Thuỷ sản 69

1.4. Kêu gọi hỗ trợ tài chính từ các nước thành viên EU 69

1.5. Hợp tác với EU chống gian lận thương mại, giữ uy tín hàng hoá Việt Nam 69

1.6. Đấu thầu hạn ngạch, tiến tới bán hạn ngạch 70

1.7. Xác định “cầu nối” với EU 70

1.8. Tăng cường hợp tác với Uỷ ban châu Âu 70

1.9. Nâng cao vai trò của Nhà nước để san bằng khoảng cách chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu 71

1.10. Hoàn thiện chính sách thương mại theo hướng phù hợp với xu thế thương mại quốc tế 71

1.10.1. Đơn giản hoá các mức thuế xuất, nhập khẩu, tiến tới bãi bỏ thuế xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu, giảm dần thuế suất thuế nhập khẩu, giảm số lượng mức thuế suất thuế nhập khẩu, mở rộng khoảng cách giữa các mức thuế. 72

1.10.2. Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định giá trị hải quan theo quy định của GATT/WTO. Giá tính thuế nhập khẩu nên xác định trên cơ sở hợp đồng ngoại thương. 72

1.10.3. Về các biện pháp phi thuế quan: 72

1.10.4. Về thể chế thương mại 72

2. Nhóm giải pháp vi mô 73

2.1. Đầu tư cho công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá 73

2.2. Đảm bảo thực hiện các điều khoản hợp đồng 73

2.3. Quan tâm đến từng chi tiết của hợp đồng 74

2.4. Tạo lập quan hệ với các kênh phân phối chủ đạo của EU 74

2.5. Nghiên cứu kỹ thị trường 75

SƠ ĐỒ 2: KÊNH TIÊU THỤ GIẦY DÉP 75

Nguồn: Eurostat 75

2.6. Tận dụng thông tin từ nhiều phía 76

2.7. Khuyếch trương sản phẩm tại các hội chợ thương mại ở Châu Âu 77

2.8. Không dựa mãi vào mặt hàng sẵn có 78

2.9. Tăng cường áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 79

3. Nhóm giải pháp liên quan đến đồng EURO 83

3.1. Nhanh chóng chấp nhận sử dụng EURO trong thanh toán quốc tế 83

3.2 Thiết lập nền móng EURO trong ngoại thương Việt Nam với EU 84

3.3. Điều chỉnh luật và các nghị định về quản lý ngoại hối nhằm cho phép sử dụng EURO trong các giao dịch quốc tế 85

3.4. Xem xét thành phần dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước 85

3.5. Xem xét việc lập tỷ giá chuẩn cho rổ tiền tệ và điều chỉnh tỷ giá VND/EUR linh hoạt, căn cứ vào nhiều ngoại tệ 85

KẾT LUẬN 87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89

Phụ lục 1 93

LIÊN MINH CHÂU ÂU - ĐẠI SỰ KÝ 93

Phụ lục 2 101

Phụ lục 3 109

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIỆP ĐỊNH HỢP TÁC GIỮA CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CỘNG ĐỒNG CHÂU ÂU 109

Phụ lục 4 114

TÓM TẮT HIỆP ĐỊNH VỀ BUÔN BÁN 114

Phụ lục 5 119

THUẾ NHẬP KHẨU CỦA EU CHO NĂM 2000 VÀ THUẾ ƯU ĐÃI THEO QUY CHẾ GSP 119

ÁP DỤNG TỪ THÁNG 7 NĂM 1999 - THÁNG 12 NĂM 2001 ĐỐI VỚI CÁC SẢN PHẨM ĐƯỢC CHỌN LỰA 128

 

 

doc134 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2382 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạn ngạch EU. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Bộ Thương mại, sức tiêu thụ tại thị trường này đang có dấu hiệu giảm. Hơn nữa, Việt Nam đã ký với EU về hạn ngạch đến hết 2002. Sau 2004, khi cam kết xoá bỏ hạn ngạch trong WTO có hiệu lực, liệu EU có tiếp tục cấp hạn ngạch cho Việt Nam hay không còn chưa rõ ràng. (b) Hàng xuất khẩu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu bên ngoài Khả năng tự chủ nguyên liệu là một yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt là mặt hàng dệt may. Ngành dệt chủ yếu phải nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài (trên 90%), do hệ thống máy móc công nghệ của các xí nghiệp trong nước rất lạc hậu, sản xuất ra sợi và vải không đáp ứng được yêu cầu chất lượng cho các xí nghiệp xuất khẩu nên chủ yếu tiêu thụ trong nước đến trên 70% doanh thu. Nguyên liệu nhập khẩu đôi khi chất lượng cũng không đảm bảo và chỉ có thể kiểm soát được trong qúa trình sản xuất. Mặt hàng chưa tạo được uy tín về chất lượng trên thế giới nên sản phẩn may của Việt Nam phải mượn mác nước ngoài để xuất khẩu. Từ những yếu tố trên, ngành dệt may bị ép giá cao khi nhập khẩu nguyên vật liệu, sau đó lại bị ép hạ giá khi bán sản phẩm ra nước ngoài. Chi phí đầu vào cao trong khi giá cả đầu ra lại thấp dẫn tới hiệu quả xuất khẩu trong ngành dệt may của Việt Nam thấp hơn so với các nước khác. (c) Bị thiệt do làm hàng gia công xuất khẩu Mặc dù kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU tăng nhanh, nhưng chủ yếu xuất khẩu theo hình thức gia công ( chiếm 70% kim ngạch) nên hiệu quả thực tế rất nhỏ(25 – 30% tổng doanh thu). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là: Ngành giày không được sự hỗ trợ của ngành da và các ngành sản xuất nguyên vật liệu phụ khác. Các doanh nghiệp không nắm bắt được nhu cầu mẫu mã giày dép là do khâu tiếp cận thị trường không quan hệ trực tiếp với các nhà nhập khẩu EU mà chủ yếu là qua trung gian. Thời gian qua, các doanh ngiệp chủ yếu làm gia công cho nước ngoài nên không có cơ sở nào quan tâm đến đa dạng hoá, nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm xuất khẩu. do vậy chất lượng giày dép của Việt Nam chưa cao, kiểu dáng còn đơn điệu. Nếu kéo dài tình trạng này thì trong những năm tới đây khi không còn được bảo trợ bởi GSP thị mặt hàng này sẽ không thể đứng vững khi sản phẩm cùng loại của Trung Quốc và ASEAN cả về giá cả và mẫu mã. Doanh nghiệp chưa coi trọng vai trò của công nghệ hiện đại Theo phân tích trên ta nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam chưa có ý thức về vai trò của công nghệ tiên tiến và hiện đại. Đa số các doanh nghiệp đều ham rẻ; họ chọn mua hoặc công nghệ loại thế hệ hai của các nước công nghiệp phát triển; hoặc công nghệ rẻ tiền của các nước Châu Á. Hai loại công nghệ này có tuổi thọ không lâu, hiệu quả thì lại thấp. Rốt cục, các doanh nghiệp chỉ có thể khai thác công nghệ trong một thời gian ngắn, mà các sản phẩm lại không có chất lượng và mẫu mã đạt tiêu chuẩn cạnh tranh quốc tế. Hiện nay, EU đã tiến tới công nghệ “sạch”, có nghĩa là công nghệ và sản phẩm đều không gây tác động xấu đến môi trường. Nếu không bắt kịp được xu hướng này, chẳng bao lâu nữa hàng hoá Việt Nam sẽ không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường EU bởi hàm lượng công nghệ quá thấp mà mức độ ảnh hưởng xấu đến môi trường lại cao. (e) Hệ thống luật pháp kinh tế, thương mại của nước ta còn cồng kềnh, không ổn định Mặc dầu có thay đổi trong chính sách thương mại năm 1999, song Việt Nam vẫn thể hiện rõ sự bảo hộ sản xuất trong nước. Trên đường tới AFTA và WTO, Việt Nam đã phải cắt giảm hàng rào phi thuế quan (các biện pháp hạn chế nhập khẩu, phụ thu,...). Tuy nhiên, mới đây nước ta đã tăng thuế nhập khẩu 13 nhóm mặt hàng, trong đó có rượu, ôtô, xe tải, gạch ốp lát, đồ thuỷ tinh, quạt dân dụng,...Mức tăng dao động từ 5% đến 50%. Việc tăng thuế sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu những mặt hàng này nhưng lại sẽ có lợi cho các xí nghiệp sản xuất trong nước. Do đó, tình trạng độc quyền của một số doanh nghiệp lớn sẽ nảy sinh và người tiêu dùng tất yếu phải trả thêm một khoản tiền cho hàng hoá, mà nếu xét trong bối cảnh cạnh tranh tự do, họ sẽ không phải mất khoản tiền này. Những hàng hoá nhập khẩu từ EU đương nhiên cũng không có ngoại lệ. Cho dù có đang được hưởng thuế diện ưu đãi đi chăng nữa, nhưng việc tăng thêm 1% thuế nhất định trên mức thuế cũ cũng sẽ gây nhiều khó khăn cho hàng hoá EU vào Việt Nam. Nhóm khó khăn liên quan đến EU EU chưa có một chiến lược thúc đẩy xuất khẩu cụ thể đối với Việt Nam Việt Nam chưa được coi là khách hàng quan trọng của EU nên họ chưa có một chiến lược thâm nhập thị trường Việt Nam đầy đủ. Thông tin về các sản phẩm của EU còn ít, không đầy đủ và liên tục. Các mặt hàng mà chúng ta nhập từ EU chủ yếu là các mặt hàng truyền thống với các nhãn hiệu quen thuộc, chúng ta không có nhiều thông tin về các mặt hàng mới với công nghệ thực sự mang tính đột phá. Thương vụ của các đại sứ quán các nước EU tại Việt Nam thực sự cũng chưa phát huy hết vai trò giới thiệu các sản phẩm của các công ty nước mình cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như tìm hiểu nhu cầu từ phía Việt Nam. Giá hàng hoá của EU còn cao, không phù hợp với tiềm năng tài chính của Việt Nam Sản phẩm của EU được sản xuất với công nghệ cao, theo những tiêu chuẩn về kỹ thuật cao nhất, giá nhân công cao vì vậy giá thành thường cao hơn so với các mặt hàng cùng loại của một số quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc. Doanh nghiệp Việt Nam lại có tiềm năng về tài chính hạn chế nên khi quyết định nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, nhất là thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất, họ sẽ có xu hướng lựa chọn các sản phẩm có chất lượng tương tự và giá thành hợp lý hơn. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn đi thì giải pháp của các doanh nghiệp Việt Nam cũng là hợp lý. EU chưa có một kênh phân phối sản phẩm chung tại thị trường Việt Nam cũng như một đầu mối xuất khẩu thống nhất sang thị trường các nước Đông Nam Á Các sản phẩm EU hiện đang có mặt tại Việt Nam đều do các hãng sản xuất, các quốc gia EU riêng biệt tổ chức giới thiệu và phân phối. EU chưa có một kênh phân phối sản phẩm chung cho cả khối nhằm giới thiệu sản phẩm một cách quy mô, thống nhất. EU cũng chưa thành lập được những đầu mối xuất khẩu chính thức sang Việt Nam vì thế nhiều khi cùng một mặt hàng xuất khẩu của EU có giá cả và chế độ bảo hành khác nhau khi chúng được xuất đi từ các nước thành viên khác nhau. Điều đó đã gây ra không ít trở ngại cho các nhà nhập khẩu Việt Nam vốn đã thiếu thông tin. Nhiều trường hợp chúng ta đã phải khảo giá tại cả 15 nước EU trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. EU vẫn xem Việt Nam là nước có nền thương nghiệp quốc doanh khi áp dụng những biện pháp chống bán phá giá Những định kiến trên đã khiến cho hàng hoá của Việt Nam trở nên bất lợi hơn so với các nước khác. Chẳng hạn, EU lấy giá thành sản phẩm của một nước phát triển làm chuẩn, trong khi giá nhân công và nguyên vật liệu của nước đó lại cao hơn nước ta, do đó hàng Việt Nam trở nên rẻ hơn nhưng lại bị EU cho rằng có sự bảo hộ của nhà nước. EU vẫn dùng các biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá Việt Nam Trong quan hệ thương mại với Việt Nam, bản thân EU cũng chưa đối xử cởi mở. Tuy EU đã mở rộng cửa đối với hàng hoá Việt Nam sau khi ký kết các Hiệp định, nhưng về mức độ thì EU vẫn dè dặt, chưa thực sự nới lỏng, vẫn dùng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam có năng lực sản xuất lớn như hàng dệt may. Mặt khác, EU còn có những yêu cầu không bình đẳng: Việt Nam muốn tăng hạn ngạch thì phải giảm thuế nhập khẩu nguyên vật liệu(dùng trong sản xuất dệt may). Nếu so sánh biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam với các nước đang phát triển ở Châu Á thì mức thuế này chỉ ngang bằng. Việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ EU để làm hàng dệt may xuất khẩu trở lại thị trường này tỏ ra là một biên pháp tốn kém, làm giảm giá gia công của Việt Nam. Một thực tế đáng lo ngại nữa là trên thị trường dệt may đang có sự thay đổi nhanh chóng về mẫu mốt. Áo jacket, mặt hàng chủ lực một thời chiếm tới 50% lượng hàng xuất khẩu sang EU nay tỏ dấu hiệu tiêu thụ chậm lại. Năm tháng đầu năm 2000, lượng áo jacket xuất khẩu sang thị trường này giảm khoảng 1 triệu cái, chỉ bằng 60 – 65% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, giá gia công áo jacket cũng giảm 10%. Không chỉ mặt hàng dệt may bị hạn chế nhập khẩu mà giày dép cũng đang rơi vào tình trạng tương tự do áp lực của một số nước buộc Uỷ ban Châu Âu phỉa thực thi những biên pháp đó trước tìnhtrạng tăng bất thường lượng hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này. Đã thế, với cả hai mặt hàng dệt may và giày dép EU đều kiểm tra ngặt nghèo về xuất xứ. Ngoài ra, EU còn đánh thuế hai lần với một số mặt hàng nông sản như gạo, sắn lát,... Trong một thời kỳ dài, theo những biến động của lịch sử, quan hệ thương mại Việt Nam - EU thực sự đã có những chuyển biến quan trọng: từ chỗ không có quan hệ thương mại thực sự đến chỗ chúng ta đã là một bạn hàng khá tin cậy của EU. Sự chuyển biến đó đánh dấu những nỗ lực không ngừng của cả hai bên theo hướng tích cực, phù hợp với xu hướng của thời đại. Hai bên đã đạt được những thành quả tốt đẹp, hứa hẹn nhiều triển vọng trong tương lai. Trong thời gian qua, cả hai bên cũng đã nhận ra những khó khăn còn tồn tại, những thách thức cần giải quyết một cách nghiêm túc sao cho quan hệ đôi bên phát triển lên một mức mới, tương xứng với tiềm năng sẵn có. Làm được điều đó, đòi hỏi cả hai bên phải cùng nhau nỗ lực, tạo cho nhau những điều kiện tốt nhất theo hướng hợp tác hai bên cùng có lợi. Chắc chắn rằng trong tương lai, kết quả quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu sẽ đạt được những tầm cao mới. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU TRONG GIAI ĐOẠN MỚI 1. Định hướng chung về phát triển thương mại của Việt Nam Những nhiệm vụ và phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục xác định: “Củng cố vị trí ở các thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm kiếm thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường. Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu, giảm xuất, nhập khẩu qua con đường trung gian”. Nghiên cứu tình hình kinh tế của nước ta trong những năm qua, ta nhận thấy tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính Châu Á khiến nền ngoại thương của nước ta lâm vào tình trạng khó khăn trong một thời gian dài, bởi đã quá dựa vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, nhờ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu với các thị trường ngoài châu lục, điển hình là thị trường EU, nên kim ngạch ngoại thương đã không ngừng tăng lên, đem lại một diện mạo khả quan cho nền kinh tế nước nhà. Mới đây, hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết, mở ra cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam một thị trường mới và rộng lớn. Tuy nhiên, xâm nhập thị trường này hãy còn là cơ hội và thách thức, nên EU vẫn được coi là một bạn hàng truyền thống và một đối tác tin cậy của Việt Nam. 2. Định hướng phát triển thương mại Việt Nam - EU Theo phát biểu của Vụ trưởng vụ Đa biên Bộ Thương mại trên Báo Thương mại số ra ngày 27.12.1999, trong thời gian tới, quan hệ ngoại thương Việt Nam với EU sẽ được coi trọng và đẩy mạnh theo hướng nhìn nhận EU là một đối tác chiến lược, bởi những lý do sau: Các nước EU lâu nay vẫn có thái độ tốt với Việt Nam: các nước Bắc Âu vẫn luôn viện trợ hào phóng cho Việt Nam. Pháp, một trong hai đầu tầu kinh tế của EU, vốn có quan hệ văn hoá lâu đời với Việt Nam nên rất hiểu người Việt Nam. Hiện nay, Pháp vẫn chủ trương, đồng thời tích cực hoạt động để trở lại một quan hệ thân thiết với Việt Nam trên cơ sở hàn gắn vết thương chiến tranh và nhìn về tương lai. EU là một trong những khu vực lớn nhất thế giới. Với hơn 300 triệu dân sống trên 15 quốc gia từ Bắc xuống Nam châu lục, EU đem đến cho Việt Nam sự đa dạng về nhu cầu và mức sống. Do vậy, Việt Nam có cơ hội thực thi chính sách đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở khai thác nhiều mảng thị trường với nhiều mức sống khác nhau. EU có đầy đủ khả năng để trở thành một đối trọng kinh tế và công nghệ cho Việt Nam. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện đã có chỗ đứng trên thị trường EU và nhiều mặt hàng xuất khẩu của EU cũng rất phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước của Việt Nam. Đây là ba quan điểm chính, chỉ đạo đường lối đối ngoại của Việt Nam với EU trong giai đoạn tới. Những quan điểm này đã được thực tiễn quan hệ Việt Nam - EU kiểm nghiệm và chứng minh tính xác thực. Do triển vọng mối quan hệ này rất tốt đẹp, nên ta cần đề ra các biện pháp phù hợp và khả thi. II. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - EU Tại Hội nghị về thúc đẩy thương mại toàn quốc năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ triển vọng ngoại thương Việt Nam trong những năm tới. Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu sẽ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản là khuyến khích tối đa xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu theo tinh thần tiết kiệm ngoại tệ ở mức cao nhất và hạn chế nhập siêu ở mức dưới 500 triệu USD, gắn xuất khẩu với nhập khẩu theo hướng hỗ trợ đắc lực cho nhau và gắn xuất nhập khẩu với phát triển sản xuất và tiêu dùng hợp lý trong nước. Một quan điểm xuyên suốt là Nhà nước sẽ khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá bạn bè. Bên cạnh đó, từng bước tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến, giảm dần hàng thô, đưa tỷ lệ này từ 60/40 hiện nay lên 75/25 trong vòng 5 năm tới, tăng nhanh thị trường tiêu thụ trực tiếp, giảm dần các thị trường trung gian. Trong tinh thần chủ đạo đó, đối với quan hệ ngoại thương Việt Nam - EU, Bộ Thương mại dự tính giữ tỷ trọng EU trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ở mức 20% nhưng nâng cao hẳn về chất lượng. Xét thực tiễn quan hệ ngoại thương Việt Nam - EU trong những năm qua, ta nhận thấy tỷ lệ này khá hợp lý. Bởi lẽ, hiện nay tỷ trọng của EU trong tổng kim ngạch ngoại thương nước ta đã xấp xỉ 23%. Đây là một con số không nhỏ. Tuy nhiên, khi thị trường Mỹ mở ra và Việt Nam tham gia hoàn toàn vào AFTA, tỷ trọng Mỹ và ASEAN trong tổng kim ngạch ngoại thương Việt Nam sẽ tăng lên. Tuy nhiên, tổng kim ngạch ngoại thương của nước ta sẽ tăng cao, do đó giá trị kim ngạch ngoại thương với EU cũng tăng, mặc dầu tỷ trọng có thể giảm so với hiện nay. Tăng giá trị ngoại thương là tăng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu, EU sẽ trở thành thị trường ổn định của Việt Nam về hàng may mặc, giày dép, thuỷ hải sản, nông lâm sản nhiệt đới và hàng gia công điện tử - cơ khí. Như vậy, nước ta sẽ đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu sang EU, bổ sung những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như điện tử, cơ khí. Về nhập khẩu, Việt Nam cũng sẽ trở thành thị trường tiêu thụ máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại của EU. Đây là định hướng đúng đắn, bởi nước ta sẽ ngừng nhập khẩu công nghệ rẻ tiền của các nước Châu Á. Chúng ta còn có thể nắm bắt được phần nào triển vọng quan hệ ngoại thương Việt Nam - EU qua chương trình làm việc của Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEM III - EMM 3 vừa diễn ra tại Hà Nội. Có 5 chủ đề chính được đề cập đến trong hội nghị mà chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến chủ đề 2 và 3 - những chủ đề liên quan trực tiếp đến việc tổng kết và rút ra biện pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước thành viên ASEM: Chủ đề 2: Tăng cường quan hệ kinh tế giữa Châu Á và Châu Âu Báo cáo của từng thành viên ASEM về việc giải quyết các rào cản chung trong thương mại song phương và đa phương. Báo cáo về việc thực hiện các mục tiêu của TFAP (kế hoạch hành động thuận lợi hoá thương mại) giai đoạn 2001 - 2002. Xây dựng các chương trình trợ giúp kỹ thuật trong 8 lĩnh vực ưu tiên của TFAP để giúp các thành viên đang phát triển trong ASEM tham gia các hoạt động của TFAP một cách toàn diện và có hiệu quả. Tăng cường việc thực hiện TFAP thông qua việc thành lập các Nhóm Công tác trong các lĩnh vực cụ thể của TFAP như tiêu chuẩn và hợp chuẩn, vệ sinh kiểm dịch, thương mại điện tử và công nghệ thông tin, xúc tiến thương mại v.v... để giải quyết một cách hiệu quả hơn các hoạt động hợp tác và đối thoại trong các lĩnh vực trên. Chủ đề 3: Hợp tác về phía các doanh nghiệp Báo cáo của Diễn đàn doanh nghiệp Á - Âu lần thứ 6 (AEBF 6). Báo cáo của các thành viên ASEM về triển khai các khuyến nghị của AEBF. Xây dựng các chương trình hợp tác nhằm tăng cường năng lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) ở các thành viên ASEM. Phối hợp với khu vực doanh nghiệp xây dựng 1 bộ quy tắc áp dụng quốc tế cho lĩnh vực bảo vệ dữ liệu, bí mật của người tiêu dùng, thanh toán, đánh thuế và giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử. Tạo điều kiện cho việc thiết lập mạng lới kinh doanh giữa các doanh nghiệp ASEM để khai thác tiềm năng của thị trường EU và ASEAN. Tăng cường hỗ trợ hoạt động xúc tiến kinh doanh và tổ chức hội chợ thương mại cho doanh nghiệp ASEM. Tiến tới thực hiện phương thức chính phủ điện tử (e-government) để giúp khu vực doanh nghiệp và người tiêu dùng sử dụng công nghệ thông tin. Tạo thuận lợi cho đi lại giữa các nước thành viên ASEM của lao động trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử và viễn thông. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) tiếp cận các chương trình hỗ trợ tài chính của chính phủ. Thúc đẩy việc phát triển kinh doanh di động (mobile business) là bước phát triển tiếp theo của kinh doanh điện tử (electronic business). Triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam - EU vẫn thường được đánh giá qua việc xem xét triển vọng xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang EU. Vì việc nhập khẩu của Việt Nam từ EU sẽ không có những thay đổi đột biến. Trong thời gian tới, chúng ta vẫn tập trung cho việc thúc đẩy xuất khẩu sang EU còn chuyện cân đối xuất khẩu với nhập khẩu chỉ có thể thực hiện được ở các năm tiếp sau này. 1. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá sang EU giai đoạn 2000 - 2004 Trong giai đoạn này, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) và chỉ riêng hàng dệt may là bị quản lý bằng hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này hàng năm gần như phụ thuộc vào hạn ngạch do EU ấn định. Hiện nay, một số mặt hàng của Việt Nam vào EU như giày dép, dệt may và thuỷ sản đang có ưu thế hơn so với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc và các nước ASEAN khác có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam như Thái Lan, Indonesia…vì những mặt hàng xuất khẩu của họ đã bị loại khỏi danh sách hàng hoá được hưởng GSP của EU. Tuy có những lợi thế tương đối so với các đối thủ cạnh tranh nhưng tại thời điểm này Việt Nam đang ở gian đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và với hiện trạng xuất khẩu như hiện nay thì xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2000 - 2004 vẫn tiếp tục phát triển nhưng có tốc độ phát triển không cao. Do được hưởng ưu đãi về thuế quan nên trong giai đoạn này, quy mô và kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản và các mặt hàng thuộc nhóm 4 sẽ tăng rất nhanh. Còn mặt hàng nông sản, dệt may, giày dép và các mặt hàng khác thuộc nhóm 1 và 2 sẽ tăng chậm lại và đến năm 2003, 2004 sẽ chỉ tăng nhẹ. Trong khi đó, sản phẩm gỗ, nhựa gia dụng, thực phẩm chế biến, sản phẩm điện tử và linh kiện vi tính sẽ có mức tăng trưởng khá vì những mặt hàng này đang được thị trường EU ưa chuộng, nhu cầu nhập khẩu tăng nhanh. Đây là những năm cuối hàng Việt Nam được hưởng GSP và hạn ngạch của EU nên chúng ta cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi hàng hoá Việt Nam phải đương đầu với tình hình mới. Điều đó đồng nghĩa với chất lượng hàng hoá đi đôi với giá cả cạnh tranh và các dịch vụ hoàn hảo sau khi bán. 2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá sang EU giai đoạn 2005 - 2010 Kể từ năm 2005, EU huỷ bỏ hạn ngạch và GSP đối với hàng của các nước đang phát triển khi xuất khẩu vào thị trường EU. Hàng Việt Nam sẽ không còn được hưởng ưu đãi thuế quan như hiện nay và phải cạnh tranh bình đẳng với hàng xuất khẩu của các nước khác đang là đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan… Kim ngạch xuất khẩu của chúng ta chắc chắn sẽ bị giảm sút trong thời kỳ 2005 - 2007: hàng thuỷ sản giảm khoảng 15 - 20%, hàng giày dép giảm khoảng 10 - 15%, hàng dệt may giảm 7 - 10% và kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng thuộc nhóm 3 và 4 cũng sẽ bị giảm mạnh. Chắc chắn trong những năm này chỉ có một vài mặt hàng xuất khẩu mới khai thác có kim ngạch xuất khẩu tăng còn phần lớn các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam sang EU sẽ có tốc độ tăng trưởng kim ngạch âm. Do đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU năm 2005 có thể giảm 20 - 25% so với năm 2004, năm 2006 giảm 10 - 15% so với năm 2005, năm 2007 sẽ chỉ giảm 3 - 5% so với năm 2006. Thời kỳ 2008 - 2010, các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam sang EU sẽ lấy lại được thăng bằng và bắt đầu tăng nhẹ. Các mặt hàng xuất khẩu mới khai thác có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này cũng sẽ lấy lại được sự ổn định và tăng trưởng nhẹ. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 có thể tăng 5 - 7% so với năm 2007, năm 2009 tăng 7 - 10% so với năm 2008, năm 2010 có thể tăng 10 - 15% so với năm 2009. Giai đoạn 2005 - 2010 là giai đoạn “Hậu GSP” và “Hậu hạn ngạch”. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với hàng hoá Việt Nam trên thị trường rộng lớn đầy tiềm năng. Nếu chúng ta trang bị tốt cho hàng xuất khẩu sang EU ngay từ bây giờ để có thể chiến thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt thì triển vọng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này sẽ khả quan hơn. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦAVIỆT NAM – EU Tất cả những giải pháp được đề cập ở đây phần lớn nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - EU trong giai đoạn 2001 - 2010. Trong những giai đoạn tiếp theo, khi điều kiện khách quan và chủ quan có thay đổi, những giải pháp này cần được thay thế, sửa đổi, bổ sung,... nhằm đạt được sự hợp lý và hiệu quả cần thiết. 1. Nhóm các giải pháp vĩ mô 1.1. Nâng cao vai trò của cơ quan quản lý Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường EU, Bộ Thương mại cần khẳng định hơn nữa vai trò của mình. Cụ thể, Bộ Thương mại nên làm tốt 5 công tác sau: 1.1.1. Dự báo và thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp và người sản xuất trong nước biết thị trường cần gì trong năm nay và trong một vài năm tới Muốn thế, Bộ cần thông qua các đại diện thương mại của EU, hoặc khai thác hiệu quả đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ xuất nhập khẩu, am hiểu thị trường EU, đặc biệt là các thị trường mà Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn như Pháp, Đức, Anh, Italia, Thuỵ Điển, Hà Lan…Ví dụ, với kinh nghiệm 5 năm làm việc tại Việt Nam, Uwe Schmidt - cố vấn thương mại Đức tại Bộ Thương mại Việt Nam, đã đệ trình lên Bộ Thương mại một danh mục cụ thể những mặt hàng mới mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán và có lãi tại thị trường Đức trong thời gian tới: các sản phẩm phục vụ nhà bếp. Đó là khăn trải bàn, dụng cụ làm bếp, chén bát sành sứ, quà tặng, đồ trang trí nội thất nhà cửa; dụng cụ làm vườn, rau quả tươi, đóng hộp hay đông lạnh. Năm 1999, trong khối các nước thành viên EU, người Đức chi tiêu khá nhiều cho nhu cầu quà tặng, đồ trang trí trong nhà và các dụng cụ làm vườn: họ bỏ ra 4 tỷ USD nhập khẩu các mặt hàng quà tặng mỹ nghệ, trong đó quà Noel chiếm 50% (Việt Nam chỉ mới bán được hơn 4 triệu USD tiền đồ chơi và trang trí Noel sang Đức trong năm 1999); 8 tỷ USD cho các loại hàng phục vụ việc làm vườn, trong đó 2 tỷ USD cho chậu hoa, bình tưới nước, ghế ngoài vườn, giỏ bằng mây tre đan…Cũng trong năm 1999, người Đức tiêu hết 12 tỷ USD tiền trái cây và rau quả nhập khẩu. Theo ông Smichdt, những trái cây nhiệt đới đặc trưng Việt Nam cũng ngày càng được ưa chuộng tại Đức. Vấn đề quan trọng là Việt Nam phải có công nghệ hiện đại bảo quản, chế biến những loại rau quả này. 1.1.2. Đàm phán, ký kết các văn bản pháp lý với các nước thành viên EU Do thị trường EU là thị trường cấp liên minh, nhưng từng quốc gia vẫn có quyền tự quyết riêng, nên Việt Nam không những phải đạt được các thoả thuận với Uỷ ban châu Âu, mà còn phải ký kết được những văn bản với các nước thành viên EU, để hưởng thêm những ưu đãi mà cấp liên minh không cấp cho. 1.1.3. Giới thiệu cho các doanh nghiệp những nguồn thị trường hấp dẫn trong khối EU Bộ Thương mại phải xây dựng mạng lưới tham tán thương mại ở các nước thành viên EU, từ đó tạo một web site về thị trường EU để các doanh nghiệp có điều kiện cập nhật thông tin thường xuyên. Ví dụ, một tỷ lệ lớn hàng hoá Việt Nam hàng năm xuất đi EU nhằm vào khu vực thị trường Pháp, Đức, Italia, Anh... Tuy nhiên, một số tham tán thương mại Việt Nam đã có ý kiến rằng trong vài năm gần đây, những nhà nhập khẩu của Thuỵ Điển, Luxembourg bắt đầu quan tâm đến hàng Việt Nam. Với Luxembourg, đây là thị trường nhỏ nhưng thu nhập bình quân đầu người lại cao nhất t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTMai (168).doc
Tài liệu liên quan