Trong những năm đầu mới thành lập, công ty hoạt động trong cơ chế bao cấp và chương trình hợp tác Việt -Xô cũng như các nước XHCN khác. Vào đầu những năm 1990, do sự biến động về chính trị ở Liên Xô và Đông Âu nên các thị trường xuất khẩu này của công ty cũng lần lượt mất đi. Trong những năm này, Công ty đã ra sức tìm kiếm và không ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác với các khu vực thị trường khác và đã tạo ra được một số thị trường xuất khẩu khá quan trọng như khu vực thị trường Châu á, Châu âu. Từ năm 1995, Tổng Công ty Than Việt Nam ra đời và Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế – Coalimex chính thức được coi là một doanh nghiệp thương mại, từ đó đến nay hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã đi vào ổn định và có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực: kim ngạch xuất khẩu than được giữ vững, thị trường xuất khẩu than được mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
90 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu than tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế Coalimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8
1998
15.732.000
94,33
1999
16.958.000
107,79
Tổng
529.720.284
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Công ty Coalimex
Tổng khối khối lượng than xuất khẩu trong 18 năm qua của công ty là 12.657.965 tấn than các loại đạt giá trị 529.720.248 USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân là 104,6% trong khoảng thời gian từ 1987-1992 các đơn sản xuất đòi hỏi xuất khẩu rất lớn. Xuất khẩu than với giá trị ngoại tệ thu được gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Ngành than. Vì vậy, trong những năm qua công ty được giao nhiệm vụ xuất khẩu than cho ngành, được sự chỉ đạo sát sao của Bộ Năng lượng (cũ), công ty đã cùng với các đơn vị sản xuất đề ra và thực hiện nhiều biện pháp tích cực, hiệu quả nên đã tăng dần được khối lượng và giá trị than xuất khẩu, khối lượng than xuất khẩu trung bình hàng năm (1987-1992) đều tăng với tốc độ cao. Đặc biệt năm 1992 là năm công ty đạt khối lượng xuất khẩu là 1,6 triệu tấn, là khối lượng cao nhất so với các năm trước đó, gấp 7 lần so với năm 1987. Công ty đã tìm được các thị trường xuất khẩu lớn như Nhật bản, Tây Âu, Hàn Quốc, các thị trường này hàng năm đều tăng trưởng với tốc độ ổn định.
4.2. Công tác nhập khẩu.
4.2.1. Nhập khẩu chưa tính theo nghị định thư
Tổng giá trị nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị từ các thị trường trong năm qua, chưa tính nhập khẩu theo nghị định thư, đạt giá trị 195.186.263 USD, trung bình hàng năm nhập 10.843.681 USD, trong đó giá trị nhập khẩu theo thời gian là:
Từ 1982 đến 1986, tổng giá trị nhập khẩu là 67.963.818 USD, trung bình hàng năm nhập khẩu khoảng 13,6 triệu USD.
Từ 1987 đến 1991, tổng giá trị nhập khẩu là 34.535.595 USD trung bình hàng năm nhập khẩu khoảng 6,9 triệu USD.
Từ năm 1992 đến 1999, tổng giá trị nhập khẩu là 92.686.850 USD, trung bình hàng năm nhập khẩu khoảng 11,6 triệu USD.
Năm 1991, theo Nghị định 388/CP của Chính phủ về việc thành lập lại các doanh nghiệp Nhà nước, trong ngành than đã có nhiều Công ty được phép tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt đến năm 1995, khi Tổng Công ty than Việt nam bắt đầu đi vào hoạt động đã thành lập thêm hai Công ty trực thuộc là Công ty Thương mại dịch vụ tổng hợp và Công ty vật tư vận tải xếp dỡ, cũng có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu, cho nên giá trị kim ngạch nhập khẩu của Công ty bị giảm dần. Đến năm 1996 đã bắt đầu tăng lên so với các năm trước đó, đạt giá trị 7.821.061 USD và các năm 1997 đến 1999 kim ngạch nhập khẩu đạt 31.880.877 USD. Điều này đã chứng tỏ sự cố gắng hết mình của Công ty trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Nhập khẩu từ thị trường tư bản, nhìn chung trong 18 năm qua đã đưa được những thiết bị sản xuất ở các nước tư bản vào sử dụng ở vùng mỏ Việt nam, góp phần đáng kể làm ổn định sản xuất cho ngành than. Công ty cùng với các đơn vị sản xuất đã chọn được nhiều loại thiết bị từ thị trường tư bản đưa vào sử dụng rất thích hợp với điều kiện sản xuất của ngành. Các thiết bị nhập khẩu về đều được phía người bán bảo hành chu đáo, cho nên phần lớn đã nâng cao được hiệu quả sử dụng.
Bảng 2: Giá trị hợp đồng nhập khẩu của Công ty Coalimex
Chỉ tiêu
Năm
Trị giá nhập hàng TBCN (USD)
Tăng so với năm trước (%)
Trị giá nhập theo nghị định thư (Rúp)
Tăng so với năm trước (%)
1982
17.834.937
...
5.551.000
...
1983
16.125.715
-9,58
4.309.000
-22,37
1984
4.215.738
-73,86
3.691.355
-14,33
1985
14.068.344
233,71
5.006.495
35,63
1986
15.719.084
11,73
5.100.000
1,87
1987
10.182.000
-35,23
22.275.253
336,77
1988
7.176.057
-29,52
20.076.725
-9,87
1989
15.494.089
115,91
16.197.480
-19,31
1990
858.216
-94,46
2.853.254
-82,38
1991
825.233
-3,84
1992
16.053.051
1845,27
1993
2.551.460
-84,36
1994
1.489.950
-40,67
1995
3.758.119
152,32
1996
7.821.061
108,11
1997
12.594.276
61,03
1998
31.880.877
153,14
1999
16.578.056
-48,00
Tổng
195.186.263
85.060.562
Nguồn: Báo cáo tổng kết 15 năm hoạt động của Công ty Coalimex
4.2.2. Nhập khẩu theo nghị định thư
Đối với thị trường XHCN, từ năm 1982 cho đến năm 1990, Công ty Coalimex đã nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị theo chế độ nghị định thư, cung cấp cho các đơnvị sản xuất trong ngành với tổng giá trị 85.060.562 Rúp chuyển nhượng.
Các mặt hàng nhập khẩu lúc này có vị trí rất quan trọng, nó góp phần bổ sung thiết bị cho ngành than để duy trì và phát triển sản xuất hàng năm. Những lô hàng nhập khẩu vào những năm cuối cùng của chế độ nghị định thư chưa có tiền thanh toán, Công ty đã xin Nhà nước số hàng hoá này để đưa sang hàng hoá dự trữ, trị giá 23,6 tỷ đồng và tiến hành bán cho các đơn vị sản xuất đến đâu thanh toán cho Nhà nước đến đó.
Khi chế độ nghị định thư không còn nữa, sau năm 1990 Công ty vẫn tiếp tục nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị từ thị trường Nga, Đông Âu và tiến hành thanh toán theo quy luật chung của thương mại quốc tế.
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THAN CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN QUA.
Đặc điểm của sản phẩm than.
Than Việt Nam chủ yếu là than Antraxit với trử lượng 3,2 tỷ tấn tập trung hầu hết ở Quảng Ninh ( chiếm 90 % ) ngoài ra còn ở Thái Nguyên, Lạng Sơn … đang được khai thác phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu:
than là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Việt Nam.
Than Antraxit của Việt Nam với chất lượng tốt, Ýt khói, nhiệt lượng cao, hàm lượng Lưu huỳnh, Ni tơ Ýt, Ýt gây ô nhiểm môi trường đã nổi tiếng trên thế giới. Hơn 30 năm qua, đặc biệt là trong 10 năm gần đây than Antraxit của Việt nam đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như: Anh, Pháp, Tung Quốc, Hàn quốc…và đã chiếm một vị trí hết sức quan trọng trên thị trường thế giới. Gần đây tổ chức quản lý chất lương quốc tế ( International Quality Management) đã cấp giấy chứng nhận và tặng huy chương bạc cho than Antraxit của Việt Nam về chất lượng và những đóng góp của nó trong việc bảo vệ môi trường.
Than Antraxit của Việt Nam đã được dùng làm nhiên liệu quan trọng cho các ngành chế biến vật chất khác như: luyện kim, điện lực, hoá chất…nhu cầu sinh hoạt của nhân dân và cho nhu cầu sưởi Êm ở Tây Âu. Than Antraxit của Việt Nam được chia ra làm nhiều loại khác nhau với số lượng, cở hạt, thành phần, độu Èm, độ tro …của than. Mỗi thị trường tuỳ theo những nhu cầu, mục đích sử dụng mà người ta lùa chọn loại than phù hợp.
Ta có thể tham khảo về công dụng một số loại than qua bảng sau (bảng 3):
Bảng 3: Chủng loại than xuất khẩu của Công ty Coalimex
Loại than
Cỡ hạt
(mm)
Độ Èm max (%)
Độ tro
(%)
Độ lưu huỳnh (%)
Nhiệt lượng (Kcal/kg )
Độ các bon (%)
Sè 1
35-100
6
8-12
0,6
7.200
81
Sè 2
50
4
6-8
0,6
8.300-8.100
88
Sè 3
35-50
4
3-5
0,6
8.300-8.000
87
Sè 4
15-35
5
4-6
0,6
8.200-7.900
86.5
Sè 5
6-18
5
5-7
0,6
8.100-7.900
86
Sè 6
0-15
8
6-8
0,6
8000-7.800
83
Cám 7
0-15
8
8-10
0,6
7.800-7.600
81
Sè 8
0-15
8
10-15
0,6
7.600-7.200
77
Sè 9
0-15
8
15-22
0,6
7.200-6.500
70
Sè 10
0-15
8
22-32
0,6
6.500-5.600
65
Sè 11
0-15
8
32-40
0,6
5.500-4.600
62
Nguồn : Tài liệu của Công ty Coalimex.
2. Hoạt động xuất khẩu than của Công ty qua các giai đoạn.
Trong những năm đầu mới thành lập, công ty hoạt động trong cơ chế bao cấp và chương trình hợp tác Việt -Xô cũng như các nước XHCN khác. Vào đầu những năm 1990, do sự biến động về chính trị ở Liên Xô và Đông Âu nên các thị trường xuất khẩu này của công ty cũng lần lượt mất đi. Trong những năm này, Công ty đã ra sức tìm kiếm và không ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác với các khu vực thị trường khác và đã tạo ra được một số thị trường xuất khẩu khá quan trọng như khu vực thị trường Châu á, Châu âu. Từ năm 1995, Tổng Công ty Than Việt Nam ra đời và Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế – Coalimex chính thức được coi là một doanh nghiệp thương mại, từ đó đến nay hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã đi vào ổn định và có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực: kim ngạch xuất khẩu than được giữ vững, thị trường xuất khẩu than được mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Khái quát quá trình phát triển hoạt động xuất khẩu than của công ty ta có thể chia làm 3 giai đoạn chính: giai đoạn 1982 –1991; giai đoạn 1992 – 1995; giai đoạn 1996 – 1999.
Giai đoạn 1982 – 1991.
Trong những năm đầu mới thành lập ( nhất là từ 1982 đến 1986) công ty hoạt động hoàn toàn trong cơ chế bao cấp, mọi chiến lược hoạt động kinh doanh đều theo kế hạch nhà nước giao. Thời gian này công ty rất thụ động trong việc lùa chọn đối tác và tổ chức hoạt động xuất khẩu, phần lớn các bạn hàng dù lớn hay nhỏ đều thuộc khối các nước XHCN như Liên Xô, Hungary, Cu ba, Ba lan, Tiệp khắc…
Từ 1987 trở đi, cơ chế kế hoạch hoá tập trung không còn nữa, công ty phải bước làm ăn trên thị trường bằng chính khả năng của mình vì thế công ty cũng không tránh khỏi bỡ ngỡ. Trong giai đoạn 1987 – 1991 công ty đã chủ động tìm kiếm một số bạn hàng mới như: Thái lan, Nhật bản, Đài loan và một số nước khác trong khu vực tuy nhiên bước đầu còn rất hạn chế bởi khả năng của công ty còn chưa cho phép. Ta hãy quan sát bảng sau đây ( Bảng 4):
Bảng 4: Giá tri kim ngạch xuất khẩu than giai đoạn 1982 – 1991.
Năm
Kim ngạch xuất khẩu ( 1000 USD )
1982
39.221
1983
27.190
1984
29.343
1985
39.556
1986
32.120
1987
10.613
1988
15.118
1989
22.958
1990
31.470
1991
46.456
Nguồn : Tài liệu của công ty Coalimex
Nhìn vào bảng trên ta thấy sự thay đổi giá trị kim ngạch xuất khẩu than của công ty được chia thành hai thời kỳ rõ rệt:
Thời kỳ từ 1982 – 1986: Thời kỳ này giá trị kim ngạch xuất khẩu than cao và tương đối ổn định, tổng số kim ngạch xuất khẩu than là 176.551.527 USD, giá trị xuất khẩu trung bìmh đạt khoảng 33 triệu USD / năm với khối lượng trung bình trên 670 nghìn tấn / năm. Đây là giai đoạn mà công ty đang nằm trong quĩ đạo của chương trình Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam với một số nước XHCN. Chính vì vậy mà trong giai đoạn này Liên Xô là thị trường xuất khẩu lớn nhất của công ty, hàng năm nó chiếm trung bình khoảng 87,8 % tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu than của toàn công ty. Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng trong giai đoạn này thị trường và kim ngạch xuất khẩu của Công ty hầu như là cố định, hàng năm công ty chỉ xuất khẩu sang các thị trường quen thuộc trong khối XHCN với một khối lượng than đã được ký kết trước. Ngoài thị trường chính là Liên Xô, công ty còn có các thị trường khác thuộc Đông Âu và Cuba. Mặt hàng xuất khẩu trong giai đoạn này không chỉ đơn thuần là than Antraxit như hiện nay mà nó còn bao gồm tất cả các loại than.
Thị trường xuất khẩu than trong giai đoạn này khá ổn định còn bởi trong hệ thống các nước XHCN, Việt Nam là một trong Ýt nước có trử lượng than lớn và phong phú về chủng loại cũng như chất lượng, vì vậy đã được phân công khai thác nguồn tài nguyên này. Các Nghị định thư đã tạo ra sự ổn định về thị trường cho công ty, cho phép công ty có thể lập kế hoạch xuất khẩu than hàng năm mà không có một sự biến động nào. Đối với thị trường Liên Xô cũng như các nước ở Đông Âu họ không có hoặc có nhưng rất Ýt trử lượng than mặt khác họ là những nước đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, do đó cầu về than cho các nghành sản xuất là rất lớn. Vì vậy họ phải nhập khẩu than của Việt Nam.
Thời kỳ 1987 - 1991 : Sau một thời gian dài đất nước chìm trong các cuộc khủng hoảng, mãi cho đến Đại hội Đảng VI năm 1986 Đảng ta mới quyết định xoá bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung và chuyển sang cơ chế thị trường có sự quảhn lý của Nhà nước. Có thể nói từ sau khi có quan điểm mới của Đảng về đường lối làm ăn kinh tế, đặc biệt là về đường lối đối ngoại đã đưa các doanh nghiệp Việt Nam sang mét giai đoạn mới, sản xuất kinh doanh gắn liền với tính hiệu quả. Tuy nhiên, bước đầu Công ty đã gặp không Ýt khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu, bởi vì lúc này Nhà nước không còn là người đứng ra trực tiếp ký kết các hợp đồng xuất khẩu than như trước mà Công ty phải chủ động thăm dò thị trường, tìm kiếm đối tác và ký kết hợp đồng với tư cách là người được uỷ quyền. Khó khăn này có thể thấy qua sự giảm sút đột ngột giá trị kim ngạch xuất khẩu ở hai năm: 1987 xuất khẩu được 230.077 tấn than tương đương 10.613.697 USD, thấp nhất trong lịch sử, năm 1988 cũng chỉ xuất khẩu được 349.401 tấn than, tương đương 15.117.921 USD. Hai năm này giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 20-35% giá trị so với các năm trước đó. Có lẽ đây là giai đoạn khó khăn nhất của Công ty Coalimex nói riêng và của ngành than nói chung.
Mặc dù các bạn hàng thuộc khối XHCN là những bạn hàng lâu năm nhưng trong những năm này do Công ty chưa quen với cơ chế mới và chưa đủ khả năng nên đã không tiến hành ký kết được các hợp đồng xuất khẩu than như trước. Mặt khác tình hình kinh tế trong nước cũng mất ổn định nên các bạn hàng cũng ngần ngại khi tham gia buôn bán. Thị trường Liên Xô trước kia chiếm tới 87,8% giá trị kim ngạch thì nay cũng chỉ còn 42,7% giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên các năm sau đó giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty lại tăng liên tục với tốc độ cao ( tốc độ trung bình 146%/năm, cao nhất trong giai đoạn này), mổi năm công ty xuất khẩu đạt trên 25 triệu USD. Đạt được kết quả như vậy, có thể nói đây là một cố gắng vượt bậc của Công ty, cho thấy sự nhạy bén cũng như năng lực tuyệt vời của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ trong Công ty. Trong giai đoạn này hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty đãthu được những thành tựu lớn, như đến năm 1990, ngoài việc khôi phục lại với các bạn hàng cũ thuộc khối XHCN, Công ty còn làm ăn với mội số nước khác trong khu vực như: Thái Lan, Đài Loan, Malayxia… và việc làm này đã thực sự có ý nghĩa.
Trong cả giai đoạn 1982-1991 nếu xét cả về khía cạnh cạnh tranh thì Công ty hầu như không phải cạnh tranh với bất kỳ đối thủ nào. Ở trong nước, Công ty Coalimex là công ty duy nhất được nhà nước cho phép xuất khẩu mặt hàng than, nói cách khác nó vẫn còn độc quyền. Còn nếu xét phạm vi nước ngoài thì Công ty cũng không gặp phải một số vấn đề nào cản trở đến hoạt động xuất khẩu than.
Về nguồn hàng phục vụ xuất khẩu cho công ty cũng được ổn định, bởi lẻ hầu hết hoạt động khai thác than tại nhiều mỏ vẩn được nhà nước trực tiếp quản lý ,toàn bộ số lượng, chất lượng và chủng loại than đều tuân theo kế hoạch của nhà nước .Vì vậy không gây ra những biến động về giá than trên thị trường .
Ngoài những thuận lợi mà công ty tận dụng được trong giai đoạn này thì nó cũng đã gặp phải một số vấn đề, đặc biệt là trong khâu thanh toán, chẳng hạn đối với khối lượng than xuất khẩu sang Liên Xô (củ) là khối lượng lớn nhưng thực tế doanh thu mà công ty nhận được lại rất thấp bởi vì phải trả nợ Liên Xô hoặc phần nhận được thường là máy móc, thiết bị . Việc xuất khẩu không thu được tiền cho nên đẩy công ty vào tình trạng thiếu vốn để tiến hành kinh doanh trong khi ngân sách Nhà nước cấp là có hạn .
Giai đoạn 1992-1995:
Đây là thời kỳ có biến động lớn về chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Điều này tác động mạnh mẽ đến hoạt động xuất khẩu của công ty sang các nước này. Trước hết phải kể đến sự biến động chính trị ở Liên Xô và kết quả của nó là sự tan rã Liên bang Xô Viết và sự ra đời của hàng loạt các quốc gia độc lập, trong đó có nước Nga. Bên cạnh Liên Xô là hàng loạt các quốc gia khác trong hệ thống XHCN ở Đông Âu cũng bị sụp đổ. Chính sự biến động chính trị lớn này đã làm chấm dứt các chương trình hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu than. Nó đã chính thức đánh dấu sự ra đi của các bạn hàng truyền thống, khiến cho Công ty Coalimex một lần nữa phải đương đầu với những khó khăn về thị trường. Để khắc phục những khó khăn về thị trường ở khu vực Liên Xô và Đông Âu, với phương châm đúng đắn và bằng sự nổ lực của bản thân, Công ty Coalimex đã mở rộng được quan hệ hợp tác thương mại với một số nước ở Châu á và Châu Âu như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Bun gary, Ên Độ, Czech, Philipines, Thuỵ Điển….
Trong khi hầu hết các công ty, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có liên quan đến các thị trường này đều bị ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh thì Công ty Coalimex vẫn đứng vững, thậm chí có năm còn đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu than cao nhất từ trước đến nay.
Bảng 5: Giá trị kim ngạch xuất khẩu than của Công ty giai đoạn
1992 – 1995.
STT
Năm
Khối lượng than xuất khẩu (1000 tấn)
Trị giấ
(1000 USD )
1
1992
1.613
61.470
2
1993
1.249,6
44.101
3
1994
886
27.497
4
1995
821
27.104
Tổng
4.569.7
160.172
Nguồn: báo cáo tổng kết của công ty Coalimex
Từ 1992 –1995 hoạt động xuất khẩu của công ty đã phát triển từ 5 lên 10 thị trường, các thị trường này tập trung chủ yếu ở khu vực Châu á và Châu Âu. Tuy các thị trường này hầu như là mới đối với công ty song trong những năm này công ty vẫn giữ được mối quan hệ làm ăn. Sản lượng than xuất khẩu của Công ty trong giai đoạn này đạt 4.569.700 tấn than tương ứng trên 160 triệu USD, trung bình cứ mỗi năm xuất khẩu được 1.142.425 tấn, tương đương 40 triệu USD. đặc biệt việc đạt 61 triệu USD kim ngạch xuất khẩu than năm 1992 cho thấy sự nổ lực phi thường của toàn thể Công ty nữa. Việc mất các bạn hàng truyền thống Liên Xô và Đông Âu không thực sự là nỗi lo ngại cho Công ty. Trong những năm này cơ cấu thị trường của Công ty có những thay đổi rõ rệt, chúng được thể hiện qua bảng sau (bảng6):
Bảng 6: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Công ty Coalimex giai đoạn 1992 – 1995.
S
T
T
Năm
T.T
1992
1993
1994
1995
G. trị
(1000
USD)
Tỷ trọng
(%)
G. trị
(1000
USD)
Tỷ trọng
(%)
G. trị
(1000
USD)
Tỷ trọng
(%)
G. trị
(1000
USD)
Tỷ trọng
(%)
1
Ên Độ
16.597
27
10.143
23
2.750
10
4.210
15,5
2
Philipin
21.515
35
12.569
28,5
6.819
24,8
3.254
12
3
Pháp
8.606
14
---
---
---
---
1.897
7
4
Th. Điển
6.946
11,3
2.514
5,7
---
---
---
---
5
Malaysia
7.807
12,7
6.703
15,2
6.874
25
---
---
6
Nhật
7.189
16,3
5.967
21,7
6.692
24,96
7
Cis
4.983
11,3
---
---
1.409
5,2
8
H. Quốc
3.300
12
2.215
8,17
9
Bungary
1.512
5,5
1.911
7,05
10
Bỉ
275
1
---
---
11
Slovakia
2.336
8,62
12
Luxembu
2.439
9
13
T.T khác
687
2,5
Tổng
61.470
100
44.101
100
27.497
100
27.104
100
Nguồn: Tài liệu của Công ty Coalimex
Nhìn vào bảng trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu của công ty sang các thị trường có những điểm rất khác biệt so với thời kỳ trước:
Năm 1992: xuất khẩu sang thị trường Châu á chiếm 74.27% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn Công ty, Châu âu chiếm 25,73 %.
Năm 1993: xuất khẩu sang thị trường Châu á chiếm 83%, Châu âu chiếm 17%.
Năm 1994: xuất khẩu sang thị trường Châu á chiếm 60,63%, Châu âu chiếm 36,87%, thị trường khác chiếm 2,5%.
Từ năm 1992 – 1995 thị trường Châu á là thị trường chủ yếu của công ty với tốc độ tăng trưởng trung bình 10%/ năm, song đến 1995 sản lượng xuất khẩu than sang thị trường Châu Âu lại tăng lên. Một cách khái quát thấy trong giai đoạn này thị trường Châu á mới là thị trường chính của công ty thay vì thị trường Châu Âu trong giai đoạn trước.
Song cũng phải khẳng định rằng trong thời kỳ này hoạt động xuất khẩu của Công ty mới chỉ phát triển về chiều rộng ( tốc độ tăng trung bình 1thị trường / năm) còn về chiều sâu thì dường như chưa có, thậm chí thị trường còn bị thu hẹp, điều này có thể thấy qua tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu than năm 1993 so với năm 1992 là 71,75%, năm 1994 ao với năm 1993là 62,35%, năm 1995 so với năm1994 là 98,53%; giá trị kim ngạch xuất khẩu năm sau luôn thấp hơn năm trước.
* Đối với khu vực thị trường Châu á:
Thị trường Ên Độ: Qua 4 năm giá trị kim ngạch ở thị trường này giảm mạnh, tốc độ tăng kim ngạch năm 1993/92 chỉ là 6,1%, năm 1994/93 là 27,1 %, năm 1995/94 là 52,8 %, tốc độ tăng kim ngạch trung bình là 80,3%. Như vậy, thị trường này liên tục bị thu hẹp tới 20%/ năm. Do chiếm một tỷ trọng tương đối lớn nên việc thu hẹp thị trường này có ảnh hưởng lớn đến giá trị tổng kim ngạch của cả công ty.
- Thị trường Philipin: năm 1992, đây là thị trường lớn nhất của công ty với tỷ trọng chiếm tới 35% tổng kim ngạch, giá trị xuất khẩu đạt trên 21,5 triệu USD nhưng cho đến năm 1995 thị trường này chỉ chiếm có 12% tổng kim ngạch, giá trị xuất khẩu đạt hơn 3,2 triệu USD. Như vậy, chỉ qua 4 năm giá trị kim ngạch xuất khẩu ở thị trường này giảm tới 7 lần. Tốc độ tăng kim ngạch năm 93/92 là 58,4%, năm 94/93 là 54,7%, năm 95/94 là 47,3%, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân là 53,47%/năm, trung bình mỗi năm thị trường náy bị thu hẹp gần một nửa. Có thể nói đây là nguyên nhân chính làm cho giá trị kim ngạch của công ty thời kỳ này giảm mạnh.
- Thị trường Malaysia: Trong 3 năm 1992, 1993,1994 thì thị trường này được xem như là ổn định nhất của công ty, điều đó thể hiện ở việc duy trì giá trị kim ngạch xuất khẩu ở mức trên dưới 7 triệu USD/ năm và cho đến năm 1994 nó là thị trường lớn nhất của công ty.
- Thị trường Nhật Bản: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 94/93 là 83%, năm 95/94 là 112,2 %, tốc độ tăng kim ngạch bình quân là 97,5%. Với tốc độ tăng như vậy thì đây là là một thị trường tương đối ổn định, năm 1995 đây là thị trường lớn nhất của Công ty, với 24,96 % tổng kim ngạch.
- Thị trường Hàn Quốc : Thị trường này mới xuất hiện vào năm 1994 với giá trị kim ngạch xuất khẩu là 3.299.600 USD, tuy nhiên sang năm 1995 thị trường này bị thu hẹp gần đến 1/3.
Nhìn chung tại thị trường Châu Á, Nhật Bản và Ên Độ, Philipin, Hàn Quốc là những thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn song vì một số nguyên nhân khác nhau mà chúng phần nào đã bị thu hẹp. Chủ trương của Công ty trong giai đoạn này là chú trọng thị trường Châu Á để bù đắp những khu vực thị trường Châu Âu đã bị mất. Trong điều kiện xuất khẩu sang thị trường Châu Âu giảm thì Công ty đã tìm ra giải pháp này và bước đầu đã thu được những thành quả nhất định. Sự thành công này là một thuận lợi để Công ty khẳng định vai trò của mình và tạo một bước tiến trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
* Đối với thị trường Châu Âu : ở giai đoạn này chưa thực sự có những bạn hàng ổn định. Thị trường Pháp năm 1992 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 8.606.000 USD chiếm 14% tổng kim ngạch nhưng sau đó lại bị gián đoạn hai năm tiếp theo, cho đến năm 1995 giá trị kim ngạch chỉ còn 1.897.300 USD
( giảm tới 4,5 lần), chiếm 7 % tổng kim ngạch xuất khẩu. Tương tự thị trường Thuỵ Điển năm 1992 giá trị kim ngạch xuất khẩu cũng đạt 6.946.100USD nhưng nó chỉ tồn tại được hết năm 1993, giá trị kim ngạch giảm xuống còn 2.513.800USD. Ngoài ra còn một số thị trường khác như: Cis, Bỉ, Slovakia… mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và hoạt động thất thường, song đáng chú ý nhất nhất là thị trường Bungary, thị trường này mới bắt đầu tham gia ( năm 1995 chiếm trên 7% giá trị kim ngạch ) tuy nhiên nã hứa hẹn nhiều cơ hội lớn cho Công ty.
Trong công tác thâm nhập thị trường của Công ty: ở một số thị trường lớn và ổn định thì Công ty thực hiện những hợp đồng dài hạn và toàn bộ sản phẩm được xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường này. Đối với các thị trường khác như: Cis, Pháp thì Công ty thực hiện qua các hợp đồng đơn lẻ.
Trong giai đoạn 1982 – 1991 giá cả các loại than xuất khẩu sang Liên Xô và một số nước XHCN khác là giá tính theo đồng Rup chuyển đổi. Cơ sở tính giá là sự thoả thuận theo Hiệp định Hợp tác giữa hai nước, giá cả này là ổn định nên Công ty chỉ làm nhiệm vụ cung ứng đủ khối lượng mà không cần quan tâm đến giá cả. Sau khi chương trình này không còn nữa thì giá cả là một vấn đề quan trọng đối với việc xuất khẩu than của Công ty sang nhiều thị trường khác nhau. Căn cứ để tính giá lúc này là dùa vào chất lượng than, đồng thời đồng tiền tính giá lúc này không còn là đồng Rup nữa. Trên thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Bungary…Công ty phải đối đầu với sự cạnh tranh của một số nước như Nam Phi, Trung Quốc … về giá cả. Do trong giai đoạn này ta cũng chưa có một cơ chế tỷ giá hợp lý nên việc xác định giá than xuất khẩu gây ra nhiều khó khăn cho Công ty. Như ta đã biết giá cả là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự bất ổn về thị trường xuất khẩu. Giá than xuất khẩu của ta thường cao hơn một số nước như : Trug Quốc, Anh, Đức …nên đã làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường thế giới. Ví dụ giá một tấn than loại 3 của ta là 65 – 67 USD/ tấn trong khi ở Trung Quốc chỉ có 64 – 65 USD /tấn . Nguyên nhân làm giá than cao là do chí phí sản xuất, thu mua của ta cao:
Phương tiện kỹ thuật khai thác than của ta lạc hậu, chủ yếu sử dụng lao động khai thác hết sức thô sơ.
Các má than của ta khai thác rải rác, chưa đầu tư sâu.
Chi phí cho thu mua cao do nhiều tiêu cực khác nhau. Công ty bị tác động bởi giá cao làm cho tiến độ giao hàng bị kéo dài, không đảm bảo chử tín của hợp đồng, điều này làm cho khả năng cạnh tranh của Công ty bị giảm sót.
Vấn đề giá cả là một hạn chế lớn của Công ty trong giai đoạn này, nó tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu và sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường quốc tế .
Tuy nhiên cũng giống như giai đoạn trước, công ty vẫn chưa phải đối mặt với sự cạnh tranh trong nước, bởi nhà nước vẫn uỷ quyền duy nhất cho Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế xuất khẩu mặt hàng than.
Nhìn chung trong cả giai đoạn 1992- 1995 Công ty có mức xuất khẩu than trung bình lớn nhất, tuy nhiên đây chỉ là sự mở rộng về chiều rộng còn về chiều sâu thì chỉ có thị trường Nhật Bản và Bungar
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 0 36.doc