Để duy trì các hoạt động giáo dục diễn ra bình thường và mang lại hiệu quả cao trong tổng chi Giáo dục-Đào tạo có dành một nhóm chi riêng, đó là chi quản lý hành chính. Nhóm chi này không co định mức cụ thể nên rất khó quản lý. Chính vì vậy việc quản lý các khoản chi này rất rễ lãng phí, không mang lại hiệu quả.
Số liệu bảng 8 cho thấy chi quản lý hành chính chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chi NSNN cho giáo dục trung học phổ thông. Nó đang có xu hướng giảm dần về tỷ trọng (năm 2001 là 9,23%, năm 2002 là 7,85% và năm 2003 là 6,48%). Điều này thể hiện sự nỗ lực cố gắng của Hà Tây nhằm giảm bởt các khoản chi hành chính không cần thiết trong giáo dục trung học phổ thông.
Trong quản lý hành chính gồm các khoản chi hội nghị phí, công tác phí, công vụ phí và chi khác. Qua số liệu thể hiện trong bảng 10 sau đây cho ta thấy chi tiết về tình hình chi cho quản lý hành chính ơ bậc giáo dục trung học phổ thông ở Hà Tây trong những năm gần đây.
81 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á giỏi là 15% năm 2001 – 2002 là 16,1% tăng 1,1% và tỷ lệ học sinh khá năm 2002-2001 là 30,1% năm 2001-2002 là 33,8% tăng 3,7% và năm 2002-2003 là 36,2% tăng 2,4%. Số lượng học sinh yếu, kém giảm đi đáng kể. Một số trường có nhiều học sinh tham gia vào các cuộc thi của tỉnh và của toàn quốc và đạt kết quả cao. Để đạt được kết quả đó một phần nhờ vào sự quan tâm của các bậc phụ huynh đối với việc học tập của con em mình. Trong những năm gần đây cùng với việc phát triển của đất nước thi việc đô thị hoá ở Hà Tây cung diễn ra mạnh mẽ điều đó đã phần nào dẫn đến tệ nạn xã hội đã xâm nhập vào tận học đường làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh bậc học THPT. Qua năm 2002-2003 tỷ lệ học sinh giỏi giảm đi so với năm 2001-2002 là 0,7%. Điều này đang là vấn đề đáng báo động yêu cầu các cấp, các ngành có liên quan cần phải xem xét và đánh giá lại. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT vẫn đạt kế hoạch đề ra nhưng vẫn cong là thấp so với mức độ chung của cả nước. Tỷ lệ học sinh yếu và kém đã giảm đi những chỉ giảm được một lượng không đáng kể. Bên cạnh đó vẫn có những trường đạt kết quả khá cào về chất lượng.
+ Xây dựng các điều kiện để củng cố phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo. Con người là nhân tố quan trọng trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục. Đội ngũ giáo viên của ngành Giáo dục THPT trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong những năm qua cũng có sự biến động không nhỏ cụ thể qua nghiên cứu bảng sau:
Bảng 4: Sự biến động về số lượng giáo viên bâc THPT tỉnh Hà Tây
Đơn vị: người
Năm học
Chỉ tiêu
2000-2001
2001-2002
2002-2003
Sl cần cho năm 2002-2003
Số giáo viên
2.441
2.785
3.100
3155
Nguồn: Phòng kế hoạch tài vụ, Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Tây.
So sánh giữa các năm học ta tầy rằng: Do số trường, số lớp , số học sinh tăng nên dẫn đến việc số lượng giáo viên tăng là điều tất yếu. Nhưng so số giáo viên năm 2002-2003 với nhu cầu giáo viên cho ngành giáo dục năm 2002-2003 thì vẫn con chưa đủ. Như vậy số lượng giáo viên đã không đủ để có thể đảm bảo cho công tác giảng dạy cho nên việc nâng cao chất lượng giáo dục là khó thực hiện được. Bên cạnh những tích cực như đã nâng cao trình độ chuyên m9on cho giáo viên thì vẫn còn tồn tại những hạn chế trong công tác giảng dạy như bài soạn còn nhiều điều chưa được khoa học, rõ ràng. Phương pháp giảng dạy còn mạng nặng tính lý thuyết. Tổ nhóm chuyền môn sinh hoạt còn mang tính hình thưc, nội dung nghèo nàn, chưa rõ quy trình triển khai một chuyên đề.
Đối với công tác xây dựng cơ sở vật chất, trng thiết bị trường học ngành giáo dục tỉnh năm học 2002-2003 được đánh giá là triển khai đạt hiệu quả tốt hơn năm 2001-2002 cụ thể là co 1 trường công lập và 5 trường bán công được xây dựng mới, sửa chữa 70 phòng học với kinh phí là 400 triệu đồng, mua sắm bàn ghế học sinh, giáo viên, máy vi tính và đồdùng học tập với tổng kinh phí là 12.765,5 triệu đồng.
Như vậy, ngành Giáo dục trên địa bàn tỉnh đã cho thấy rằng bên cạnh những mặt đạt được vẫn tông tại nhiều hạn chế như: chất lượng giáo dục còn ở mức thấp nhất, số lượng, chất lượng giáo viên con chưa đảm bảo… Vì vậy cácc ban ngành cần quan tâm nhiều hơn đến ngành Giáo dục. Tuy nhiên trong khi nền kinh tế còn khó khăn NSNN còn hạn hẹp mà việc đầu tư cho SNGD chủ yếu từ NSNN, nên vấn đề đặt ra là phải có biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả chi NSNN cho SNGD. Vì vậy chúng ta đi sâu vào phân tích tình hình chi NSNN cho Giáo dục. Từ đó rút ra giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả trong việc quản lý chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục.
2.2. Thực trạng chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục THPT trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
2.2.1. Cơ cấu chi NSNN cho SNGD THPT trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
Tình hình chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo ở Hà Tây trong những năm gân đây.
Cùng với xu hướng phát triển chung của đất nước, Giáo dục-Đào tạo luôn là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo của đất nước nói chung và của tỉnh Hà Tây nói riêng đang đứng trước những thử thách lớn lao, yêu cầu sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo phải đổi mới, cố gắng vươn nên không ngừng. Hà Tây là một tỉnh ven đô, dân số khá đông lại là một tỉnh thuần nông nên thu nhập bình quân thấp. Song Hà Tây lại là một tỉnh có nền Giáo dục-Đào tạo tương đối phát triển. Mức đầu tư cho sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo của tỉnh trong những năm qua không ngừng tăng lên, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN của toàn tỉnh điều đó được thể hiện qua bảng 5:
Qua bảng 5 cho ta thấy số chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo ở Hà Tây gia tăng hàng năm. Với chủ trương quyết tâm giữ vững đà phát triển về số lượng và hiệu quả Giáo dục-Đào tạo, tỉnh đã tạo mọi điều kiện để đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu học tập của nhân dân. Số chi NSNN cho Giao dục-Đào tạo chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số chi NSNN toàn tỉnh hàng năm.
Kế hoạch chi cho sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo Hà Tây năm 2001 là 256.831 triệu đồng, năm 2002 là 301.760 triệu đồng, năm 2003 là 327.226 triệu đồng tương ứng với 32%, 36,1% và 37,38% tổng chi NSNN toàn tỉnh. Điều đó chứng tỏ ngay ở khâu lập kế hoạch chi NSNN Hà Tây đã chú trọng tăng chi cho sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo của tỉnh.
Song thực tế việc thực hiện kế hoạch chi cả về tổng chi NSNN và chi cho Giáo dục-Đào tạo lại luôn co sự biến động, tăng hoặc giảm so với dự toán. Cụ thể: Thực tế chi cho Giáo dục-Đào tạo năm 2001 so với dự toán năm tăng 14,39% trong khi thực tế chi NSNN chỉ tăng 3,82%. Do tỷ lệ thực hiện chi NSNN cho Giáo dục-Đào tạo tăng cao như vậy nên tỷ trọng chi cho Giáo dục-Đào tạo trên tổng chi NSNN tỉnh Hà Tây thực tế lên đến 35,3%. Đây thực sự là một khoản chi đáng kể, tạo điều kiện thận lợi cho sự nghiệp phát triển Giáo dục-Đào tạo của tỉnh. Và trong hai năm tiếp theo thì tỷ trọng chi cho Giáo dục đều có xu hướng tăng lên điều này đã khảng định thêm một bước tầm quan trọng của ngành Giáo dục-Đào tạo trong vị trí chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Qua sự phân tích trên, ta có thể rút ra được một số nhận xét về đầu tư NSNN cho Giáo dục-Đào tạo của tỉnh Hà Tây cũng như tình hình thực hiện kế hoạch chi NSNN cho ngành Giáo dục-Đào tạo như sau.
Thứ nhất: Tỷ trọng chi cho Giáo dục-Đào tạo tăng hàng năm là một chuyển biến tích cực. Điều đó thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và UBND tỉnh Hà Tây đối với vấn đề quốc sách hàng đầu là Giáo dục-Đào tạo.
Thứ hai: Việc tăng chi cho Giáo dục-Đào tạo hàng năm trong khi tổng chi NSNN toàn tỉnh tăng không nhiều cho thấy kế hoạch đã lập cho ngành có tính khả thi cao. Song nếu tỷ lệ chi thực tế quá cao sẽ là không tốt vì như vậy khoản chi ngoài kế hoạch rất lớn. Biểu hiện: năm 2001 tỷ lệ chi thực tế cho Giáo dục-Đào tạo tăng 14,39% so với kế hoạch chứng tỏ việc quản lý các khoản chi này chưa tốt. Hà Tây cần phải có biện pháp quản lý sao cho kế hoạch chi vừa có tính khả thi cao đồng thời đảm bảo thực tế chi khớp đúng với dự toán đã lập. Điều này đã được tỉnh quan tâm thực hiện, thể hiện cụ thể qua tình hình chi cho Giáo dục-Đào tạo của hai năm tiếp theo năm 2002 vượt quá là 3,57% và năm 2003 chỉ vượt là 1,19%. Như vây, Hà Tây đang dần dần đi vào quản lý các khoản chi NSNN cho Giáo dục-Đào tạo theo dự toán Nhà nước. Trong thời gian tới cần tiếp tục có biện pháp tăng cường các khoản chi theo đúng dự toán.
Nguồn kinh phí từ NSNN cho sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo ở Hà Tây ngày càng tăng là một chuyển biến tích cực. Bởi sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo cũng như sự nghiệp kinh tế chính trị-xã hội, có ý nghĩa sống còn ngay cả trước mắt cũng như lâu dài. Song điều chúng ta quan tâm chính là hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí nói trên. Để giải quyết điều này cần xác định đúng đắn một kết cấu chi hợp lý. Thực tế kết cấu chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo Hà Tây thời gian qua được phản ánh cụ thể ở bảng 6.
Qua số liệu bảng 6 cho thấy kết cấu chi cho Giáo dục-Đào tạo ở Hà Tây được xắp xếp theo thứ tự chi lớn nhất dành cho cấp tiểu học, sau đó là trung học cơ sở, tiếp đến là giáo dục trung học phổ thông , giáo dục mầm non, giáo dục thường xuyên và cuối cùng là hướng nghiệp day nghề.
Bảng trên cũng cho chúng ta thấy rõ là mô hình Giáo dục-Đào tạo ở Việt Nam được kết cấu theo hình chóp. Tức là từ cấp học tiểu học trở lên sẽ giảm dần về số lượng học sinh cũng như nguồn đầu tư từ NSNN.
Kết cấu như vậy hoàn toàn phù hợp với xu hướng thế giới và điều kiện nước ta hiện nay. Phát triển Giáo dục-Đào tạo theo mô hình này đồng nghĩa với việc thực hiện chế độ tuyển sinh có chọn lọc. Có như vậy mới khuyến khích các em không ngừng phấn đấu trong học tập, phát huy năng lực đồng thời tăng định mức chi NSNN cho mỗi học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Cụ thể nguồn kinh phí đầu tư cho mỗi cấp học ở Hà Tây như sau:
Phần kinh phí lớn nhất trong tổng chi cho Giáo dục-Đào tạo ở Hà Tây dành cho cấp tiểu học (36% năm 2001, 37,4% năm 2002 và 36,1% năm 2003 không ngoài mục đích thực hiện vấn đề phổ cập giáo dục tiểu học xũa mù hữ trong toàn dân. Đây là cấp được Nhà nước chú trọng đầu tư và bao cấp nhiều nhất.
Đối với trung học cơ sở, đây là giai đoạn tiếp lối chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và xoá nạn mù chữ tiến tới phổ cập giạo dục trung học cơ sở. Phần chi NSNN cho cấp học này cũng khá cao và càng ngày càng tăng (33,1% năm 2001, 34,5% năm 2002 và 33,9% năm 2003).
Còn đối với cấp Trung học phổ thông, đây được xác định là cấp học vô vùng quan trọng mang tính chuyển tiếp giai đoạn từ giáo dục sang đào tạo. Do vậy giáo dụ trung học phổ thông được Đảng và Nhà nước quan tâm phát triển.
Song với xu thế phát triển mô hình giáo dục hình chóp nên đối với cấp học trung học phổ thông, chế độ tuyển sinh tương đối khắt khe. Ngoài những học sinh đủ điều kiện được nhập học còn lại các em hoặc là không đủ điểm học khoặc là không có điều kiện theo học sẽ có hướng chuyển sang các trường dạy nghề. Như vậy chất lượng giáo dục sẽ đảm bảo hơn. Chính vì lý do này mà nguồn kinh phí đầu tư từ NSNN cho giáo dục Trung học phổ thông thấp hơn so với giáo dục trung học cơ sở và giáo dục tiểu học (Tỷ trọng chi giáo dục trung học phổ thông so với tổng chi toàn ngành Giáo dục-Đào tạo của tỉnh là 13,9% năm 2001, 13,9% năm 2002 và 14,1% năm 2003).
Tiếp theo là nguồn kinh phí dành cho giáo dục mầm non, giáo dục thường xuyên hướng nghiệp dạy nghề. Nguồn vốn NSNN cấp cho các cấp học này ít dần bởi vì số lượng học sinh ít hơn so với trung học phổ, trung học cơ sở và giáo dục tiểu học. Riêng đối với giáo dục mầm non, thực tế các em ở lứa tuổi này rất nhiều, song chủ yếu vào học trong các trường mầm non tư thục, phần ít theo học mầm non công lập nên nguồn kinh phí NSNN cấp cho mầm non không nhiều.
Tình hình chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp Giáo dục trung học phổ thông tỉnh Hà Tây trong những năm gần đây.
Hàng năm nguồn vốn chi từ NSNN cho SNGD THPT của tỉnh đều có xu hướng tăng. Tổng số chi cho Giáo dục tăng lên, vậy trong từng nhóm , mục chi cụ thể tăng giảm như thế nào? Qua nghiên cứu bảng số liệu sau ta sẽ làm rõ được vấn đề đó:
(Xem bảng 8).
Căn cứ vào tính chất của các khoản chi, thì khoản chi thường xuyên NSNN cho SNGD THPT bao gồm:
+ Chi cho con người.
+ Chi giảng dậy học tập.
+ Chi quản lý hành chính.
+ Chi mua sắm, sửa chữa và xây dựng nhỏ.
Cơ cấu chi NSNN cho SNGD THPT trên địa bàn tỉnh Hà Tây qua ba năm đã có sự biến đổi theo chiều hướng gia tăng. Mức chi thực tế ở các nhóm chi đều dựa trên cơ sở kế hoạch và hầu hết đều vượt và đúng kế hoạch. Điều này thể hiện sự quan tâm của các cấp, các ngành có liên quan đối với SNGD THPT của tỉnh ngày một tăng hơn.
- Nhóm chi cho con người là khoản chi lớn nhất trong cơ cấy chi thường xuyên cho giáo dục. Khoản chi này bào gồm: chi tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, phúc lợi, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tê…Nhờ có khoản chi này mà đời sống của đội ngũ giáo viên và cán bộ ngành giáo dục được đảm bảo, tạo điều kiện để họ yên tâm với nghề nghiệp.
Xét trong ba năm qua từ năm 2001 đến năm 2003, tổng chi NSNN cho giáo dục trung học phổ thông không ngừng tăng lên. Do đó, chi con người tuy tỷ trọng trong cơ cấy tổng chi mỗi năm giảm( 72,8% năm 2001, 75,41% năm 2002 và 74,17% năm 2003) nhưng xét về số tuyệt đối và số tăng của năm sau vẫn cao hơn năm trước, cụ thể: năm 2002 so với năm 2001 chi cho con người vẫn tăng 3.503 triệu đồng và tương ứng với số tương đối tăng 11,78%, năm 2003 so với năm 2002, chi cho con người tăng 2.134 triệu đồng và tương ứng với số tương đối tăng 6,42%. So sánh năm sau với năm trước, số chi con người tăng lên như vậy là khá cao. Song yếu tố con người luôn được đặt lên hàng đầu, hơn nữa số lượng giáo viên tăng lên hàng năm không nhỏ do đó trong thời gian tới rất cần thiết nâng tỷ trọng nhóm chi này sao cho theo kịp tốc độ tăng của tổng chi NSNN cho giáo dục.
- Nhóm chi cho nghiệp vụ chuyên môn: Nhóm chi này đặc biệt quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh nhưng lại chiếm tỷ trọng nhỏ nhất. Song điều đáng mừng là tỷ trọng của nhóm chi này đang có xu hướng nâng cao dần lên. Năm 2001 tỷ trọng này là 7,34%, năm 2002 là 7,67%, thì năm 2003 là 7,8%. Điều đó chứng tỏ Hà Tây đã có sự quan tâm, chú trọng trong việc đầu tư. Song thời gian tới phải nâng cao hơn nữa tỷ trọng của nhóm chi này.
- Nhóm chi cho quản lý hành chính: nhóm chi này có xu hướng giảm dần về tỷ trọng ( Năm 2001 chiếm 9,23% tổng số chi NSNN cho ngành Giáo dục trung học phổ thông, năm 2002 là 7,85% và năm 2003 khoản chi này chỉ chiếm tỷ trọng là 6,48%). Đây là điều đáng mừng vì nhóm chi này rất khó định mức và khó quản lý. Nhưng vẫn cần phải giảm hơn nữa các khoản chi hành chính để từ đó tăng mức chi cho các khoản chi khác quan trọng và cấp thiết hơn.
- Nhóm chi cuối cùng là chi mua sắm, sửa chữa lớn, xây dựng nhỏ cho các trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Nhóm chi này chiếm một tỷ trọng đáng kể và tương đối ổn định (năm 2001 là 10,62%, năm 2002 là 9,07% và năm 2003 là 10,55%). Thứ tự ưu tiên khoản chi này là sửa chữa lớn, xây dựng nhỏ sau đó mới đến mua sắm tài sản. Thực tế cho thấy, cơ sở vật chất, trường lớp trong hệ thống giáo dục Hà Tây còn rất nhiều khó khăn và thiếu thốn trong khi nhu cầu giáo dục tăng lên. Do đó thư tự ưu tiên là hoàn toàn phù hợp.
Qua sự phân tích trên ta nhân thấy ràng kết cấu chi NSNN cho giáo dục trung học phổ thông Hà Tây chưa thật hợp lý. Cần quan tâm chú trọng từng bước hoàn tiện cơ cấu đó để hoạt động giáo dục mang lại hiệu quả cao hơn. Đặc biệt cần có sự đầu tư lớn hơn cho khoản chi nghiệp vụ chuyên môn.
Có thể nói, sự biến động từng nhóm chi trong tổng chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông Hà Tây có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dạy và học. Song trong mỗi nhóm chi lại có nhiều khoản, mục chi khác nhau. Để xem xét tính hợp lý của các khoản,mục chi đó, chúng ta hãy cùng đi sâu vào nghiên cứu cơ cấu của mỗi nhóm chi.
* Tình hình chi cho con người.
Theo như bảng 8, chi cho con người luôn chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong tổng số chi NSNN cho Giáo dục trung học phổ thông. Điều này chứng tỏ con người luôn được quan tâm và đặt lên hàng đầu. Tổng chi con người tuy lớn nhưng thực tế thu nhập của giáo viên có đảm bảo được cuộc sống hay không? Câu hỏi đặt ra cần phải được xem xét bởi chi con người bao gồm rất nhiều các mục chi nhỏ như chi lương phụ cấp lương, tiền thưởng các khoản đóng góp và phúc lợi tập thể.
+ Thông qua bảng 9 cho thây chi lương luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi cho con người. Năm 2001 chi lương chiếm 64%, năm 2002 chiếm 60,52% và năm 2003 chiếm 60,1% tổng chi cho con người. Cùng với sự tăng tổng chi cho con người, hàng năm chi lương luôn gia tăng cả về số tương đối và số tuyệt đối. Năm 2002 so với năm 2001 chi lương tăng 480 triệu đồng tương ứng tăng 2,52%, năm 2003 so với năm 2002 chi lương tăng 1.748 triệu đồng tương ứng tăng 8,96%. Khoản chi này có sự biến động trên do chịu ảnh hưởng của số lượng cán bộ giáo viên và những thay đổi chính sách chế độ của nhà nước. Điều này sữ được giải thích rõ hơn ở phần phụ cấp lương
+ Phụ cấp lương bao gồm phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp dạy thêm giờ và phụ cấp đặc biệt của ngành là phụ cấp ưu đãi… Theo như bảng 8 thì khoản phụ cấp lương chiếm tỷ trọng thứ hai sau chi lương trong tổng chi con người và tỷ trọn này tăng nhanh chóng trong những năm gần đây (năm 2001 là 22,9%, năm 2002 là 29,32% và năm 2003 là 29,02%). Có sự tăng nhanh về tỷ trọng chi phụ cấp trong tổng chi con người là do ảnh hưởng trực tiếp của sự thay đổi chính sách chế độ của Nhà nước. Trong điều kiên kinh tế hiện nay, khi mà mức lương chính còn chưa cao thì phụ cấp lương đã trở thành một khoản thu nhập đáng kể cho các cán bộ, nhân viên trong ngành giáo dục tỉnh nhà.
Như vậy, với khoản thu nhập đáng kể từ phụ cấp lương đời sống của giáo viên đã bớt đi khó khăn trước mắt, đảm bảo được tái sản xuất sức lao đọng, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy chuyên môn.
+ Tiền thưởng là một khoản chi mang tính chất khuyến khích, động viên cán bộ, giáo viên nâng cao tình thần trách nhiệm và trình độ. Vì nó không mang tính thường xuyên và không phài là khoản thu nhập lớn nên chiếm tỷ trọng nhỏ từ 0,74% đến 0,94% trong tổng chi cho cong người. Bảng 8 cho thấy khoản chi này có xu hướng giảm trong các năm gần đây, đặc biệt là năm 2002 so với năm 2001 chi cho tiền thưởng giảm 40 triệu đồng, tương ứng với số tương đối là -14,34%. Thiết nghĩ khoản chi này tuy nhỏ nhưng rất quan trọng, cần tăng chi cho quỹ khen thưởng để khuyến khích kịp thời cho các tài năng và để động viên các cán bộ giáo viên phát huy dết năng lực của họ. Khi đó hiệu quả từ nhóm chi này mang lại sữ không nhỏ.
+ Chi học bổng học sinh: Đây cũng là khoản chi mang tính khuyến khích học tập, nghiên cứu nhưng không phải dành cho giáo viên mà dành cho học sinh chuyen. Tỷ trọng khoản chi này không lớn nhưng gia tăng một cách nhanh tróng. Năm 2001 chi học bổng chỉ chiếm 0,86% trong tổng chi thì năm 2002 là 1,23% và năm 2003 là 1,93%. Đồng thời với sự gia tăng tổng chi cho con người mỗi năm, chi học bỏng cũng không ngừng tăng lên cả về số tương đối và số tuyệt đối. Năm 2002 so với năm 2001, chi học bổng tăng số tuyệt đối là 140 triệu đồng, số tương đối là 54,69%. Năm 2003 so với năm 2002 tăng số tuyệt đối là 287 triệu đồng, ứng với số tương đối là 72,47%. Đây quả là một điều đáng mừng vì chi học bổng ngoài việc khuyến khích học sinh học tập tốt còn mang lại tính chất trợ cấp xã hội cho những học sinh nghèo vượt khó phần nào làm giảm tỷ lệ bỏ học giữa chừng. Tỷ trọng chi cho học bổng tăng lên cũng chứng tỏ Hà Tây đã chý trọng trong việc phân loại trường, lớp để chon ra các lớp chuyên, từ đó phát huy được khả năng nổi trội của các em học sinh.
+ Về khoản phúc lợi tập thể bao gồm các khoản như; trợ cấp khó khăn thường xuyên, trợ cấp khó khăn đột xuất, tiền tàu xe nghỉ phép và các khoản khác. Qua bảng 9 ta thấy khoản chi này chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong tổng chi cho con người. Năm 2001 là 0,41%, năm 2002 là 0,38% và năm 2003 là 0,43%. Chúng ta mong muốn làm sao không phải chi nhiều cho khoản này vì chi càng ít chứng tỏ đời sống của cán bộ, giáo viên càng ổn định và ngược lại. Năm 2002 Hà Tây đã giảm được tỷ trọng chi phúc lợi tập thể từ 0,41% năm 2001 còn 0,38% năm 2002. Song số chi vẫn tăng dần qua các năm. Vẫn biết rằng tổng chi con người tăng hàng năm nhưng qua số tăng tuyệt đối về chi phúc lợi tập thể của năm 2003 so với năm 2002 tăng 27 triệu đồng chứng tỏ số cán bộ, giáo viên trung học phổ thông có khó khăn không giảm. Đây là vấn đề mà tỉnh Hà Tây cần có biện pháp khắc phục tạo điều kiện cho các cán bộ, giáo viên khó khăn có cuộc sống ổn định hơn.
+ Khoản chi cuối cùng trong nhóm chi cho con người là các khoản đóng góp khac bao gồm Bảo hiểm xã hội, Bào hiểm y tế, kinh phí công đoàn một số khoản khác. Khoản chi này chiếm tỷ trngj đáng kể trong tổng chi cho con người. Các khoản đóng góp này phụ thuộc nhiều vào lương chính vì BHXH, BHYT được trích theo tỷ lệ % lương chính. Chính vì vậy mà khó có thể cắt bớt nguồn kinh phí từ nhóm này… Nhờ có khoản đóng góp này mà cán bộ, giáo viên sẽ được trợ giúp khi nghỉ hưu hoặc khi gặp rủi ro ốm đau, thai sản… Góp phần nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Tóm lại, chi cho con người của bậc giáo dục trung học phổ thông Hà Tây nhìn chung là hợp lý. Song thực tế đời sống cán bộ, giáo viên trong ngành vẫn còn thấp so với toàn xã hội. Nhiều giáo viên vẫn phải làm nghề tay trái. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Trong thời gian tới Hà Tây cần phải quan tâm hơn nữa đến khoản chi này, đảm bảo chi con người đáp ứng nhu cầu cuộc sống sinh hoạt tạo điều kiện cho cán bộ, giáo viên yên tâm công tác, tập trung nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
* Chi quản lý hành chính
Để duy trì các hoạt động giáo dục diễn ra bình thường và mang lại hiệu quả cao trong tổng chi Giáo dục-Đào tạo có dành một nhóm chi riêng, đó là chi quản lý hành chính. Nhóm chi này không co định mức cụ thể nên rất khó quản lý. Chính vì vậy việc quản lý các khoản chi này rất rễ lãng phí, không mang lại hiệu quả.
Số liệu bảng 8 cho thấy chi quản lý hành chính chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chi NSNN cho giáo dục trung học phổ thông. Nó đang có xu hướng giảm dần về tỷ trọng (năm 2001 là 9,23%, năm 2002 là 7,85% và năm 2003 là 6,48%). Điều này thể hiện sự nỗ lực cố gắng của Hà Tây nhằm giảm bởt các khoản chi hành chính không cần thiết trong giáo dục trung học phổ thông.
Trong quản lý hành chính gồm các khoản chi hội nghị phí, công tác phí, công vụ phí và chi khác. Qua số liệu thể hiện trong bảng 10 sau đây cho ta thấy chi tiết về tình hình chi cho quản lý hành chính ơ bậc giáo dục trung học phổ thông ở Hà Tây trong những năm gần đây.
Hội nghị phí bao gồm các chi phí cho sơ kết, tổng kết hội nghị công nhân viên chức hàng năm, bồi dưỡng giảng viên, thuê hội trường, chi bù tiền ăn và các khoản chi phí khác như chi bầu cử…
Theo bảng 10 chi hội nghị chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong tổng chi quản lý hành chính. Khoản chi này có nhiều hướng giảm cả số tuyệt đối và tương đối vào năm 2002 ( số tuyệt đối là 774,8 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 22,4% giảm so với năm 2001 là 110,8 triệu đồng, giảm 12,51%. Nhưng năm 2003 khoản chi này co xu hướng tăng lên tổng số chi năm 2003 là 807,9 triệu đồng chiếm tỷ trọng 33,1% trong tổng chi cho quản lý hành chính, tăng 4,27% so vơi năm 2002. Sự biến động đó một phần do ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế xã hội tác động. Song noi chung năm 2002 tỉnh đã thực hiện đúng nguyên tắc chi tiêu tiết kiệm hiệu quả, chi đúng, chi đủ nhưng đến năm 2003 thi nguyên tăc nay chưa được phát huy một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy mà khoản chi có xu hướng tăng lên.
Công tác phí, thuộc khoản này bào gồm tiền tàu xe, phụ cấp, lưu trú, thuê phòng ngủ và các khoản công tác phí khác. tỷ trọng khoản chi này tăng dần hàng năm ( năm 2001 là 998,8 triệu đồng chiếm tỷ trọng 26,5%, năm 2002 là 1.008,6 triệu đồng chiếm tỷ trọng 29,16% và năm 2003 là 1.061,2 triệu đồng chiến tỷ trọng 29,75%). Mặc dù tổng chi cho quản lý hành chính giảm hẳn vào năm 2002 và chỉ tăng trong năm 2003 thì khoản chi công tác vẫn tăng đều hàng năm (năm 2002 tăng 9,8 triệu đồng tương ứng với 0,98%, năm 2003 so với năm 2002 tăng 52,6 triệu đồng tương ứng với 5,21%). Nhìn chung khoản chi công tác phí cho giáo dục trung học phổ thông ở Hà Tây là cao so với mức chi trung bình của các địa phương khác. Trong quản lý hành chính cho công vụ là lĩnh vực cần chú trọng nhiều, vì vậy khoản chi công tác phí phải điều chỉnh giảm xuống nhiều hơn nữa.
Về công vụ phí, đây là khoản chi nhằm đảm bảo hoạt động của công tác quản lý hành chính. Nó bao gồm chi thanh toán các dịch vụ công cộng như: thanh toán tiền điện, nước, tiền nhiên liêu, tiền vệ sinh môi trường, chi về thông tin liên lạc như cước phí điên thoại, cước phí bưu chính… chi về vật tư văn phòng như: văn phòng phẩm, dụng cụ văn phòng, vật tư…
Chi công vụ phí thường chiếm tỷ trọng lớn trong quản lý hành chính (năm 2001 nganh giáodục trung hoc phổ thông tỉnh đã chi cho khoản chi nay là 1.884,6 triệu đồng chiếm tỷ trọng 50,8% trong nhóm chi cho quản lý hành chính, năm 2002 là 1.675,6 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 48,44% và năm 2003 là 1.697,9 triệu đồng chiếm tỷ trọng 47,6%). Tỷ trọng công vụ phí như vậy là phù hợp với nhu cầu giáo dục, góp phần hoàn thiện thêm phương tiện vật chất cho quá trình giảng dạy học tập. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây tỷ trọng khoản chi này lại giảm dần trong cơ cấu chi từ 50,8% năm 2001 xuống 48,44% năm 2002 và đến năm 2003 chỉ còn 47,6%. Cần phải điều chính sao cho khoản chi nâng dần tỷ trọng từ đó tạo điều kiện tốt hơn cho các cán bộ giáo viên trong quá trình công tác giảng dậy.
Nhìn chung chi quản lý hành chính rất khó quản lý. Việc chi nhiều hay ít là do nhu cầu của từng trường. Do đó việc quản lý của các cơ quan tài chính rất vất vả khó có thể sát sao tới từng mục chi.
* Chi nghiệp vụ chuyên môn.
Chi nghiệp vụ chuyên môn là nhóm chi nhằm đáp ứng phương tiện giảng dạy, học tập giúp giáo viên có điều kiện truyền đạt kiến thức cho học sinh tốt hơn. Thuộc nhóm chi này bao gồm các khoản chi như chi về vật tư, trang thiết bị kỹ thuật chuyên dụng (không phải là tài sản cố định), chi in ấn, đồng phục, sách, tài liệu, chế đồ dùng cho công tác chuyên môn, chi ra đề thi, chấm thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp… Những khoản chi này ảnh hư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12367.DOC