Mục lục
I. Mở đầu
II. Một số khái luận cơ bản
1. Khái niệm tín dụng
2. Chức năng của tín dụng
3. Vai trò của tín dụng
4. Phân loại tín dụng
5. Nguyên tắc tín dụng
6. Chất lượng tín dụng
7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
8. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
III. Thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng
1. Trước năm 1986
2. Giai đoạn 1986-1990
3. Giai đoạn 1990- nay
4. Một số nguyên nhân
IV. Một số gải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
1. Đánh giá đúng thực tế khách hàng
2. Thiết lập và duy trì mối quan hệ với khách hàng
3. Tăng cường quản lý nợ , giải quyết nợ quá hạn
4. Xây dựng và sử dụng hợp lý quỹ dự phòng rủi ro
5. Đa dạng hoá các hình thức cho vay để giảm thiểu rủi ro
6. Hoàn thiện bộ máy tổ chức, công nhân viên
7. Nâng cao trình độ năng lực vàphẩm chất cán bộ công nhân viên
8. Tăng cường kiểm tra kiểm soát khách hàng và nội bộ
9. Tài sản thế chấp và sử lý tài sản thế chấp
10. Ap dụng chặt chẽ công cụ hạch toán kinh doanh
11. Một số giải pháp vĩ mô
V. Kết luận
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1699 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động của ngân hàng. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể đối phó kịp thời , có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi chuyên môn sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng.
Một nhân tố cũng không kém phần quan trọng đó là sự kiểm tra kiểm soát nội bộ. Đây là biện pháp giúp ban lãnh đạo ngân hàng có được những thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến phù hợp với mục tiêu đề ra. Các hoạt động đó bao gồm việc kiểm tra chính sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay(thẩm quyền về điều hành quản lý , giám sát các hoạt động cho vay ). Bên cạnh đó tiến hành kiểm tra định kỳ, báo cáo các trường hợp ngoại lệ , những vi phạm chính sách, thủ tục , kiểm soát kế toán và các hoạt động có liên quan đến cho vay.
Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng là một yếu tố không thể xem nhẹ, để có thể quản lý và theo dõi hiệu quả hoạt động tín dụng song song với việc nâng cao chất lượng các công tác trên cần phải chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ cho quá trình quản lý hoạt động tín dụng. Trang bị đầy đủ trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và phạm vi hoạt động của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng những trang thiết bị cho hoạt động của nó đòi hỏi ngày càng hiện đại.
8. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
a. với sự phát triển kinh tế -xã hội
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá,tín dụng đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để thúc đẩy tiến trình phát triển của xã hội. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng , với một khối lượng tiền như cũ , có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông,củng cố sức mua của đồng tiền ,qua đó ngân hàng thực hiện tốt hơn chức năng tạo tiền hay tạo ra phương tiện thanh toán trong lưu thông làm tốt hơn vai trò trung tâm thanh toán
Chất lượng tín dụng làm cho ngân hàng thực hiện tốt hơn chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư,tín dụng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. Tăng cường tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền thừa trong lưu thông. Điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt ,từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội góp phần điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ.
Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế theo từng nghành ,từng lĩnh vực. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
b.Với sự tồn tại và phát triển của Ngân HàngThương Mại
Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại do đó tạo thêm vốn do việc tăng thêm vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm , dịch vụ tạo ra hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách hàng. Chất lượng tín dụng tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm , dịch vụ do giảm được , giảm chi phí nghiệp vụ,quản lý.
Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng , tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Thực tế cho thấy ngân hàng chỉ tồn tại và phát triển khi hoạt động có hiệu quả, tức là thu được lợi nhuận từ các dịch vụ của mình. Mà trong các dịch vụ của ngân hàng cung cấp cho khách hàng thì quan trọng nhất là hoạt động tín dụng ,do đó chất lượng tín dụng có liên quan hệ mật thiết và cực kỳ quan trọng tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trên lĩnh vực tài chính và tiền tệ nhưng mục tiêu của nó cũng không khác các doanh nghiệp khác đó là cũng bỏ vốn ra kinh doanh để thu được lợi nhuận do dó việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt không khoan nhượng hiện nay.
iii. Thực trạng hoạt động tín dụng
1. Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986)
Ngày 6 tháng 5 năm 1951 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số15/SL thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam. Kể từ ngày đó hệ thống ngân hàng đã từng bước lớn lên cùng với đất nước qua các giai đoạn của sự phát triển.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp. Ngân hàng nhà nước vừa đóng vai trò phát hành tiền, quản lý lưu thông tiền tệ, vùa đóng chức năng của một ngân hàng chuyên doanh đó là hoạt động nhận tiền gửi của nhân dân và cho vay đối với nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng được xác lập theo địa giới hành chính, mỗi tỉnh có một chi nhánh ngân hàng trung ương tỉnh, mỗi huyện có một chi nhánh ngân hàng trung ương huyện. Hoạt động tín dụng được sử dụng làm công cụ có hiệu lực thực hiện nhiệm vụ kinh tế ,chính trị của Đảng và nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng. Vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, duy trì củng cố và phát triển các tổ chức kinh tế XHCN. Trong quá trình phát triển ,hoạt động tín dụng không ngừng được cải tiến cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm từng bước nâng cao hiệu quả vốn tín dụng. Tuy vậy do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân, việc quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung thống nhất tình hình đất nước có chiến tranh, hạn chế về trình độ cán bộ... nên chất lượng tín dụng có những hạn chế nhất định.
Đầu tư dựa trên cơ sở chỉ đạo của chính phủ, chủ yếu cho vay quốc doanh, không quan tâm đến các thành phần kinh tế khác; tín dụng mang tính bao cấp cho vay không quan tâm đến hiệu quả , chỉ thực hiện theo kế hoạch, mệnh lệnh, không quan tâm đến thị trường cũng như các quy luật kinh tế khách quan nên hiệu quả thấp, chế độ hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Tỷ Lệ (%) vốn td tham gia cấu thành địng mức vốn lưu động của doanh nghiệp Đơn vị %
Các qđ
Nghành
QĐ 54/ttg ngày 19/12/1959
QĐ 32/cp ngày 11/2/1977
NSNN cấp
NH cho vay
NSNN cấp
NH cho vay
XN công nhiệp,GTVT
XN nông nghiệp
XN thương nghiệp
XN dịch vụ
70
70
30
30
30
30
70
70
50
50
30
10
50
50
70
90
Tín dụng được tập trung chủ yếu cho kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể .
Trong tín dụng ngắn hạn, tổng dư nợ không ngừng tăng thêm, dư nợ đến cuối năm 1985 đã tăng 43 lần so với cuối năm 1980. Tốc độ tăng bình quân hàng năm 150,3%.
Sự bất cập trong hệ thống ngân hàng là nguyên nhân gây ra hiện tượng ngân hàng nhà nước vừa là người phát hành vừa là người cho vay; vừa quản lý vừa kinh doanh. Hoạt động tín dụng chỉ coi trọng tín dụng ngắn hạn coi nhẹ tín dụng trung hạn và dài hạn, bao cấp vốn tín dụng thay cấp vốn ngân sách cho các đơn vị kinh tế. Lấy tiền phát hành làm nguồn vốn, lấy vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn và cho vay xây dựng cơ bản. Coi nhẹ công cụ lãi suất trong điều hoà cung cầu vốn điều chỉnh tiền tệ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay làm cho các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp, sử dụng tiền vay không đúng mục đích,không hiệu quả ,có trường hợp dùng tiền vay để gửi tiết kiệm hay cho vay lại. Do tổ chức chồng chéo, đội ngũ cán bộ đông về số lượng nhưng trìng độ không đồng đều, quản lý theo kiểu hành chính mệnh lệnh nên hiệu suất công tác thấp.
Nguyên nhân của tình hình trên là do thời gian dài không thừa nhận thị trườngvà chịu ảnh hưởng nặng nề của tính bao cấp trong hoạt động tín dụng dẫn đến sự ỷ lại vào nhà nước ,các đơn vị sử dụng vốn lãng phí thất thoát không thu hồi được nợ, làm thiệt hại cho nhà nước. Chất lượng tín dụng thời kì này mang tính bề nổi.
2. Giai đoạn 1986 đến 1990
Trong thời kỳ này nhận định được hạn chế của thời kỳ bao cấp , khi cả nước bước vào thời kỳ đổi mới chất lượng tín dụng cũng được cải thiện đáng kể. Tín dụng thời kỳ này đã bước đầu chú ý đến hiệu quả và góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh. Tín dụng tăng nhanh chủ yếu là tín dụng ngắn hạn cho vay vốn lưu động (chiếm 90 đến 95% tổng số dư nợ cho vay nền kinh tế ). Tín dụng vốn cố định bị hạn chế. Điều đáng chú ý là việc cải thiện cho vay với doanh nghiệp quốc doanh. Tín dụng không còn tham gia theo phần định mức vốn lưu động mà chỉ nhằm bổ xung nhu cầu vốn cần thiết vượt quá vốn tự có của doanh nghiệp. Điều đó dã phát huy chức năng đòn bẩy của tín dụng chống bao cấp thu hẹp dần phạm vi cấp phát của ngân sách nhà nước. Bằng việc cho vay trong hạn mức tín dụng và cho vay ngoài hạn mức tín dụng đã bước đầu gắn liền với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tuy nhiên tín dụng vẫn bị động và chưa có ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế tín dụng cho ngân sách ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Tín dụng chưa theo kịp sự phát triển của sản xuất xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng sản xuất thời kỳ này bung ra mạnh , các ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu vốn đã làm cho có sự nảy sinh gần như tự phát của nhiều tổ chức tín dụng đứng ra huy động với lãi suất hấp dẫn và cho vay tràn lan. Do lãi suất thị truờng không có sự quản lý và điều tiết các quy chế chưa được ban hành kịp thời đã làm xuất hiện mộy số tổ chức tín dụng thiếu lành mạnh chạy theo mục đích kiếm lời lừa đảo. Tính đến 20/11/1990 chỉ còn có 18 đơn vị hoạt động bình thường trên 100 đơn vị có khó khăn , số còn lại mất khả năng chi trả trầm trọng hoặc vỡ nợ.
Hoạt động tín dụng chưa thực hiện được cơ chế kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế thể hiện lãi âm lãi suất cho vay <lãi suất tiền gửi< tốc độ lạm phát (trong thời kỳ 1987-1990 lãi suất tiền gửi bình quân là 72% cho vay bình quân là 51,6%, mức độ lạm phát bình quân là 183,8%), nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên do đây là giai đoạn chuyển tiếp từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nên cơ chế quản lý mới chưa hoàn chỉnh chưa đủ mạnh để bứt khỏi cơ chế cũ. Mọi hoạt động tín dụng còn mang nặng ảnh hưởng của cơ chế bao cấp, tuy vậy chất lượng tín dụng bắt đầu tiếp cậnvới thị trường , đáp ứng nhu cầu vốn theo tín hiệu thị trường góp phần chống bao cấp qua tín dụng tăng tính sáng tạo chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tín dụng còn bị động chưa có hiệu quả kinh tế chưa thực sự là đòn bẩy kinh tế. Nhìn chung đây là bước thay đổi lớnđánh dấu bước chuyển biến căn bản làm tiền đề cho hoạt động tín dụng chuyển hẳn sang kinh doanh theo cơ chế thị trường.
3. Giai đoạn 1990 đến nay
a. Tích cực
Đặc điểm nổi bật nhất đánh dấu cho thời kỳ này là Nghị định 53/HĐBT về việc thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp thể hiện qua hai pháp lệnh:pháp lệnh về Ngân hàng nhà nước và pháp lệnh về Ngân hàng ,hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực từ tháng 10/1990 đã tạo nhân tố mới cho nền kinh tế nhưng đã đem lại những hình thức và nội dung mới trong lĩnh vực hoạt động chu chuyển vốn. Với sự thay đổi này của hoạt động tín dụng đã góp phần khắc phục tình trạng rối loạn và lạm phát trầm trọng kéo dài,khắc phục một bước tình trạng doanh nghiệp quốc doanh ỷ vào vốn bao cấp của ngân sách nhà nước,với phương châm đi vay để cho vay các ngân hàng thương mại đã tích cực huy động vốn với nhiều hình thức phong phú thích hợp như : Phát hành kỳ phiếu ,trái phiếu ,đa dạng hoá các loại tiền gửi tiết kiệm nên đã tăng trưởng được nguồn vốn để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế ,nguồn vốn huy động vào cuối năm 1995 tăng gần 7 lần so với năm 1990. Tỷ trọng huy động vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh so với tổng khối lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng trong toàn quốc tuy giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số nguồn vốn huy động. Điều đó chứng tỏ các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn chiếm ưu thế trong cạnh tranh và đảm bảo lòng tin với người gửi tiền.
Cơ cấu cho vay thay đổi theo hướng của nền kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo trên lĩnh vực hoạt động tiền tệ tín dụng và là công cụ trực tiếp để thực hiện các chủ trương đường nối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế tăng nhanh, tính đến cuối năm 1995 tổng dư nợ đối với nền kinh tế tăng gần bảy lần so với năm 1990. Tỷ trọng cho vay nền kinh tế quốc doanh tăng dần từ 10% năm 1991 lên 42% năm 1995 trong khi vẫn đảm bảo có chọn lọc đápứng vốn để duy trì những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Thông qua chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo xu hướng tăng dần tỷ trọng cho vay trung ,dài hạn tù 15% năm 1991 đến 31% năm 1995 trong đó chủ yếu là cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại quốc doanh (chiếm trên 90%tổng dư nợ trong toàn hệ thống ngân hàng )đã chứng tỏ vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại quốc doanh đối với nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng ngân hàng được đổi mới, đã chuyển hướng thực sự theo cơ chế thị trường , phương thức hoạt động kinh doanh đa năng , tác phong lề nối đổi mới , lấy chất lượng làm mục tiêu chính cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Các điều kiện vay vốn và phương thức đầu tư vôns luôn được cải tiến. Hiệu quả sử dụng vốn cao , hầu hết các món vay vùa qua đều được sử dụng đúng mục đích, doanh nghiệp làm ăn có lãi trả được lãi cho ngân hàng. Dư nợ tín dụng tăng trưởng liên tục có hiệu quả. Cơ chế lãi suất linh hoạt trong khuôn khổ mức lãi suất do ngân hàng nhà nước qui định , chính sách khách hàng bám sát tín hiệu thị trườngđẫ thu hút được nhiều khách hàng , tạo động lực mạnh thúc đẩy kinh doanh ngày càng phát triển
Tín dụng góp phần thực hiện các chính sách xã hội tập trung vốn đầu tư vào các trương trình dự án lớn như : mở rộng cho vay hộ nông dân và hộ cá thể. Cho vay sinh viên các trường đại học cao đẳng, cho vay với hộ nghèo trên toàn bộ các tỉnh trên ba miền của đất nước. Ngoài ra còn thực hiện nhiều hình thức tín dụng tài trợ khác từ các nguồn vốn tài trợ uỷ thác
như các chương trình tín dụng Việt Đức cho vay người nghèo từ Đức trở về...
Việc thực hiện đa dạng hoá các loại hình tín dụng (tài trợ nhập khẩu và xuất khẩu trực tiếp cho vay phát triển kinh tế biển tín dụng hỗ trợ sản xuất kinh doanh ...)để đáp ứng nhu cầu vốn của thị trường trên cơ sở phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng. Lãi suất chuyể dần từ lãi suất âm sang lãi suất dương tiến dần đến lãi suất thị trường. Sự tiến bộ trong chính sách tín dụng chứng tỏ khả năng thích nghi của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Các ngân hàng đã cố gắng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tăng vòng quay tiền tệ , giảm nợ quá hạn lãi ngày càng cao góp phần tăng trưởng kinh tế hạn chế lạm phát.
Tuy nhiên trong bước đầ chuyển sang kinh tế thị trườngbên cạnh những thành tựu đã đạt hoạt động tín dụng còn có những hạn chế nhất định đòi hỏi các ngân hàng thương mại cần phải tiếp tục xem xét để cải tiến không ngừng chất lượng tín dụng
b. Những tồn tại
Nhìn chung nợ quá hạn đã giảm nhiều so với trước đây nhưng vẫn còn cao so với thông lệ quốc tế. Tỷ lệ nợ quá hạn từ 16% năm 1990 giảm xuống 12,5% năm 1992 ; 9,6% năm 1993 ;4,6% năm 1994; 3,5% năm 1995; 1,87% năm 1996 ;1,72% năm 1997 tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn cao, trong số nợ quá hạn chủ yếu là nợ có khả năng thu hồi do các ngân hàng còn nắm giữ tài sản thế chấp, có thể thanh lý để giảm tỷ lệ nợ quá hạn .
Việc chấp hành các điều luật và thể lệ tín dụng ngắn hạn và trung hạn chưa nghiêm túc còn vi phạm nguyên tắc đối tuợng cho vay. Một biểu hiện của hiện tượng này là cho vay trong trường hợp vốn tự có của doanh nghiệp quá nhỏ, chênh lệch giữa vốn tự có của doanh nghiệp và vốn vay tới hàng chục thậm chí hàng trăm lần nhất là các khoản vay cho xây dựng cơ bản nhiều trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ , có nợ quá hạn vẫn được vay. Cho vay thiếu vật tư đảm bảo , việc thế chấp tài sản còn nhiều sơ hở. Hồ sơ thế chấp vay vốn còn nhiều trường hợp chỉ mang tính hình thức, chưa đảm bảo cơ sở pháp lý. Việc lưu trữ tài sản thế chấp tại ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn do bị hạn chế bởi thiếu kho đảm bảo. Cho vay sai chức năng không đúng đối tượng ví dụ như công ty Đất Việt tại thành phố Hồ Chí Minh không có chức năng kinh doanh nghành may mặc nhưng ngân hàng ngoại thương Hồ Chí Minh vẫn cho vay 2 triêụ USD để mua lại toàn bộ phân xưởng may mặc của công ty Minh Phụngdẫn tới không trả được nợ theo hợp đồng.
Hoạt động tín dụng còn chưa phản ánh đúng thực chất của các khoản nợ do việc xác định thời hạn cho vay, gia hạn nợ,chuyển nợ quá hạn , cho vay mới trả nợ cũ nhiều nơi còn tuỳ tiện. Một hiện tượng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đó là nhiều ngân hàng thương mại cho vay khi không có đầy đủ thông tin về khách hàng, cán bộ tín dụng chưa nắm chắc tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có trường hợp nhiều ngân hàng thương mại cùng cho vay một doanh nghiệp dẫn đến nợ khó đòi hoặc bị lừa đảo. Việc một số ngân hàng thương mại tập trung cho vay một số khách hàng quá lớn trên 10% vốn tự có của ngân hàng dẫn đến rủi ro lớn về khả năng trả nợ như những vụ đã đi vào dư luận của cả nước như TAMEXCO,dệt Nam Định...
Một hạn chế lớn đó là việc sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn huy động được. Do lãi suất cho vay hạ nên nhiều khách hàng trả nợ trước hạn để vay lại với lãi suất hạ hơn. Trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất thì ngân hàng lại không cho vay ra được số vốn đã huy động. Sở dĩ có tình trạng trên là do ngân hàng chưa thay đổi kịp với sự thay đổi của cơ chế ,ngân hàng không tìm được khách hàng đủ tiêu chuẩn để cho vay hoặc mức cho vay của một số ngân hàng đã xấp xỉ hạn mức tín dụng nên không được sử dụng thêm nguồn vốn đã huy động. Tuy nhiên mức cho vay bình quân của các ngân hàng mới đạt 60-65% số vốn huy động. Đặc biệt vốn cho vay hộ nghèo với lãi suất thấp không giải ngân được trong khi các đối tượng này đang rất cần vốn để sản xuất. Tình hình trên cho thấy tín dụng chưa nhạy bén với cơ chế thị trường , chưa dự tính được sự thay đổi của môi trường kinh doanh , cũng như chưa có định hướng lâu dài với nhưng phương án dự phòng rủi ro trong khi cơ chế lại chưa ổn định dẫn tới tín dụng chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng.
4. Một số nguyên nhân
Một trong số nguyên nhân chủ quan là do một số ngân hàng và cán bộ ngân hàng buông lỏng quản lý , thiếu tinh thần trách nhiệm đã không kiểm tra chặt chẽ trước trong và sau khi vay nên các đơn vị đã sử dụng sai mục đích nhưng cán bộ tín dụng không phát hiện và ngăn chặn kịp thời dẫn đến đơn vị không trả được nợ đúng hạn.
Trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng tuy đã được quan tâm đào tạo song vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng nhu cầu của cơ chế thị trường, chưa đủ khả năng, trình độ ,kinh nghiệm đánh giá đúng tính hiệu quả và mức độ rủi ro của dự án, vốn cho vay nên đã không ngăn ngừa có hiệu quả rủi ro ngay từ khi xét duyệt cho vay. Một số ít cán bộ còn cố ý làm sai không chấp hành nghiêm chỉnh thể lệ làm phát sinh những hiện tượng tiêu cực dãn đến bị lừa đảo, cho vay không thu hồi được nợ. Việc kiểm tra kiểm soát các khoản tiền vay của khách hàng chủ yếu giao cho cán bộ tín dụng trực tiếp kiểm tra thu hồi nợ , chưa có sự phối hợp giữa các bộ phận. Mặt khác trong điều kiện địa bàn hoạt động rộng gây khó khăn trong việc theo dõi khách hàng.
Các phương tiện máy móc phục vụ nghiệp vụ và thông tin ở nhiều chi nhánh ngân hàng còn yếu kém , chất lượng thông tin cung cấp còn chưa cao đây cũng là một trong các nguyên nhân làm cho phân tích , nhận định khách hàng kém chính xác, các quyết định tín dụng kém hiệu lực.
Vai trò chủ động kiểm tra , kiểm soát chưa thường xuyên , sâu sát ,nghiêm túc là một yếu tố trựe tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro chưa thực sự phát huy hiệu quả. Việc phối hợp giữa các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp thông tin về khách hàng và việc kiểm tra cũng còn nhiều hạn chế.
Tuy đã bắt đầu bắt nhịp với kinh tế thị trường nhưng các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh , đổi mới và hoàn thiện.Mặt khác quá trình thích ứng của các doanh nghiệp với cơ chế thị trường còn chậm ,việc điều chỉnh và chuyển hướng phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với kinh tế thị trường và chính sách kinh tế vĩ mô. Điều đó dẫn đến sự khó khăn trong việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đầy đủ , chưa đồng bộ. Một số văn bản pháp lý có liên quan đến vấn đề thế chấp vay vốn ngân hàng còn chưa đầy đủ và thiếu văn bản hướng dẫn nên quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn.hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, thanh lý tài sản thế chấp, bảo lãnh... Chưa có các tiêu chuẩn quản lý tín dụng được quy định bằng văn bản có tính thống nhất đối với các ngân hàng thương mại, các nguyên tắc tín dụng chưa được chỉnh sửa cho phù hợp với thực tế đã gây không ít khó khăn trong quản lý hoạt động tín dụng.
vi. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
1. Đánh giá đúng thực tế khách hàng
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường song song với việc mở rộng phạm vi và qui mô tín dụng đối tuợng khách hàng cũng ngày càng phong phú, theo đó cũng làm tăng khả năng rủi ro đe doạ sự tồn tại của ngân hàng vì vậy việc đánh giá khách hàng có sự quan trọng đặc biệt. Chất lượng đánh giá khách hàng thể hiện ở khả năng phân tích nhận định tình hình khách hàng trước trong và sau khi cho vay điều này có quan hệ trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Tiến hành đánh giá nhu cầu vay vốn của khách hàng xác định khách hàng là ai mục dích của khoản vay , khả năng thu hồi vốn. Người vay phải có tư cách tốt(là công dân tốt hay doanh nghiệp có uy tín trên thị trường)có đủ tư cách pháp nhân và năng lực pháp lý ,người vay có tình hình sản suất kinh doanh tốt có khả năng phát triển. Người vay phải có khả năng trả món nợ đúng thời hạn. Tình hình vốn của doanh nghiệp cũng là một yếu tố giúp ngân hàng phân tích được rủi ro, người vay phải có tình hình tài chính vững chắc và không ngừng được phát triển. Điều đó được thể hiện ở tài sản của doanh nghiệp không ngừng tăng lên một cách hợp pháp. Thế chấp thể hiện mức độ an toàn của vốn tín dụng do đó nó cần được quan tâm đúng mức khi đánh giá khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng liên quan trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ,chỉ tiêu đó thể hiện ở tỷ lệ lãi so với tổng số vốn:
Lãi ròng sau thuế Tỷ lệ lãi =
Vốn tự có
Tỷ lệ này phản ánh mức sinh lời trên một đồng vốn tự có là cơ sở đánh giá khả năng tồn tại của khách hàng. Ngoài những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân hàng pải quan tâm đến tình hình nợ của doanh nghiệp có bao nhiêu ngân hàng đã cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp ,có nợ quá hạn không, khả năng thu hồi các khoản nợ này.
2. Thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng
Khách hàng liên quan trực tiếp tới chất lượng tín dụng , họ vừa là người cho vay ,vừa là người đi vay ,thiết lập mối quan hệ lâu dài với khách hàng giúp ngân hàng có điều kiện nắm vững các thông tin liên quan tới khách hàng để có đối sách thích hợp để đứng vững trong cạnh tranh.
Ngày nay vai trò của ngân hàng trong việc trực tiếp và chủ động tìm hiểu khách hàng đã trở nên phổ biến cùng với hiệu quả của nó đem lại với chất lượng hoạt động của ngân hàng,do đó tầm quan trọng của Marketing ngân hàng đã thể hiện rõ.mỗi ngân hàng cần thiết lập bộ phận tiếp thị để nghiên cứu thị trường xem xét đánh giá các mối quan hệ với khách hàng tìm hiểu ,thăm dò khách hàng về đặc điểm ,nhu cầu khách hàng cũng như các động cơ của khách hàng. Định kỳ phân tích đánh giá mối quan hệ với khách hàng để tìm ra những khúc mắc và giải quyết kịp thời. Không ngừng nâng cao và củng cố uy tín của ngân hàng trên thị trường thông qua việc cải thiện các thể chế cho vay .
3. Tăng cường quản lý nợ ,giải quyết nợ quá hạn
Tiến hành đánh giá phân loại các khoản nợ để quản lý rủi ro tín dụng cho các khoản nợ nói riêng cũng như toàn bộ tài sản nói chung, mức độ rủi ro của các khoản nợ sẽ được điều chỉnh theo quá trình diễn biến của các khoản nợ. Những căn cứ để phân loại nợ là dựa vào khả năng tài chính ,giá trị của tài sản thế chấp hoặc khả năng của người bảo lãnh. Phân loại theo thời gian quá hạn của các khoản nợ. Việc phân loại đánh giá nợ sẽ phản ánh tình hình hoạt động của ngân hàng giúp cho việc kiểm tra kiểm soát dễ dàng thuận tiện ,là căn cứ để đánh giá rủi ro, xây dựng quỹ dự phòng rủi ro ,định lượng rủi ro để có biện pháp thích hợp để giảm thiểu rủi ro .
Có biện pháp rà soát lại toàn bộ khách hàng cũng như các khoản nợ đặc biệt là nợ quá hạn ,kiểm tra kiểm soát quá trình cho vay để không phát sinh thêm nợ quá hạn mới. Chú trọng các biện pháp giảm tỷ lệ nợ quá hạn như tăng cường thông tin tín dụng để kịp thời phát hiện nguyên nhân xử lý. Vấn đề giải quyết nợ quá hạn là hết sức bức bách đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh do tồn đọng các khoản nợ của các doanh nghiệp nhà nước từ thời kỳ bao cấp nó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của ngân hàng. Một số biện pháp cụ thể như dùng áp lực của cơ quan bảo vệ pháp luật chủ yếu là cơ quan cảnh sát kinh tế ép các đối tượn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 781.doc