Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh

Số thuế GTGT và TNDN thu được của công ty TNHH năm 2008 tăng so với năm 2007 là do: số lượng công ty TNHH hoạt động kinh doanh trong năm tăng, hoặc cũng có thể là công tác chống thất thu và thu hồi nợ đọng có hiệu quả. Trong tất cả các loại hình chỉ có quỹ tín dụng là có số thuế GTGT và TNDN nộp giảm đi trong khi số lượng đơn vị kinh doanh không đổi điều này cho thấy các doanh nghiệp này nợ đọng trong năm 2008 tăng và có thể là công tác quản lý không tốt nên các doanh nghiệp này có thể trốn thuế hoặc có thể trong năm các doanh nghiệp này làm ăn không hiệu quả.

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5066 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng bán hàng mà là đang kiểm kê lại hàng….. - Trốn thuế thông qua việc sử dụng hóa đơn. Tình trạng gian lận thuế thông qua việc sử dụng hóa đơn làm cho NSNN thất thu cả về thuế GTGT và TNDN. Để trốn thuế các doanh nghiệp bán hàng ghi giá trên hóa đơn thấp hơn giá thực tế thu của khách hàng, điển hình của hình thức này là các doanh nghiệp kinh doanh xe máy, ô tô. Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn lợi dụng việc mua hàng mà không lấy hóa đơn của người dân để không xuất hóa đơn bán hàng, điển hình là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực buôn bán vật liệu xây dựng, như đã biết các công trình xây dựng chủ yếu của người dân là nhà cửa vì thế chi phí vật tư có thể lên tới vài chục thậm chí vài trăm triệu đồng do vậy mà nhà nước sẽ mất đi một khoản tiền rất lớn. Một số doanh nghiệp còn sử dụng hóa đơn giả, hóa đơn của doanh nghiệp đã bỏ trốn để hợp thức hóa thuế GTGT đầu vào được khấu trừ nhằm chiếm dụng tiền thuế GTGT khi xác định thuế GTGT phải nộp và làm tăng chi phí được trừ khi xác định thuế TNDN, ví dụ như trường hợp của công ty cổ phần đầu tư phát triển Hoàng Long sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp bỏ trốn. Các doanh nghiệp còn trốn thuế thông qua việc kê khai không đúng thuế suất, tình trạng kê khai thuế suất của các mặt hàng bán ra từ mức thuế suất 10% xuống mức 5 %, hay kê khai thuế đầu vào của các mặt hàng từ mức 5% lên 10% vẫn còn phổ biến. Ví dụ như trường hợp của công ty TNHH phát triển kỹ thuật cơ điện. -Trốn thuế thông qua việc ghi giảm doanh thu. Doanh thu là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến việc xác định thu nhập chịu thuế, qua đó ảnh hưởng đến số thuế phải nộp do đó các doanh nghiệp thường tìm mọi cách để khai giảm doanh thu. Doanh thu của các người nộp thuế có thể có được từ nhiều hoạt động khác nhau, từ nhiều nơi khác nhau vì thông thường các doanh nghiệp ngoài việc sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực chính còn có nhiều lĩnh vực khác tuy nhiên khi kê khai doanh thu thì họ không kê hoặc kê thấp hơn thực tế do vậy việc quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ một số doanh nghiệp vừa bán buôn vừa bán lẻ thì họ thường hạch toán giá bán lẻ theo giá bán buôn. Hay một số doanh nghiệp sản xuất có phụ phẩm họ bán nhưng không ghi vào doanh thu ví dụ như trường hợp của công ty cổ phần thương mại Vân Anh. - Trốn thuế thông qua việc ghi tăng chi phí. Cùng với doanh thu chi phí là yếu tố quan trọng thứ hai để xác định số thuế TNDN phải nộp, do vậy cùng với việc ghi giảm doanh thu các doanh nghiệp còn tìm cách ghi tăng các khoản chi phí được trừ bằng cách. + Vẫn tính khấu hao đối với các tài sản cố định không đủ điều kiện khấu hao hoặc đã khấu hao hết, ví dụ như trường hợp của công ty TNHH Quyền Anh. + Khai tăng chi phí vật tư: Chi phí vật tư thực tế sử dụng vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong kỳ liên quan đến doanh thu, thu nhập chịu thuế trong kỳ được xác định dựa trên hai căn cứ là mức tiêu hao vật tư hợp lý và giá thực tế xuất kho do cơ sở sản xuất, kinh doanh tự xác định. Mức tiêu hao vật tư hợp lý được xây dựng từ đầu năm hoặc đầu kỳ sản xuất sản phẩm nếu doanh nghiệp không tự xác định được thì lấy của cơ sở cùng ngành nghề. Tuy nhiên một vấn đề được đặt ra là thế nào là mức tiêu hao hợp lý? ai phán quyết mức tiêu hao hợp lý này… do vậy một số doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách này của nhà nước để ghi tăng chi phí vật tư mua vào để làm tăng các khoản chi phí được trừ. Ngoài ra khi các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực mà vật tư mua vào là mây, tre, đất, đá, cát sỏi của người dân trực tiếp khai thác thì được lập bảng kê theo quy định khi đó sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này lợi dụng để khai khống chi phí đầu vào. Ví dụ như công ty bê tông Thăng Long sản xuất các loại cọc ép bê tông đã lập bảng kê mua đá, cát trong tháng 3 và tháng 4 năm 2008 là trên 300 triệu đồng nhưng chi cục khó có thể xác minh được do công ty mua của nhiều người và đều thanh toán bằng tiền mặt. + Thông qua việc khai tăng chi phí tiền lương cuả nhân viên, khai tăng thêm lao động, khai khống thời gian làm thêm của nhân viên. Các doanh nghiệp thường lập hai hệ thống sổ để đối phó với cơ quan thuế khi bị kiểm tra. + Khai tăng chi phí quản lý: Các doanh nghiệp còn khai tăng các chi phí quản lý như khai tăng chi phí quản lý doanh nghiệp… Chính vì nhận thức được tầm quan trọng trong công tác chống thất thu thuế nên trong thời gian qua chi cục thuế huyện Đông Anh đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế nhất là đối với hai sắc thuế GTGT và TNDN. 2.2.3.2. Các biện pháp mà chi cục đã áp dụng để tăng cường công tác quản lý chống thất thu thuế GTGT và TNDN Trong năm qua chi cục thuế huyện Đông Anh đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm hạn chế tình trạng thất thu thuế đặc biệt là đối với hai sắc thuế GTGT và TNDN như: * Công tác tuyên truyền, hỗ trợ. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế nhất là từ khi luật quản lý thuế được ban hành chi cục thuế huyện Đông Anh đã có nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục hướng dẫn cá nhân, doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. - Về công tác tuyên truyền Với mục tiêu nâng cao sự hiểu biết về các chính sách thuế của nhà nước, nâng cao tính chủ động, tự giác, tự khai, tự nộp thuế theo quy định chi cục thuế có nhiều sáng tạo trong công tác truyên truyền như: Nội dung tuyên truyền được đổi mới, đảm bảo thống nhất trong đó trọng tâm là tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế trong đó đặc biệt chú trọng đến phổ biến nội dung các luật thuế mới được sửa đổi, ban hành. Trong năm 2008 Chi cục tổ chức được 4 hội nghị triển khai, tập huấn luật quản lý thuế cho các doanh nghiệp trên địa bàn huyện thuộc chi cục quản lý. Duy trì các giá sách miễn phí tại chi cục để cung cấp tờ rơi tuyên truyền về thuế cho người nộp thuế và những người có nhu cầu tìm hiểu có thể tiếp cận đễ dàng, theo thống kê năm 2008 chi cục đã phát miễm phí 1.760 tờ rơi tuyên truyền về các sắc thuế mới ban hành, mới được sửa đổi, bổ xung. Hàng quý chi cục gửi tài liệu cho đài phát thanh huyện Đông Anh, các đài phát thanh của các xã, thị trấn để tuyên truyền luật quản lý thuế với số lượng 575 lượt. - Công tác hỗ trợ Ngoài công tác tuyên truyền chi cục còn tích cực hỗ trợ người nộp thuế đảm bảo thủ tục nhanh chóng không gây phiền hà cho doanh nghiệp cũng như người nộp thuế. Trong năm 2008 chi cục đã tư vấn, hỗ trợ cho 401 lượt doanh nghiệp có yêu cầu tư vấn, đảm bảo 100% doanh nghiệp hỏi được tư vấn. Cụ thể: Hướng dẫn, giải đáp trực tiếp cho 138 lượt doanh nghiệp về các sắc thuế mới được sửa đổi, bổ xung. Thực hiện trả lời tất cả 262 cuộc điện thoại hỏi. Trong năm 2008 đã nhận được 1 công văn hỏi về chính sách thuế TNDN, chi cục đã trả lời theo đúng quy định. Từ tháng 4 năm 2008 cung cấp miễn phí 594 đĩa mền, cóppy cho 499 đơn vị phần mền hỗ trợ kê khai thuế cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn huyện. Chính nhờ thực hiện tốt công tác tuyên truyền, hỗ trợ mà ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế cũng tăng lên đáng kể, biểu hiện ở chỗ tỷ lệ nộp tờ khai đúng hạn của các doanh nghiệp đang kinh doanh đã tăng lên. Tháng 1 năm 2008 tỷ lệ nộp tờ khai GTGT mới chỉ là 95% thì đến tháng 6 là 96% và đến tháng 12 là 98%. Tuy nhiên công tác tuyên truyền, hỗ trợ tại chi cục vẫn còn nhiều khó khăn như: +Trong quá trình thực hiện các luật thuế có nhiều thay đổi, các quy trình hướng dẫn chưa có, một số mẫu biểu còn quá nhiều và chưa rõ ràng nên quá trình thực hiện còn khó khăn. +Trình độ của cán bộ đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Chính vì những khó khăn nêu trên nên hiệu quả hoạt động trong công tác hỗ trợ người nộp thuế cũng phần nào bị hạn chế. * Công tác tổ chức cán bộ Việc sắp xếp, tổ chức cán bộ hợp lý cũng góp phần không nhỏ vào việc thực hiện kế hoạch thu đã đề ra và nâng cao hiệu quả thu thuế của các doanh nghiệp. Khi cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có tâm huyết với nghề, có phẩm chất đạo đức tốt thì công tác kiểm tra, thu thuế mới có hiệu quả cao. Chính vì vậy chi cục thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, tổ chức giao lưu với các chi cục khác, khuyến khích cán bộ tự học hỏi nâng cao trình độ vì vậy trình độ cán bộ được nâng lên đáng kể, góp phần quản lý thu ngân sách đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó, chi cục đã kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm 10 điều kỷ luật của ngành. * Công tác quản lý người nộp thuế. Để thu được thuế trước hết cần phải quản lý tốt được người nộp thuế. Công tác quản lý người nộp thuế có ý nghĩa quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến số thu vào ngân sách vì vậy trong thời gian qua chi cục tăng cường quản lý các đơn vị đang kinh doanh, đơn vị chuyển đi nơi khác, đơn vị từ nơi khác chuyển đến, đơn vị tạm nghỉ kinh doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện chịu sự quản lý của chi cục thuế huyện Đông Anh đều đã được cục thuế Hà Nội cấp mã số thuế, tuy nhiên trong thực tế hiện nay số doanh nghiệp chi cục quản lý nhiều hơn số doanh nghiệp nộp thuế. Sở dĩ có tình trạng này là do có tình trạng: + Doanh nghiệp bỏ kinh doanh + Doanh nghiệp bỏ trốn + Doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh Trong năm qua các doanh nghiệp xin tạm nghỉ kinh doanh có xu hướng gia tăng cụ thể: Biểu 5: Bảng số liệu tạm nghỉ kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại huyện Đông Anh Đơn vị tính: Đơn vị Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Số DN Tỷ lệ % DN bỏ trốn 127 170 43 33,9 DN bỏ kinh doanh 59 92 33 55,9 DN tạm nghỉ 178 220 42 23,6 Tổng quản lý 1222 1538 316 25,9 Nguồn : chi cục thuế Đông Anh Qua biểu trên có thể thấy các doanh nghiệp bỏ trốn, bỏ kinh doanh và tạm nghỉ kinh doanh năm 2008 đều tăng so với năm 2007. Các doanh nghiệp bỏ kinh doanh tăng 33 doanh nghiệp với tỷ lệ 55,9%, các doanh nghiệp xin tạm nghỉ kinh doanh cũng tăng 42 doanh nghiệp với tỷ lệ tăng 23,6%, số doanh nghiệp bỏ trốn năm 2008 cũng tăng lên so với năm 2007 là 43 doanh nghiệp với tỷ lệ tăng 33,9%. Chính vì vậy số thuế không thu được của các doanh nghiệp này cũng làm cho tỷ lệ thất thu thuế tăng lên vì đối với những doanh nghiệp bỏ trốn và bỏ kinh doanh thì khả năng thu thuế còn thiếu là rất khó khăn. Với những doanh nghiệp xin tạm nghỉ kinh doanh có thể xảy ra tình trạng nghỉ giả tức là có đơn xin nghỉ nhưng thời gian thực tế nghỉ kinh doanh ít hơn thời gian ghi trong đơn hoặc có đơn nghỉ nhưng thực tế vẫn kinh doanh. Do số lượng cán bộ có hạn, địa bàn lại rộng nên việc kiểm tra cũng rất khó khăn hoặc nếu khi kiểm tra có phát hiện thì họ có nhiều lý do như đang kiểm tra lại hàng, hoặc sửa chữa máy móc và đang chạy thử… Qua kiểm tra tháng 12 năm 2008 chi cục phát hiện công ty TNHH Thiên Hà có hoạt động kinh doanh trong thời gian xin nghỉ, chi cục phạt 960.000 đồng. Tuy nhiên cũng thấy rằng nếu số doanh nghiệp nghỉ giả lớn hay các doanh nghiệp này xin nghỉ giả trong thời gian dài thì số tiền phạt có thể nhỏ hơn rất nhiều số thuế mà họ phải nộp nếu kinh doanh. Vì vậy nếu nếu không quản lý được các doanh nghiệp này thì sẽ gây thất thu thuế cho ngân sách. * Công tác kiểm tra Công tác kiểm tra luôn được chi cục chú trọng nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế, nâng cao năng lực của cơ quan thuế trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các tổ chức, cá nhân có hành vi gian lận, trốn thuế, phát huy tính tự giác chấp hành và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện đúng quy định về kê khai, nộp thuế. Kiểm tra tại cơ quan thuế Hàng năm chi cục kiểm tra sơ bộ tất cả hồ sơ khai thuế, sau đó phân tích, đánh giá, lựa chọn các cơ sở kinh doanh có rủi ro về thuế để lập danh sách phải kiểm tra. + Kiểm tra hồ sơ khai thuế. Kiểm tra việc ghi chép, phản ánh các chỉ tiêu trong hồ sơ khai thuế. Cán bộ thuế kiểm tra nội dung kê khai trong hồ sơ khai thuế, đối chiếu với cơ sở dữ liệu của người nộp thuế, so sánh với dữ liệu nộp thuế cùng ngành nghề, cùng mặt hàng kinh doanh để phân tích, đánh giá nhằm phát hiện ra các trường hợp khai chưa đầy đủ, chính xác dẫn đến việc thiếu thuế, gian lận thuế. Hiện nay theo quy định của luật quản lý thuế thì các doanh nghiệp tự khai, tự tính, tự nộp thuế do vậy đòi hỏi tính tự giác cao của doanh nghiệp.Qua kiểm tra tờ khai thì hầu hết các doanh nghiệp đã kê khai chính xác các chỉ tiêu trên hồ sơ khai thuế và nộp tờ khai đúng hạn chỉ còn một số ít các doanh nghiệp còn xảy ra tình trạng kê nhầm thuế suất, tính toán sai số thuế phải nộp…công tác kiểm tra tờ khai đã phát hiện kịp thời những sai sót từ đó nhắc nhở và yêu cầu doanh nghiệp kê khai lại. Tuy nhiên bên cạnh các doanh nghiệp nộp tờ khai đúng hạn thì còn nhiều doanh nghiệp nộp chậm thậm chí là không nộp tờ khai. Theo báo cáo tổng số tờ khai thuế GTGT phải nộp trong năm 2008 của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 11.525 tờ khai, nhưng số tờ khai cơ quan thuế nhận được tính đến hết ngày 31/12/2008 là 11.036 tờ khai, như vậy tỷ lệ nộp tờ khai mới chỉ đạt 96%. Việc thực hiện kê khai theo mã vạch hai chiều đã được chi cục áp dụng và đạt được kết quả khá tốt, tính đến hết ngày 31/12/2008 chỉ còn khoảng 0,5% số doanh nghiệp chưa thực hiện kê khai theo mã vạch hai chiều. Chi cục đôn đốc các doanh nghiệp nộp tờ khai thuế TNDN tạm nộp đúng hạn. Chi cục tiến hành rà soát, kiểm tra 100% tờ khai thuế TNDN, tính đến 25/12/2008 số thuế TNDN của 3 quý đầu năm là 11.036 triệu đồng. Kiểm tra căn cứ tính thuế để xác định số thuế phải nộp Việc kiểm tra căn cứ tính thuế có ý nghĩa rất quan trọng để xác định số thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn giảm. Trên cơ sở hồ sơ khai thuế cán bộ thuế đối chiếu với các chỉ tiêu trong tờ khai thuế với các tài liệu kèm theo; đối chiếu với các quy định văn bản pháp luật về thuế; đối chiếu với cơ sở dữ liệu của các cơ sở kinh doanh có cùng quy mô, mặt hàng kinh doanh; đối chiếu với các tài liệu thu thập được từ các nguồn khác để có thể xác định số thuế phải nộp. a, Đối với thuế GTGT Công tác kiểm tra thuế GTGT đầu ra. Thuế GTGT đầu ra là một trong hai yếu tố quyết định đến số thuế GTGT phải nộp của doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Thuế GTGT đầu ra được xác định trên cơ sở doanh thu bán hàng tập hợp trên các hóa đơn, chứng từ phù hợp với số liệu trên sổ sách kế toán của đơn vị. Để số thuế GTGT đầu ra thấp đi các doanh nghiệp chỉ sử dụng việc ghi chép sổ sách, chứng từ chỉ là hình thức, số lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn không đúng thực tế số lượng mà doanh nghiệp đã bán ra, bên cạnh đó các hóa đơn bán hàng cho cá nhân tiêu dùng cũng không ghi rõ địa chỉ của người mua nên việc xác minh cũng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ như công ty TNHH TM và SX Thịnh Vượng kê khai doanh số bán ra thấp hơn thực tế, chi cục xác minh và yêu cầu doanh nghiệp kê khai lại làm tăng 145,89 triệu đồng, hay như công ty TNHH Quang Khoa kê khai thiếu doanh thu bán ra, qua kiểm tra chi cục truy thu 8,34 triệu đồng. Các doanh nghiệp còn kê khai giá bán ra trên hóa đơn thấp hơn nhiều giá thực tế thu của khách hàng, điển hình là các doanh nghiệp kinh doanh xe ô tô, xe máy. Trong năm 2008 chi cục tiến hành kiểm tra thuế kết hợp với kiểm tra giá của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn qua đó đã xử lý truy thu và phạt 5 đơn vị số tiền là 414 triệu đồng về hành vi bán xe ô tô dưới giá tính lệ phí trước bạ. Ví dụ công ty TNHH Khang Minh là doanh nghiệp kinh doanh ô tô kê khai doanh thu bán xe dưới lệ phí trước bạ chi cục truy thu thuế GTGT là 138,52 triệu đồng. Một hình thức làm giảm thuế GTGT đầu ra khác là kê khai thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra thấp hơn thực tế quy định trong luật qua đó để giảm thuế GTGT đầu ra qua đó để làm giảm số thuế GTGT phải nộp. Ví dụ như công ty TNHH cơ điện Hoàng Minh kê khai thuế suất đầu ra của mặt hàng máng cáp điện từ mức 10% xuống 5%, chi cục bắt doanh nghiệp kê khai lại làm thuế GTGT tăng thêm 8,18 triệu đồng. Các doanh nghiệp còn không kê khai doanh số từ những hoạt động khác như thanh lý tài sản, ví dụ như công ty cổ phần thương mại Vân Anh trốn doanh số bán thanh lý ô tô, chi cục truy thu 107,95 triệu đồng. Các doanh nghiệp còn kê khai chậm doanh số hàng hóa bán trong kỳ, ví dụ như công ty cổ phần phát triển Hùng Cường đến tháng 3 năm 2008 mới kê khai doanh số của tháng 2 chi cục truy thu 2,24 triệu đồng. Công tác kiểm tra thuế GTGT đầu vào. Cùng với thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là yếu tố quyết định đến số thuế GTGT phải nộp trong kỳ của các doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp đều muốn khấu trừ thuế GTGT càng nhiều càng tốt cho nên các doanh nghiệp này khi kiểm tra đều có đầy đủ hóa đơn của hàng hóa, dịch vụ mua vào, tuy nhiên trong thực tế các hóa đơn này còn tồn tại nhiều vấn đề như: Khi tiến hành giao dịch bên mua muốn hóa đơn có giá trị lớn hơn thực tế mà họ mua để làm tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, còn bên bán thì lại cần hóa đơn với doanh số thấp để làm giảm số thuế GTGT đầu ra do vậy tình trạng câu kết giữa bên mua và bên bán vẫn còn phổ biến. Trong năm 2008 chi cục đã kiểm tra và phát hiện nhiều trường hợp các liên trong hóa đơn khác nhau về giá trị .Ví dụ như công ty TNHH Tứ Mã sử dụng hóa đơn với 3 liên khác nhau, chi cục truy thu và phạt 9,5 triệu đồng. Các doanh nghiệp vừa có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa chịu thuế và hàng hóa không chịu thuế GTGT thì chỉ được kê khai khấu trừ đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để phục vụ cho việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT nhưng trong thực tế có rất nhiều doanh nghiệp vẫn kê khai phần hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế để được khấu trừ. Vì vậy nếu không kiểm tra phát hiện thì sẽ gây thất thu lớn. Ví dụ công ty TNHH XDTM đã khấu trừ mặt hàng dùng để sản xuất mặt hàng không chịu thuế, chi cục kiểm tra và bắt doanh nghiệp kê khai lại làm tăng thuế GTGT số tiền là 50,3 triệu đồng. Các doanh nghiệp còn khấu trừ cả hàng hóa dịch vụ không dùng cho sản xuất, kinh doanh, ví dụ công ty TNHH Đông Việt khấu trừ hàng hóa không dùng cho sản xuất kinh doanh trị giá là 11,2 triệu đồng, công ty TNHH Đông Linh kê khai khấu trừ lịch treo tường trị giá 6,85 triệu đồng là hàng hóa không dùng cho sản xuất, kinh doanh. Để làm tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ các doanh nghiệp còn kê khai sai thuế suất cuả hàng hóa, dịch vụ mua vào theo hướng khai tăng thuế suất. Ví dụ công ty TNHH phát triển kỹ thuật cơ điện kê khai thuế suất mua vào của mặt hàng từ 5 % lên 10% làm cho thuế GTGT đầu vào tăng thêm 13,4 triệu đồng. Một hình thức nữa là các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp có thông báo bỏ trốn để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào trong kỳ qua đó làm tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Trong tháng 12/2008 căn cứ vào kết quả xác minh hóa đơn chi cục thuế huyện Đông Anh phát hiện ra một số doanh nghiệp sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp có thông báo bỏ trốn để hợp thức hóa đầu vào của hàng hóa, dịch vụ không có thực. Ví dụ như công ty cổ phần đầu tư phát triển Hoàng Long sử dụng 01 hóa đơn của doanh nghiệp có thông báo bỏ trốn, chi cục truy thu số tiền là 10,87 triệu đồng và phạt 1,5 triệu đồng. Hay như công ty cổ phần công nghệ xử lý nền móng Việt Nam đã khấu trừ 01 hóa đơn của công ty TNHH Hà Phúc là doanh nghệp có thông báo bỏ trốn, chi cục đã ra quyết định truy thu 21,4 triệu đồng và phạt 10% số tiền là 2,14 triệu đồng. Để làm tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ các doanh nghiệp còn khấu trừ trước thời gian quy định. Ví dụ như công ty cổ phần xây dựng Đồng Tâm khấu trừ trước 10,1 triệu đồng. Cá biệt còn một số doanh nghiệp ghi sai chỉ tiêu trên tờ khai, ví dụ như trường hợp công ty CXOTO, mst: 0102409169 kê khai sai chỉ tiêu 11 thuế GTGT đầu vào được khấu trừ kỳ trước chuyển sang, qua kiểm tra đơn vị xin đổi lại tờ khai làm giảm âm 70 triệu đồng. Chính vì vậy kết quả kiểm tra tại cơ quan thuế đạt được kết qủa nhất định Bảng 2: Kết quả kiểm tra tại cơ quan thuế Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Kết quả truy thu và phạt Số đơn vị Thuế GTGT truy thu và phạt Năm 2007 166 1.107,90 Năm 2008 174 1.346,99 Nguồn: chi cục thuế Đông Anh b, Đối với thuế TNDN Khai thuế TNDN là loại khai tạm tính theo quý, người nộp thuế tự khai theo thu nhập và chi phí thực tế phát sinh, trong trường hợp người nộp thuế không kê khai được chi phí thực tế phát sinh thì thực hiện khai thuế tạm tính theo tỷ lệ thu nhập trên doanh thu chịu thuế. Kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế Khi kiểm tra tờ khai phát hiện có sai phạm sau khi đã yêu cầu giải trình nhưng đơn vị không lên giải trình hoặc không giải trình được thì cơ quan thuế có thể quyết định ấn định số thuế phải nộp hoặc quyết định kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế. Căn cứ vào các tài liệu, cán bộ kiểm tra tiến hành truy lần lại từ chứng từ gốc, tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ; Đối chiếu nội dung trong hồ sơ khai thuế với sổ kế toán, chứng từ kế toán, báo cáo tài chính, các tài liệu có liên quan khác trong phạm vi nội dung của quyết định kiểm tra. a, Đối với thuế GTGT Thông qua việc so sánh, đối chiếu số liệu kế toán với số liệu kê khai thuế; so sánh, đối chiếu số liệu kê khai và số liệu kế toán với thực tế kinh doanh; đối chiếu, so sánh nội dung trong hồ sơ khai thuế với các thông tin, tài liệu có liên quan; kiểm tra thực tế hàng hóa nếu cần thiết để xác định thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ qua đó xác định số thuế GTGT phải nộp trong kỳ. b, Đối với thuế TNDN Kiểm tra doanh số bán ra. Doanh số bán ra của hàng hóa, dịch vụ không những ảnh hưởng tới số thuế GTGT đầu ra mà còn có ảnh hưởng tới việc xác định thuế TNDN, vì vậy các biện pháp quản lý, xác định số thuế GTGT đầu ra cũng chính là để đảm bảo cho việc xác định doanh thu để tính thuế TNDN được chính xác. Kiểm tra chi phí đầu vào được khấu trừ. Cùng với doanh thu chi phí được trừ là yếu tố quan trọng để xác định số thuế TNDN phải nộp, do vậy các doanh nghiệp thường kê khai sao cho chi phí được trừ tăng lên. Để làm tăng yếu tố chi phí được trừ các doanh nghiệp thường tìm cách khai tăng chi phí nguyên vật liệu, khai tăng chí phí tiền công, tiền lương, khai tăng chi phí khấu hao TSCĐ,khai tăng chi phí khác như chi phí quản lý doanh nghiệp… Do vậy để có thể xác định chính xác, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng trốn thuế của doanh nghiệp qua việc khai tăng chi phí nguyên vật liệu thì cán bộ kiểm tra căn cứ vào phiếu xuất kho, bảng kê hàng tồn kho, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, các chứng từ khác để làm căn cứ xác định. Để xác định chi phí tiền công, tiền lương, tiền thưởng, các khoản trích theo lương cán bộ thuế căn cứ vào hợp đồng lao động, quy mô sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, căn cứ vào quy định trong các văn bản pháp luật để xác định. Đối với chi phí khấu hao TSCĐ: theo quy định thì các doanh nghiệp chỉ được trích khấu hao khi thỏa mãn 3 điều kiện trong luật tuy nhiên doanh nghiệp vẫn trích sai quy định do vậy khi kiểm tra cán bộ thuế căn cứ vào phương pháp tính khấu hao mà đơn vị đã đăng ký, thời gian trích khấu hao, các chứng từ liên quan khác.. để xác định. Các khoản chi khác như chi phí quản lý doanh nghiệp… để xác định cán bộ thuế căn cứ vào sổ sách, chứng từ và quy định của pháp luật để xác định. Cụ thể việc kiểm tra tại trụ sở của một số doanh nghiệp có kết quả như sau: + Kiểm tra tại công ty cổ phần vận tải thương mại và du lịch Đông Anh, mã số thuế 0101209209 thấy: Chi phí công cụ, dụng cụ (lốp ô tô) đơn vị xuất dùng không có thủ tục đề xuất thay thế, không căn cứ vào thực tế, qua kiểm tra số lượng xuất dùng cao hơn thực tế là 6 chiếc trị giá 18,242 triệu đồng. Chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 70,9 triệu đồng trong đó; Giảm 17,28 triệu đồng do đơn vị hạch toán mua điện thoại di động trang bị cho cán bộ nhưng công ty không có quy chế về khoản chi này. Giảm 53,62 triệu đồng là các khoản chi thưởng và chi tết cho nhân viên không được tính vào chi phí được trừ. + Hay kết quả kiểm tra tại trụ sở của công ty TNHH ĐTPTCNXDTM Quyền Anh, mst: 0101244362 chi cục truy thu thuế GTGT là 30,08 triệu đồng, thuế TNDN là 81,59 triệu đồng (trong đó thuế TNDN của năm 2007 là 48,89 triệu đồng) tổng số tiền truy thu và phạt là 118,38 triệu đồng. Cụ thể: Truy thu số thuế GTGT năm 2007 là 30,08 triệu đồng do khi kiểm tra chi cục xác định lại số thuế được khấu trừ kỳ trước chuyển sang giảm 56,70 triệu đồng. Bên cạnh đó số thuế GTGT đầu ra tăng 1,95 triệu đồng do đơn vị khai thiếu trên 3 số hóa đơn. Truy thu thuế TNDN là 81,59 triệu đồng vì: Thu nhập chịu thuế TNDN tăng 174,6 triệu đồng do: Doanh thu tính thuế TNDN tăng 16,54 triệu đồng vì đơn vị khai thiếu trên 3 số hóa đơn; Giá vốn hàng bán giảm 111,73 triệu đồng do đơn vị hạch toán tiền trích khấu hao TSCĐ nhưng chưa phát sinh doanh thu là 13,33 triệu đồng; Hạch toán thừa nguyên vật liệu vào công trình xây dựng là 98,4 triệu đồng; Chi phí khác giảm 46,33 triệu đồng do đơn vị xác định nhầm giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý tài sản. do vậy Chi cục xác định số thuế TNDN còn phải nộp năm 2007 là 48,89 triệu đồng. Như vậy có thể thấy nếu công tác kiểm tra không được tiến hành hoặc kiểm tra không tốt thì sẽ gây thất thoát rất lớn cho NSNN. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác kiểm tra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctailieu.doc
Tài liệu liên quan