Hiện nay, Ngân hàng đang áp dụng hình thức cho vay luân chuyển với
hạn mức và thời hạn trả nợ một nămcho khách hàng là doanh nghiệp. Hạn mức
này được xét dựa vào kế hoạch kinh doanh của khách hàng. Sau khi xem xét,
đánh giá từ nhiều khía cạnh: uy tín, khảnăng trả nợ trong thời gian qua, khả
năng tài chính dựa trên báo cáo tài chính của khách hàng, ngân hàng xét duyệt
hạn mức cả năm và ký hợp đồng luân chuyển.Tuy nhiên, sau đó trong quá trình
phát vay cho khách hàng, ngân hàng khôngyêu cầu thêm gì cả ngoại trừ một tờ
giấy nhận nợ.
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4031 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g
phương án, dự án xin vay nên hầu hết khách hàng vay (nhất là các khách hàng
là doanh nghiệp) được ngân hàng cho vay hạn mức lớn gấp nhiều lần vốn tự có
của doanh nghiệp, việc này đã tạo cơ hội cho doanh nghiệp sử dụng vốn vay
31
ngân hàng là chủ yếu. 80% các DN có dư nợ vay tại Ngân hàng Đông Á đều có
vốn tự có rất thấp, dưới 10 tỷ.
Bên cạnh đó, tình hình tài chính của hầu hết DN Việt Nam là yếu kém và
thiếu minh bạch. Sổ sách kế toán, báo cáo tài chính chưa được các DN Việt Nam
tuân thủ theo đúng chuẩn mực kế toán. Do vậy, báo cáo tài chính mà các DN
cung cấp cho ngân hàng thường chỉ mang tính hình thức nhiều hơn là thực chất.
Hiện nay chưa có bất cứ chế tài nào buộc các DN phải kiểm toán báo cáo tài
chính của mình nên ngân hàng không thể buộc khách hàng được. Một số ngân
hàng cho điểm tín dụng đối với việc khách hàng có báo cáo tài chính đã được
kiểm toán nhằm khuyến khích khách hàng cung cấp số liệu tài chính trung thực.
Tuy nhiên tại Ngân hàng Đông Á chưa có quy định việc này.
¾ Do năng lực quản trị quản trị điều hành yếu kém
Đây là nguyên nhân chủ yếu gây ra nợ quá hạn của các doanh nghiệp tại
Ngân hàng Đông Á trong thời gian qua. Qua các hồ sơ phân tích, báo cáo về nợ
quá hạn của Phòng tín dụng tại Ngân hàng Đông Á, có thể tóm tắt nguyên nhân
theo thứ tự chủ yếu từ cao đến thấp như sau :
Thứ nhất là, một số khách hàng để cho bạn hàng chiếm dụng vốn quá
nhiều, hoặc tập trung nợ vào một vài bạn hàng lớn. Khi bạn hàng gặp khó khăn
trong thanh toán, dẫn đến tình trạng nợ dây chuyền, làm cho khách hàng không
có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Đến cuối năm 2006 tổng số khách hàng có tỷ
lệ nợ phải thu trên vốn chủ sở hữu trên 90% chiếm tỷ trọng trên 60% trên dư nợ
cho vay của Ngân hàng Đông Á.
Thứ hai là, một số khách hàng hoạt động khá hiệu quả khi còn ở quy mô
vừa và nhỏ, nhưng sau khi đầu tư phát triển lớn mạnh thì khả năng quản lý
không theo kịp với tốc độ tăng trưởng từ đó làm hoạt động sản xuất kinh doanh
32
bị đình trệ, phát sinh những khoản chi phí, thiệt hại, ảnh hưởng đến nguồn thu nợ
của ngân hàng.
Thứ ba là, sự yếu kém trong điều hành kinh doanh của khách hàng dẫn
đến thiếu thích nghi trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường hiện nay
làm khách hàng sau một thời gian hoạt động thua lỗ dẫn đến không trả được nợ
cho ngân hàng.
Cuối cùng là một số doanh nghiệp đã xảy ra tình trạng thường xuyên thay
đổi người điều hành đơn vị, dẫn đến không theo dõi kịp quá trình kinh doanh,
phát triển của doanh nghiệp làm cho doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ.
¾ Do khách hàng cố ý lừa đảo
Khách hàng có ý đồ lừa đảo, chiếm dụng vốn như cung cấp số liệu tài
chính không trung thực, xây dựng hồ sơ pháp lý ma, lập hợp đồng kinh tế giả,
câu kết với người bán nhằm sử dụng tiền vay mặc dù đã thanh toán đầy đủ trước
đó, cung cấp chứng từ sử dụng vốn không đúng thực tế … để lừa đảo ngân hàng
hoặc cố tình né tránh, chây ỳ không trả nợ cho ngân hàng.
Ngoài ra có một số trường hợp khách hàng xin vay ngắn hạn nhưng thực
tế là để sử dụng vào những công trình đầu tư trung dài hạn. Trong tình hình nền
kinh tế tăng trưởng như hiện nay, các doanh nghiệp thường có nhu cầu đầu tư
trung dài hạn để cải tiến mở rộng sản xuất kinh doanh, trong khi nguồn vốn ngân
hàng duyệt cho vay thì có hạn. Điều này dẫn đến doanh nghiệp với số vốn ít ỏi
thường tìm cách làm sao thuyết phục ngân hàng cho vay (bất chấp thời hạn) để
đầu tư trung dài hạn mà không nghĩ đến việc nợ đến hạn sẽ không trả được.
2.2.3.3. Nhóm nguyên nhân thuộc về ngân hàng
2.2.3.3.1 Thiếu thông tin liên quan đến khách hàng khi xét duyệt vay vốn
33
Vấn đề thông tin không đầy đủ và chân thật về khách hàng đang là khó
khăn nổi cộm của cán bộ tín dụng trong quá trình tác. Nguyên nhân này xuất
phát từ các hạn chế sau của Ngân hàng Đông Á :
- Hệ thống thông tin nội bộ của Ngân hàng Đông Á còn yếu kém, hầu
như chưa có thư viện thông tin về các lĩnh vực kinh tế, các doanh nghiệp có quan
hệ trong hệ thống. Do không có thông tin được thu thập và thống kê qua một số
thời kỳ để làm cơ sơ phân tích nên cán bộ tín dụng khó có thể có một nhận định
chính xác về quá trình hoặc môi trường hoạt động của khách hàng.
- Sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống
Ngân hàng Đông Á chưa tốt. Chính vì sự phối hợp quản lý không tốt nên dẫn
đến một khách hàng có quan hệ vay vốn với nhiều chi nhánh trên cùng một tỉnh,
thành phố, trong khi theo quy định của Ngân hàng Đông Á, một khách hàng chỉ
được quan hệ với một Chi nhánh Ngân hàng Đông Á duy nhất trong cùng một
tỉnh, thành phố. Các Chi nhánh Ngân hàng Đông Á cho vay lại đối phó bằng sửa
mã khách hàng thay vì phải nhập một mã khách hàng duy nhất trong toàn hệ
thống dẫn đến tình trạng không kiểm soát được toàn diện tình hình vay vốn của
doanh nghiệp. Đối với các khách hàng là doanh nghiệp có nhiều chi nhánh đặt
tại nhiều tỉnh khác nhau, khi cho vay các chi nhánh của doanh nghiệp này các
chi nhánh của Ngân hàng Đông Á tại các tỉnh khác nhau chưa phối hợp được với
nhau hoặc chậm phối hợp để nắm bắt tình hình cho vay tổng thể từng thời điểm,
dẫn đến rủi ro tổng dư nợ của doanh nghiệp vượt hạn mức tín dụng cho phép.
Bên cạnh đó do sự cạnh tranh về các chỉ tiêu hoạt động giữa các chi nhánh nên
sự chia sẻ thông tin về khách hàng trong cùng hệ thống Ngân hàng Đông Á chưa
được tốt. Hiện tượng phổ biến là không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ
thông tin về khách hàng.
- Thông tin tài chính do khách hàng cung cấp không mang tính tin cậy
cao. Hiện nay, Nhà nước chưa có quy định và chế tài để khách hàng phải công
34
khai thông tin và chịu trách nhiệm về sự sai lệch thông tin khi cung cấp cho ngân
hàng. Trong trường hợp khách hàng có ý định gian dối thì ngân hàng sẽ rất khó
để kiểm chứng.
2.2.3.3.2 Lạm dụng tài sản thế chấp
Do thiếu thông tin trung thực về khách hàng nên ngân hàng luôn xem
nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín
dụng. Tuy nhiên dần dần ngân hàng trở nên dựa dẫm quá nhiều vào tài sản thế
chấp thay vì đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh. Nhiều cán bộ tín
dụng quan niệm rằng có tài sản đảm bảo là an toàn cho khoản vay. Điều này rất
nguy hiểm vì cán bộ tín dụng không tính đến việc khoản vay cần được trả nợ
bằng dòng tiền tạo ra bởi phương sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền
bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương
án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến mà thôi.
Mặït khác, ngân hàng không thể lường trước được những khó khăn sẽ gặp
trong quá trình xử lý tài sản thế chấp để thu nợ. Càng khó khăn hơn đối với
những con nợ tuyên bố phá sản vì chủ nợ là ngân hàng chưa được ưu tiên như nợ
ngân sách và một số chủ nợ khác của khách hàng. Hơn nữa khi thẩm định tài sản
thế chấp cán bộ tín dụng chưa thực sự chú ý đến khả năng thanh lý của tài sản
thế chấp. Một số tài sản thế chấp là động sản như các loại máy móc, thiết bị,
linh kiện … rất khó phát mại khi gặp rủi ro. Tổng số nợ quá hạn có tài sản đảm
bảo bằng động sản đến 31/12/2006 của Ngân hàng Đông Á chiếm 9,72% chưa
phát mại được là do nguyên nhân trên.
2.2.3.3.3 Tập trung vào một nhóm khách hàng trong cùng một ngành, một
vùng.
Theo đuổi chiến lược phát triển tín dụng phù hợp với thị trường mục tiêu,
cần chú trọng đa dạng hóa danh mục cho vay từng ngân hàng. Các doanh nghiệp
thuộc cùng ngành hàng, cùng vùng có thể có tương quan rủi ro tín dụng cao. Rủi
35
ro tín dụng xảy đến cùng lúc với nhiều khách hàng là một việc ngân hàng cần
hết sức tránh.
Hiện nay, Ngân hàng Đông Á chưa qui định tỷ trọng đầu tư tối ưu vào mỗi
ngành, mỗi vùng để rủi ro thấp nhất là bao nhiêu. Có thời điểm ngân hàng giải
ngân cho một số khách hàng kinh doanh trong cùng một ngành vật liệu xây
dựng với tỷ trọng chiếm khá cao 36,15% trong tổng dư nợ. Điều này vô cùng
nguy hiểm dễ dẫn đến khả năng vỡ nợ.
Bên cạnh đó, việc ngân hàng chỉ phân chia theo dõi khách hàng cho vay
theo thành phần kinh tế và dân cư, chưa tập trung thống kê theo dõi, quản lý
khách hàng theo ngành nghề kinh doanh, theo vùng nên dễ dẫn đến việc cho vay
tập trung vào một nhóm khách hàng trong cùng một ngành, một vùng trong toàn
hệ thống.
2.2.3.3.4 Hạn chế của loại hình cho vay luân chuyển
Hiện nay, Ngân hàng đang áp dụng hình thức cho vay luân chuyển với
hạn mức và thời hạn trả nợ một năm cho khách hàng là doanh nghiệp. Hạn mức
này được xét dựa vào kế hoạch kinh doanh của khách hàng. Sau khi xem xét,
đánh giá từ nhiều khía cạnh: uy tín, khả năng trả nợ trong thời gian qua, khả
năng tài chính dựa trên báo cáo tài chính của khách hàng, ngân hàng xét duyệt
hạn mức cả năm và ký hợp đồng luân chuyển. Tuy nhiên, sau đó trong quá trình
phát vay cho khách hàng, ngân hàng không yêu cầu thêm gì cả ngoại trừ một tờ
giấy nhận nợ.
Loại hình này bộc lộ sơ hở quá cơ bản như sau : kế hoạch năm khách
hàng xây dựng chỉ là mang tính ước tính, có thể thay đổi trong quá trình kinh
doanh. Do đó mỗi lần phát vay, khách hàng phải có phương án cụ thể để ngân
hàng kiểm tra khả năng sinh lời và rủi ro có thể phát sinh. Bên cạnh đó, thời
gian thực hiện từng phương án cụ thể khác nhau, ngân hàng không thể lấy thời
36
hạn của hợp đồng luân chuyển để áp dụng cho thời hạn giải ngân từng phương
án. Điều này tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, tiền thực
hiện phương án kinh doanh đã thu nhưng không trả ngân hàng do chưa đến hạn
trả nợ. Đây là một rủi ro tiềm tàng cao ngân hàng cần chấn chỉnh để tránh tình
trạng khách hàng lợi dụng sơ hở để lừa đảo.
2.2.3.3.5 Việc chấp hành qui định tín dụng chưa nghiêm
- Xét duyệt cho vay không có tài sản đảm bảo đối với trường hợp pháp
luật qui định phải có. Nhận thế chấp, cầm cố, bảo lãnh để cho vay bằng các tài
sản không đảm bảo điều kiện như trường hợp dư nợ một cá nhân vay kinh doanh
cá thể 1,5tỷ đồng, tài sản thế chấp là đất chưa được cấp giấy chủ quyền.
- Giảm bớt các điều kiện cho vay theo quy định để thu hút khách hàng.
Một số trường hợp Ngân hàng Đông Á chỉ xét duyệt cho vay dựa trên quan hệ
tình cảm. Ngân hàng chủ quan khi quyết định cấp tín dụng trong khi chưa có đầy
đủ thông tin về người vay, về thực trạng tài chính, chưa thu thập đầy đủ các yếu
tố về môi trường kinh doanh của khách hàng từ đó gây ra rủi ro về khả năng trả
nợ của khách hàng. Dự án đầu tư, phương án sản xuất không khả thi, có công ty
làm ăn thua lỗ vẫn được ngân hàng cho vay. Quá trình giải ngân còn thiếu các
căn cứ (hợp đồng kinh tế, chứng từ thanh toán …). Có nhiều món vay giải ngân
bằng tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản tiền gửi của bên vay thay vì phải
chuyển vào tài khoản của bên bán tạo điều kiện cho bên vay sử dụng vốn vay
sai mục đích.
- Không áp dụng đúng qui chế tín dụng, định thời hạn cho vay không
phù hợp, còn có tình trạng cho đảo nợ. Như trường hợp một doanh nghiệp vay
kinh doanh xăng dầu 5tỷ đồng, theo thực tế căn cứ trên hợp đồng mua và bán
hàng của khách hàng thì thời gian sử dụng vốn là 1 tháng, nhưng được ngân hàng
duyệt cho vay 6 tháng. Có trường hợp một doanh nghiệp đến nợ hợp đồng này
37
2tỷ đồng nhưng không có tiền thanh toán lại được ngân hàng cho vay thực hiện
hợp đồng khác gần 2tỷ đồng nhằm để đảo nợ.
2.2.3.3.6 Thiếu kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay
Ngân hàng chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra, kiểm soát sau
khi cho vay, biểu hiện cụ thể như sau :
- Cán bộ tín dụng chỉ kiểm tra mang tính hình thức bằng cách gửi biên bản
kiểm tra cho khách hàng ký, mà không thực tế kiểm tra tại đơn vị. Hoặc chỉ làm
biên bản kiểm tra khi có thanh tra ngân hàng nhà nước kiểm tra.
- Cán bộ tín dụng ngân hàng không kiểm soát được tình hình sử dụng vốn
vay của khách hàng. Có trường hợp khách hàng cá nhân vay 3tỷ đồng có thế
chấp nhà để hợp tác kinh doanh với một công ty kinh doanh xăng dầu. Khi giải
ngân, ngân hàng chuyển tiền vào tài khoản công ty xăng dầu này. Thực tế sau
đó vài tháng, khách hàng này đã rút hết tiền ra khỏi công ty không hợp tác nữa
nhưng ngân hàng không biết. Một số trường hợp doanh nghiệp vay vốn để mua
hàng nhưng thực chất là vay để trả nợ mua hàng cũ, ngân hàng không kiểm soát
được.
- Do chạy theo thành tích nên việc điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ,
chuyển nợ quá hạn thực hiện không đúng quy định hoặc giúp khách hàng đảo nợ
(như : gia hạn nợ thiếu căn cứ, không chuyển nợ quá hạn kịp thời …) đã phản ánh
không đúng thực trạng tín dụng.
2.2.3.3.7 Thiếu công tác kiểm soát nội bộ trong ngân hàng:
Nếu làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ sẽ trở thành “lá chắn thứ
nhất” đảm bảo an toàn cho ngân hàng, nhưng hiện lãnh đạo Ngân hàng Đông Á
chưa thực sự chú trọng đến công tác này. Công tác kiểm soát nội bộ của Ngân
hàng Đông Á chưa thực hiện đúng nhiệm vụ của nó, mà mang nặng tính hình
thức. Các báo cáo kiểm soát nội bộ thường chỉ là tổng hợp, phân tích, thống kê
38
các số liệu từ báo cáo của bộ phận tín dụng, chưa thể hiện được tính độc lập,
tính kiểm tra và cảnh báo của mình. Các chương trình kiểm soát nội bộ manh
mún, chưa tập trung vào những bộ phận, mảng hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn trong
ngân hàng. Bộ phận kiểm soát nội bộ ít người và chưa được phân thành từng tổ
có chuyên môn sâu theo từng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trình độ của
kiểm soát viên nội bộ chưa tương ứng với nhiệm vụ và yêu cầu công việc. Do đó
kiểm soát nội bộ của ngân hàng khó có thể có những nhận định đúng về thực
trạng tín dụng của ngân hàng.
2.2.3.3.8 Quy trình tín dụng còn nhiều bất cập
- Chưa có sự độc lập giữa các khâu như chức năng bán hàng (tiếp xúc
khách hàng, đàm phán cho vay…), chức năng quản trị rủi ro (phân tích, thẩm
định, đo lường, đánh giá lại theo định kỳ…) và chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ,
theo dõi, giám sát khoản vay, thu nợ, thu lãi…). Một cán bộ tín Ngân hàng Đông
Á hiện nay thường thực hiện luôn cả ba khâu trên.
- Cách thức phân công công việc chưa khoa học. Một cán bộ tín dụng quản
lý nhiều khách hàng kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau. Khả năng một
cán bộ tín dụng không thể am hiểu hết tất cả các ngành nghề kinh doanh của
khách hàng, dễ dẫn đến việc đánh giá phương án vay vốn của khách hàng không
chính xác.
- Việc xét duyệt lại hạn mức tín dụng của khách hàng còn nhiều thiếu xót :
đối với các khách hàng đã quen thuộc, việc xét duyệt hạn mức tín dụng hàng
năm thì chỉ là hình thức. Việc phân tích chỉ dựa trên những chỉ tiêu báo cáo tài
chính của khách hàng, không kết hợp phân tích tình hình kinh doanh các mặt
hàng của khách hàng theo biến động của thị trường.
- Việc xét duyệt cho vay đối với DNNN chưa tuân thủ đúng pháp luật. Mặc
dù cuối năm 2004 Bộ tài chính đã ban hành Nghị định 199/2004/NĐ-CP ngày
39
3/12/2004 qui định việc DNNN khi vay vốn có giá trị lớn hơn vốn điều lệ thì
phải có sự đồng ý của đại diện chủ sở hữu DNNN. Tuy nhiên hầu hết các hợp
đồng vay vốn đối của các khách hàng là DNNN hoàn toàn không cần có một
văn bản nào của cơ quan chủ quản. Lý do là do ngân hàng đã linh động cho vay
bằng cách chia nhỏ số tiền cho vay thành nhiều hợp đồng với giá trị nhỏ hơn vốn
điều lệ. Đây là một rủi ro tiềm ẩn cao dễ dẫn đến khả năng mất vốn cho ngân
hàng vì đã vi phạm luật.
- Hiện nay, NHNN đã cho phép các NHTM có quyền lựa chọn khách hàng
để cho vay không có tài sản đảm bảo, đồng thời tự chịu trách nhiệm về quyết
định của mình. Tuy nhiên việc cho vay này cần có những qui định cụ thể trong
nội bộ. Song tại Ngân hàng Đông Á chưa có qui định về tiêu chuẩn để được xét
duyệt cho vay không có đảm bảo mà Ngân hàng Đông Á chỉ qui định quyền xét
duyệt cho vay không có tài sản đảm bảo là do Tổng giám đốc quyết định hoặc
do người được Tổng Giám đốc ủy quyền quyết định, do đó dễ đến sai sót. Thực
tế nợ tồn đọng không có tài sản đảm bảo đến ngày 31/12/2006 theo số liệu ở
bảng 8 là 6,19 tỷ đồng.
2.2.3.3.9 Do năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng còn hạn chế
Đội ngũ cán bộ tín dụng thực hiện thẩm định cho vay đa phần còn quá trẻ,
chưa đủ kinh nghiệm, chưa nhận thức được đầy đủ về yêu cầu và tính phức tạp
của công tác tín dụng trong môi trường mới. Họ chưa đáp ứng được những đòi
hỏi của cơ chế thị trường, cũng như khả năng và trình độ đánh giá đúng hiệu quả
và mức độ rủi ro của phương án, dự án còn yếu kém. Không nhận biết được
những dấu hiệu rủi ro đôi khi xuất hiện ngay từ giai đoạn tiếp xúc khách hàng.
Chưa chấp hành đầy đủ quy trình, quy chế nghiệp vụ tín dụng đã ban hành, công
tác thẩm định không kỹ về các mặt.
40
Bên cạnh đó, do khối lượng công việc đang quá tải dẫn đến nguy cơ
không kiểm soát được toàn diện và đầy đủ tình hình khách hàng mà mình đang
phụ trách. Cán bộ lãnh đạo tín dụng của ngân hàng kiêm nhiệm nhiều chức vụ
từ hội sở đến chi nhánh dẫn đến việc quản lý chậm trễ và nhiều thiếu xót. Hơn
nữa, trong vài năm gần đây đã diễn ra sự biến động mạnh về nhân sự tại Ngân
hàng Đông Á. Số nhân viên nghỉ việc hàng năm bình quân 8%, trong đó đến gần
phân nửa là cán bộ tín dụng do đó áp lực công việc cho các cán bộ tín dụng còn
lại là rất nặng nề. Việc tuyển dụng các nhân viên mới chưa được nhanh chóng
và các nhân viên mới hầu hết là sinh viên mới ra trường hoặc chưa có nhiều kinh
nghiệm.
2.3 Đánh giá chung về hoạt động tín dụng và công tác an toàn vốn
2.3.1. Ưu điểm
Chất lượng tín dụng đã có chuyển biến tích cực như tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu H3 qua các năm 2002-2006 theo biểu đồ số 4 đều ≥ 8%, đến năm 2006 đạt
9,26% chứng tỏ ngân hàng vẫn có khả năng tăng trưởng dư nợ. Sở dĩ hệ số này
cải thiện tốt là do vốn tự có của Ngân hàng Đông Á không ngừng tăng qua các
năm. Theo kế hoạch Ngân hàng Đông Á sẽ tiếp tục tăng vốn từ 880 tỷ lên
2000tỷ để phục vụ cho việc mở rộng quy mô hoạt động phù hợp với xu hướng
phát triển hiện nay. Theo bảng 7 tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo được tăng lên
đáng kể qua các năm. Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn luôn
đảm bảo dưới mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Trong năm 2006 Ngân hàng Đông Á đã tiến hành các nghiên cứu cụ thể
để rà soát và thiết lập lại một cách phù hợp cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng,
thành lập thêm các phòng ban cần thiết để quản lý, kiểm soát rủi ro tín dụng.
Về cơ cấu khách hàng giao dịch với Ngân hàng Đông Á đã tăng cả về
lượng và chất. Các khách hàng ngoài quốc doanh và thuộc các lĩnh vực ưu tiên
41
của ngân hàng đã được chú trọng, tạo điều kiện sử dụng dịch vụ của ngân hàng
một cách an toàn và hiệu quả.
Ngân hàng Đông Á đang chú trọng từng bước nâng cao nghiệp vụ cho
nhân viên qua các khóa đào tạo ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Toàn thể nhân
viên tín dụng có tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức và có kinh nghiệm trong
việc tìm kiếm, thu hút khách hàng, toàn tâm toàn ý với công việc.
2.3.2 Tồn tại
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đông Á trong những năm qua chỉ tập
trung vào công tác huy động vốn và cho vay mà chưa có những biên pháp hữu
hiệu nhằm khuyến khích và thu hút khách hàng sử dụng tích cực các hình thức
khác của tín dụng như : chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán nhằm đa
dạng hóa về hình thức cung cấp vốn và chia sẻ rủi ro tín dụng.
Cho vay trung, dài hạn mặc dù có tăng trưởng qua từng năm nhưng vẫn
đang ở mức khá thấp. Điều này chứng tỏ Ngân hàng Đông Á không chú trọng
việc cho vay các dự án có tính chiều sâu.
Vẫn còn tình trạng vốn vay tập trung vào một số khách hàng lớn, khó
phân tán rủi ro. Khách hàng đến giao dịch tín dụng với ngân hàng còn đa số là
khách hàng truyền thống, số lượng khách hàng mới chưa sử dụng tín dụng nhiều
lắm, có thể là do lãi suất cho vay của Ngân hàng Đông Á cao hơn các ngân hàng
khác: lãi suất VND từ 1,2%/tháng đến 1,25%/tháng; lãi suất ngoại tệ không linh
hoạt mà ấn định một mức lãi suất cố định trong một thời gian và thường cao hơn
các ngân hàng khác từ 0,5%-1%.
2.4. Công tác xử lý rủi ro tín dụng
Trong quá trình thực hiện xử lý nợ tồn đọng, chủ yếu là xử lý tài sản bảo
đàm, Ngân hàng Đông Á còn gặp phải những khó khăn như :
42
Những khó khăn về cơ chế như : Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Thông tư
liên tịch số 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC, Quyết định 149/2001
tạo ra cơ chế thông thoáng để ngân hàng tự xử lý, bán tài sản bảo đảm là bất
động sản để thu hồi nợ dù có hoặc không có sự đồng ý của chủ tài sản. Tuy
nhiên, trên thực tế, nếu không thỏa thuận được việc xử lý tài sản với chủ tài sản
thì ngân hàng không thể tự xử lý được. Việc không nhất trí này được coi là một
tranh chấp và theo quy định phải đưa ra tòa án để giải quyết, mất nhiều thời gian
và công sức. Ngoài ra, việc tự bán tài sản đảm bảo cũng đòi hỏi ngân hàng phải
thực hiện hàng loạt các thủ tục rườm rà khác, khiến cho việc xử lý tài sản thu
hồi nợ trở nên khó khăn.
Khó khăn từ việc thi hành án như Tòa án chỉ tuyên giao phần tài sản trên
đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng, còn phần đất vẫn thuộc sở hữu nhà
nước.Vì vậy, ngân hàng phải thuê đất của nhà nước, trong khi không thể xử lý
bán phần tài sản trên đất được vì người mua e ngại sau khi mua sẽ bị nhà nước
thu hồi lại đất và đền bù phần xây dựng trên đất với giá rẻ.
Khó khăn từ chính quyền địa phương : việc xử lý nợ trong các trường hợp
liên quan đến các doanh nghiệp địa phương rất khó khăn. Vì lợi ích cục bộ địa
phương, chính quyền các địa phương luôn có xu hướng ủng hộ các giải pháp xử
lý nợ co
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 466101.pdf