Nhìn chung thì tốc độ tăng chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi có tăng
nhưng chưa đáng kể, chưa thực sự xứng đáng với vai trò và nhiệm vụ mang tính
chiến lược của nó và chưa thể hiện được những đường lối của Đảng và Nhà nước
trong việc phát triển thuỷ lợi mà nhà nước đã khẳng định đó là : Thuỷ lợi là biện
pháp hàng đầu trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, công trình thuỷ lợi là cơ sở
hạ tầng quan trọng để phát triển bền vững đất nước.
68 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1849 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với ngành thuỷ lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.768,182 tỷ đồng, năm 1999 là 2.809,734 tỷ đồng,
năm 2000 là 2.880,136 tỷ đồng.
Trong điều kiện hiện nay, thấy rõ được tầm quan trọng của ngành thuỷ lợi
đối với sự phát triển kinh tế của nước ta nên mức độ đầu tư XDCB đối với ngành
Thuỷ lợi cũng cần phải được tăng cường. Qua bảng số liệu trên ta thấy cơ cấu chi
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 28
NSNN, số chi cho đầu tư XDCB đối với ngành Thuỷ lợi không ngừng tăng lên cả
về số tương đối lẫn số tuyệt đối.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù có nhiều tác động của tự nhiên và
tình hình kinh tế xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế vào khoảng 6,8%, tỷ lệ động
viên vào GDP và NSNN giảm song đầu tư cho ngành thuỷ lợi trong 5 năm là
8.421,661 triệu đồng chiếm 9,35% chi NSNN. Vì phát triển ngành Thuỷ lợi là
một trong những động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn ngày càng
phát triển mạnh hơn góp phần vào việc thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước
Chi đầu tư xây dựng cho thuỷ lợi xét về tuyệt đối thì có phần tăng nhưng
xét về tương đối thì không tăng lên là mấy: Năm 1999 chi đầu tư XDCB từ
NSNN cho ngành thuỷ lợi là 2.809,734 triệu đồng tăng 1.041,552 (158,9%) so
với năm 1998 là 1.768,182 triệu đồng; Năm 2000 là 2.880,136 tỷ đồng tăng
70,402 tỷ đồng (102,5%) so với năm1999 là 2.809,734 tỷ đồng.
Nhìn chung thì tốc độ tăng chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi có tăng
nhưng chưa đáng kể, chưa thực sự xứng đáng với vai trò và nhiệm vụ mang tính
chiến lược của nó và chưa thể hiện được những đường lối của Đảng và Nhà nước
trong việc phát triển thuỷ lợi mà nhà nước đã khẳng định đó là : Thuỷ lợi là biện
pháp hàng đầu trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, công trình thuỷ lợi là cơ sở
hạ tầng quan trọng để phát triển bền vững đất nước. Để làm rõ vấn đề này ta có
thể so sánh tình hình kế hoạch chi đầu tư XDCB cho một số ngành trong nền
kinh tế quốc dân thể hiện ở bảng sau:(trang sau)
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 29
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tốc độ tăng chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ
lợi tăng lên rất ít trong khi đó thì chi đầu tư XDCB cho các ngành khác lại tăng
lên rất nhiều cụ thể:
Năm 1998: Chi NSNN đầu tư cho ngành thuỷ lợi là 1.768,182 tỷ đồng
chiếm 12,85%; chi NSNN đầu tư cho ngành Y Tế là 740,947 tỷ đồng chiếm
5,38%; Chi đầu tư cho ngành An Ninh là 129,200 chiếm 1,39%; Chi cho ngành
Giao Thông 5.297,926 tỷ đồng chiếm 38,52%, chi NSNN đầu tư XDCB cho
ngành nông nghiệp là 233,182 tỷ đồng chiếm 1,69%, chi đầu tư XDCB cho
ngành Văn Hoá là 372,448 tỷ đồng chiếm 2,7% trong tổng số chi đầu tư XDCB
của NSNN
Năm 1999: Tổng chi đầu tư xây dựng cho nền kinh tế quốc dân có tăng cả
về số tương đối, số tuyệt đối nhưng tỷ trọng chi cho một số ngành lại giảm đi
đáng kể so với tốc độ tăng của tổng chi đầu tư: Chi cho Y Tế giảm xuống còn
4,8% trong tổng chi đầu tư XDCB; Chi cho An Ninh giảm xuống còn 1,03% ;
Chi cho Giao Thông còn 32,33%, chi cho ngành Văn Hoá giảm xuống còn 2% .
Trong khi đó thì đầu tư cho ngành thuỷ lợi lại tăng hơn các ngành trên nhưng
không đáng kể và tăng từ 12,85% lên 13,02%
Năm 2000: chi đầu tư XDCB cho ngành Thuỷ lợi là 2.880,136 tỷ đồng
chiếm 13,06%; Chi đầu tư cho Y Tế là 1.316,876 tỷ đồng chiếm 5,98%; Chi đầu
tư XDCB cho Giao Thông là 8.184,383 chiếm 37,12%, chi đầu tư XDCB ngành
Nông nghiệp là 173,400 tỷ đồng chiếm 0,77%, chi đầu tư XDCB cho ngành Văn
hoá là 523,400 tỷ đồng chiếm 2,37% trong tổng số chi đầu tư XDCB.
Qua đây ta thấy tốc độ tăng giảm của các ngành không đồng đều: Năm
1998 - 1999 chi đầu tư XDCB cho ngành Thuỷ lợi là lớn nhất trong các ngành
sản xuất phi vật chất nhưng đến năm 2000 thì lại đầu tư nhiều nhất cho ngành Y
Tế. Điều này chứng tỏ Nhà nước chưa thực sự trú trọng đến đầu tư XDCB cho
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 30
ngành thuỷ lợi, chưa đầu tư thích đáng với vai trò, vị trí của nó đối với sự phát
triển của nền kinh tế .
Tuy nhiên kết quả chi đầu tư XDCB trong những năm qua cũng góp phần
đáng kể trong việc xây dựng mới và kiên cố các công trình thuỷ lợi và có tác
dụng rất lớn trong việc ngăn lũ, cung cấp nước tưới tiêu cho nông nghiệp và làm
tăng năng suất cây trồng ... Mặc dù nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn
trong quá trình phát triển, các cân đối lớn về nền kinh tế còn nhiều bất cập, đặc
biệt là cân đối giữa khả năng thu và nhu cầu chi của nền kinh tế, nhưng để đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế khu vực nông thôn nói riêng và dể đáp ứng cho sự
nghiệp CNH- HĐH nói chung thì Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm
giành vốn đầu tư để tạo điều kiện phát triển kinh tế của đất nước và mục tiêu của
Đảng và Nhà nước ta từ nay đến năm 2020 đất nước ta về cơ bản là một nước
công nghiệp
3.3. Đánh giá kết quả thực hiện đầu tư đối với ngành Thuỷ lợi
- Đã tăng cường đầu tư, củng cố nâng cấp sửa chữa công trình, đặc biệt
chương trình mục tiêu về đảm bảo an toàn các hồ chứa nước(chú trọng hồ có
dung tích trên 1 triệu m3 và chiều cao đập trên 10m); tu bổ nạo vét các trục sông
chính, kênh mương, các hệ thống liên tỉnh, liên huyện; sửa chữa các trạm bơm
điện, chú trọng các trạm bơm lớn nhằm đảm bảo khi cần bơm thì bơm được, nhất
là thời kỳ chống úng (năm 1996 mưa úng lớn trên toàn bộ đồng bằng bắc bộ +
Bắc khu 4 các trạm bơm đều hoạt động hiệu quả).
- Hàng năm công trình thuỷ lợi lớn nhỏ ở trên khắp mọi miền của đất nước
đã cung cấp trên 5 tỷ m3 nưóc cho công nghiệp và dân sinh. Các công trình thuỷ
lợi lớn sử dụng tổng hợp như Hoà Bình, Trị An, Thác Bà … tham gia cắt lũ, cấp
nước cho hạ du, cấp điện cho lưới điện quốc gia trên 10 tỷ Kwh/năm và tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển giao thông, thuỷ sản du lịch … đã đóng góp một vai
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 31
trò quan trọng trong sự phát triển công, nông nghiệp và các ngành kinh tế quốc
dân khác trên địa bàn cả nước
- Thuỷ lợi góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nhất là ở miền núi.
Nhiều địa phương nhờ có thuỷ lợi đã thúc đẩy hình thành nhiều vùng kinh tế mới,
tạo điều kiện định canh định cư góp phần ngăn chặn nạn chặt phá rừng làm
nương rẫy. Nhiều nơi thuỷ lợi kết hợp với thuỷ điện nhỏ đã đem lại ánh sáng đến
bản làng hẻo lánh
- Nhiều hệ thống thuỷ lợi đã góp phần cải tạo môi trường sinh thái, tạo nên
những cảnh quan đẹp đẽ phục vụ cho du lịch, nghỉ mát như hồ Suối Hai, hồ Đồng
Mô, hồ Núi Cốc, hồ Đại Lải … Nhờ có hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho tiêu nước
tốt mà nhiều vùng ngập úng ẩm thấp quanh năm trước đây đã trở thành khô ráo,
không những đảm bảo được giao thông đi lại dễ dàng mà còn giảm được nhiều
bệnh tật cho nhân dân.
3.4. Thực trạng công tác quản lý chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành
Thuỷ lợi trong những năm qua.
3.4.1. Quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư XDCB.
Để hiểu rõ tình hình quản lý chi NSNN cho đầu tư XDCB nói chung và cho
ngành thuỷ lợi nói riêng, ta cần xem xét quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán
vốn đầu tư XDCB theo sơ đồ sau:
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 32
Sơ đồ tổng thể về quy trình lập kế hoạch và thanh toán vốn đầu tư các
dự án đầu tư do TW quản lý
1 1
2
3
7
4
7
5
8
1. Chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư hàng năm
2. Bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án, gửi Bộ Tài Chính
3. Bộ Tài Chính có ý kiến đề nghị điều chỉnh lại trong trường hợp
không đúng quy định
4. Bộ thông báo kế hoạch khối lượng chi tiết cho chủ đầu tư
4a. Bộ Tài Chính thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho KBNNTW
4b. KBNNTW thông báo cho KBNN cơ sở nơi chủ đầu tư mở tài khoản
giao dịch
Bộ, ngành Bộ tài chính
Chủ đầu tư
KBNN TƯ
KBNN Cơ sở
Chính phủ
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 33
5. Chủ đầu tư mở tài khoản (lần đầu), lập kế hoạch thanh toán vốn đầu
tư hàng quý
6. KBNN lập kế hoạch chi hàng quý với Bộ Tài Chính
7. BộTài Chính chuyển tiền theo mức chi quý đẫ duyệt
8. Giao dịch thanh toán vốn đầu tư
Sơ đồ tổng thể về quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư các
dự án đầu tư do địa phương quản lý
1 1
2
3
3b
4 4a 6 7
5
8
1. Chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư hàng năm
2. UBND tỉnh bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án, gửi cho Bộ
Tài Chính
3. Bộ Tài chính có ý kiến đề nghị điều chỉnh lại trong trường hợp
không đúng quy định
Chính Phủ
Sở TCVG
KBNN Cơ sởChủ đầu tư
Bộ Tài ChínhUBND tỉnh
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 34
4. UBND tỉnh thông báo kế hoạch khối lượng chi tiết cho chủ đầu tư
4a. Sở tài chính vật giá thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho KBNN
tỉnh
5. Chủ đầu tư mở tài khoản (lần đầu), lập kế hoạch thanh toán vốn đầu
tư hàng quý
6. KBNN lập kế hoạch chi hàng quý với sở tài chính vật giá
7. Sở tài chính vật giá chuyển tiền theo mức chi quý đã được duyệt
8. Giao dịch thanh toán vốn đầu tư
Trên đây là sơ đồ tổng thể về quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn
đầu tư theo Thông tư số 135/1999/TT- BTC ngày 19/11/1999 của Bộ Tài Chính
hướng dẫn việc quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu
tư và xây dựng thuộc nguồn NSNN
3.4.2. Đánh giá tình hình quản lý vốn đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi ở
Việt Nam trong thời gian qua.
3.4.2.1. Đánh giá tình hình lập, xét duyệt, kế hoạch vốn đầu tư XDCB .
Trong công tác lập kế hoạch vẫn còn những tồn tại cần khắc phục.
Một là: Kế hoạch trung ương và địa phương đều thông báo quá muộn, do
vậy ảnh hưởng tới tiến độ triển khai công việc của Vụ Đầu Tư (cơ quan quản lý)
cũng như các chủ dự án, các đơn vị nhận thầu là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
dồn công việc vào cuối năm.
Hai là: Kế hoạch trong năm điều chỉnh quá nhiều lần làm mất tính hợp lý
của công tác kế hoạch hoá.
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 35
Ba là: Kế hoạch do Bộ NN&PTNT, các bộ khác quản lý thì thông báo rải
rác từng công trình, điều đó làm cho vụ Đầu tư không được chủ đạo trong việc
theo dõi quá trình đầu tư, đồng thời dễ xảy ra hiện tượng thất lạc, các chủ dự án
không biết được kế hoạch của mình đến đâu để triển khai thực hiện.
3.4.2.2. Thực trạng thanh toán vốn đầu tư XDCB đối với ngành thuỷ lợi ở
Việt Nam trong thời gian qua.
Các dự án đầu tư để được thanh toán cần có đủ các điều kiện sau:
- Quyết định của các cấp có thẩm quyền cho phép tiến hành lập dự án quy
hoạch.
- Dự toán chi phí công tác quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Quyết định của cấp có cho phép tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư
- Dự toán chi phí chuẩn bị đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt
- Thiết kế kỹ thuật, quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuậ, tổng dự toán,
quyết định phê duyệt tổng dự toán có giấy phép xây dựng
- Nhìn chung các công trình khi đã được cấp vốn thì cũng có đầy đủ các
điều kiện cấp vốn và cũng có những công trình dự án còn thiếu chưa đủ điều kiện
lên không được cấp. Để đánh giá được tình hình thực hiện thanh toán vốn đầu tư
cho ngành thuỷ lợi thì ta có thể nghiên cứu bảng số liệu dưới đây: (trang bên)
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 36
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
Thứ nhất: Khối lượng thực hiện chưa đạt bằng kế hoạch, cụ thể:
Năm 1998 kế hoạch vốn đầu tư là 1.768.182 triệu đồng ước tính khối
lượng 100% nhưng khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 88,91% số
tuyệt đối là 1.572,115 triệu đồng.
Năm 1999 số vốn đầu tư theo kế hoạch là 2.809,734 triệu đồng, số tương
đối đạt 90,9% với khối lượng ước tính, số tuyệt đối là 2.554,204 triệu đồng.
Năm 2000 vốn kế hoạch là 2.880,136 triệu đồng trong đó khối lượng thực
hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 2,835.619 triệu đồng số tương đối đạt tới
98,4% so với kế hoạch
Thứ hai: Việc thực hiện cấp phát thanh toán là thấp so với khối lượng thực
hiện bình quân 78% - 80%
Năm 1998 khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 1.572,115
triệu đồng nhưng số tiền được cấp phát là 1.382,396 triệu đồng đạt 87,9% so với
khối lượng thực hiện
Năm 1999 khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 2.554,204
triệu đồng, trong khi đó số tiền được thanh toán là 1.918,216 đạt 75,1% so khối
lượng thực hiện
Năm 2000 khối lượng thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 đạt 2.835,619
triệu đồng , số tiền được thanh toán là 2.092,535 triệu đồng đạt 73,8% so với
khối lượng thực hiện.
Tình hình khối lượng thực hiện chưa đạt so với kế hoạch và tình hình thanh
toán vốn đầu tư thấp hơn so với khối lượng thực hiện là do những lý do sau:
Thứ nhất: Do nhiều thay đổi của nhà nước về chính sách quản lý đầu tư và
xây dựng đã ảnh hưởng đến các dự án triển khai thực hiện ở các đơn vị. Nhiều
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 37
nơi phải lập và trình duyệt nhiều dự án đầu tư, thiết kế và dự toán cho phù hợp
với nghị định nên việc triển khai thực hiện cho đúng với cơ chế còn nhiều điểm
lúng túng, cụ thể:
- Ngày 8/7/1999 Chính phủ đã ban hành nghị định số 52/199/NĐ - CP về
quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, thay cho điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng
an hành theo nghị định số 92/CP ngày 23/8/1997 của Chính phủ
- Ngày 1/9/1999 chính ohủ ban hành nghị định số 88/1999/NĐ - CP về quy
chế đấu thầu, thay cho nghị định số 43/cp ngày 16/7/1996 và nghị định số 93/CP
ngày 23/8/1997 của chính phủ
Thứ hai: Do vốn cấp, thanh toán không kịp thời với tiến độ nên các đơn vị
nhận thầu không đủ vốn để triển khai công việc. Nguồn vốn do trung ương quản
lý (kho bạc nhà nước Trung ương chuyển) hoặc nguồn vốn do địa phương quản lý
(kho bạc tỉnh) chuyển sang thường chậm và dồn vào cuối năm, đầu năm thường
cấp nhỏ rọt
Thứ ba: Do số liệu thống kê về khối lượng thưc hiện có thể là không chính
xác. Hàng năm đến thời điểm ngày 31/12 tất cả cácdự án, công trình đều phải kê
khai khối lượng thực hiện nhưng do ước tính nên khong thể chính xác, hoặc có
thể các bên A - B thông đồng với nhau khai khống khối lượng để lấy tiền trước,
trong khi đó các cơ quan quản lý (cơ quan cấp vốn) không kiểm tra kỹ
Thứ tư: Do thiên tai địch hoạ gây nên: lũ lụt xảy ra liên miên gây cản trở
cho tiến độ thi công của công trình
Thứ năm: Do chính sách giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc nên
phải bổ xung sửa đổi trong quá trình thực hiện
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 38
Thứ sáu: Do khối lượng thực hiện là ước tính nên không thể cấp phát
100% khối lượng đó được. Trong quá trình cấp phát chỉ có những công trình,
hạng mục ccong trình đã thẩm định thì mới được cấp 90%, dự án nào được cấp có
thẩm quyền phê duyệt, quyết toán mới được cấp 100%
Thứ bảy : Do khối lượng cấp phát trong năm kế hoạch bao giờ cũng có
hiện tượng cấp trả nợ cho khối lượng thực hiện của năm trước
Thứ tám: Do kế hoạch vốn đầu không tập chung, tràn lan và không được
hoạch định trong chiến lược phát triển đầu tư dài hạn. Điều này dẫn đến việc bố
trí kế hoạch vốn cho nhiều công trình dở dang tăng lên, gây ứ đọng vốn đầu tư.
Ví dụ năm 2000 NSNN cấp cho địa phương 30 tỷ đồng để xay dựng những công
trình thuộc dự án nhóm C, vói 30 rỷ đồngnày có thể xây dựng 7 dự án nhưng họ
đã bố trí 17 dự án nên tất cả cá dự án đều được thực hiện nên vốn đầu tư này dàn
trải đến hết năm thứ hai mà tất cả các công trình này không được hoàn thành
trong khi dó thì thời gian hoàn thành quy định trong nghị định 52/1999/NĐ- CP
là 2 năm.
4. Công tác quyết toán vốn đầu tư XDCB:
Định kỳ ngày 20 hàng tháng và ngày 10 của tháng đầu quý sau, chủ đầu tư
có trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện đầu tư, tình hình nhận vốn, sử dụng
vốn trong tháng hoặc quý trước gửi cơ quan kho bạc Nhà nước, đồng gửi cấp
quyết định đầu tư. Riêng đối với dự án nhóm A, chủ đầu tư gửi báo cáo cho cơ
quan kho bạc Nhà Nước, Bộ hoặc UBND tỉnh, Bộ Kế Hoạch - Đầu tư, Bộ Tài
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 39
Chính, Bộ Xây Dựng, Tổng cục thống kê để tổng hợp báo cáo thủ tướng Chính
Phủ.
Kết thúc năm kế hoạch và khi dự án hoàn thành (công trình hoặc hạng mục
công trình) nhằm xác định số vốn đầu tư cấp phát trong năm hoặc số vốn đầu tư
cấp phát cho dự án kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành để làm cơ sở cho việc
quyết toán vốn đầu tư với Nhà nước.
Khi dự án hoàn thành (công trình hoặc hạng mục công trình hoàn thành)
chủ đầu tư phải đối chiếu khối lượng hoàn thành được cấp phát với só cấp phát,
thanh toán, chuyển nhượng những vật tư thiết bị không sử dụng thanh toán nợ
nần ... để xác định số vốn đầu tư thực sử dụng cho dự án trên cơ sở đó lập báo cáo
quyết toán vốn đầu tư hoàn thành cho dự án và gửi cho cơ quan cấp phát và cơ
quan quyết định đầu tư. Các dự án đầu tư kéo dài nhiều năm khi quyết toán, chủ
đầu tư phải quy đổi vốn đầu tư đã thực hiện về mặt bằng giá thời điểm bàn giao
đưa vào vận hành, để xác định giá trị tài sản cố định mới tăng và giá trị tài sản
bàn giao.
Về mặt thời gian: Chậm nhất là một tháng sau khi kết thúc năm kế hoạch,
chủ đầu tư phải hoàn thành báo cáo vốn đầu tư thực hiện của năm trước gửi cơ
quan cấp phát và Bộ hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cơ quan
quyết định đầu tư)
Trước khi phê duyết quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành phải tiến hành
thẩm tra. Đối với các dự án nhóm A, Bộ Tài Chính có trách nhiệm chủ trì thẩm
tra.
Đối với các dự án đầu tư còn lại do các bộ hoặc UBND tỉnh , thành phố
trực thuộc trung ương tổ chức kiểm tra.
Đối với các dự án đầu tư hoàn thành người có thẩm quyền quyết định đầu
tư đồng thời là người phê duyệt quyết toán.
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 40
Riêng đối với các dự án nhóm A, Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền bộ
trưởng Bộ Tài Chính phê duyệt quyết toán.
Trong những năm qua công tác kiểm tra quyết toán đã đạt được những
thành tựu đáng kể, hầu hết các công trình hoặc hạng mục công trìn khi hoànthành
đều được báo cáo thẩm tra quyết toán đúng quy định trong nghị định
52/1999/NĐ - CP và thêm vào đó nó cũng tiết kiệm được một lượng vốn đáng kể
cho Nhà Nước trong công tác này.
5. Những thành tựu về đầu tư XDCB đối với ngành thuỷ lợi trong thời gian
qua.
Cùng với sự thay đổi, điều chỉnh bổ sung và ban hành những quy chế,
chính sách mới của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian qua,
công tác quản lý XDCB của ngành thuỷ lợi trong thời gian qua đã có những
chuyển biến tích cực, dần dần được củng cố và tăng cường hiệu quả vốn đầu tư:
- Phần lớn các đơn vị, các chủ đầu tư đã thực hiện nghiêm túc trình tự đầu
tư và xây dựng, từ tổ chức lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán đến
việc thẩm định và trình duyệt; thực hiện đầy đủ các thủ tục đấu thầu và tổ chức
đấu thầu chọn đơn vị xây dựng và cung ứng hiết bị theo đúng các quy định về
quy chế đấu thầu.
- Tổ chức quản lý và thực hiện dự án theo các quy định của quy chế quản
lýđầu tư và xây dựng các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành và địa phương.
- Nhiều công trình xây dựng đã tiết kiệm được một số vốn đầu tư nhờ thực
hiện đấu thầu cạnh tranh; Do đó, với cùng một lượng vốn đầu tư Nhà nước cấp
hàng năm chúng ta đã xây dựng được nhiều hơn các công trình thuỷ lợi, kênh
mương, đê điều, các trạm bơm ... góp phần giải quyết nhanh tình trạng thiếu các
công trình thuỷ lợi và góp phần phục vụ nâng cao chất lượng phục vụ tưới tiêu
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 41
cho đồng ruộng, và giải quyết tình trạng thiếu nước ở những nơi thiếu nước trong
mùa khô.
- Tiến độ thực hiện của nhiều dự án đã đáp ứng được yêu cầu đề ra, đảm
bảo tiến độ thi công công trình và cung cấp trang thiết bị, sớm đưa công trình vào
sử dụng nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Việc luôn luôn ban hành các văn bản hướng dẫn về đầu tư XDCB, chứng tỏ
Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến vấn đề đầu tư XDCB, do vậy việc
quản lý vốn đầu tư XDCB ngày càng đi vào quý đạo chặt chẽ hơn, như các thủ
tục về đầu tư được đảm bảo hơn, tiến độ thi công nhanh và đúng thời gian, đảm
bảo đúng chất lượng công trình và đưa công trình vào sử dụng, thanh toán vốn
đảm bảo kịp thời, tiết kiệm, tránh lãng phí, thất thoát vốn được nhiều tiền của
Nhà nước.
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước các công trình của ngành thuỷ lợi
đã được đầu tư ưu tiên một khối lượng vốn rất lớn để hoàn thành công trình một
cách sớm nhất, đúng thời gian quy định để đáp ứng nhu cầu cho sự nghiệp phát
triển kinh tế đất nước.
6. Những tồn tại trong công tác quản lý vốn đầu tư XDCB đối với ngành
Thuỷ lợi ở Việt Nam trong thời gian qua.
Bên cạnh một số thành tựu đã kể ở trên, công tác đầu tư xây dựng ở ngành
thuỷ lợi còn tồn tại một số vấn đề cần quan tâm: Do triển khai nhiều văn bản về
quy chế quản lý đầu tư và XDCB, luật NSNN và các chế độ chính sách mới ban
hành chưa được đầy đủ và thiếu đồng bộ giữa các bộ, ngành, các địa phương như:
Thủ tục, trình tự XDCB làm còn chậm và chưa đầy đủ hồ sơ dự án, thiết kế, dự
toán làm sơ sài, tính không đủ, tính thiếu p
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 42
hải bổ xung và điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Một số đơn vị triển khai kế
hoạch còn chậm, gần cuối năm mới tổ chức đấu thầu chọn đơn vị và xây lắp và
cung ứng thiết bị. Hồ sơ mời thầu làm sơ sài ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện kế
hoạch. Việc phối hợp giữa các chủ đầu tư và nhà thầu trong việc tạm ứng, thanh
quyết toán chậm, ảnh hưởng đến việc cấp vốn và giải ngân (đặc biệt đối với các
dự án thực hiện bằng vốn nước ngoaì). Một số đơn vị thiếu chủ động còn nhờ sự
giúp đỡ của ngành trong việc hoàn tất hoò sơ, thủ tục xây dựng cơ bản. Việc thực
hiện chế độ báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư XDCB còn chưa đầy đủ
và kịp thời, cụ thể:
Thứ nhất: Công tác giao kế hoạch, phân định kế hoạch vốn đầu tư của các
bộ và địa phương còn chậm.
Theo quy định của luật NSNN và nghị định 52/1999/NĐ- CP quy định: các
dự án thah toán vốn đúng niên độ ngân sách, công tác chuẩn bị và giao kế hoạch
vốn phải kết thúc vào quý IV của năm trước nhưng yêu cầu về thời gian này rất ít
được đảm bảo. Đặc biệt vốn bổ sung, của địa phương hầu hết đến giữa năm mới
giao được, trong khi đó có rất nhiều dự án mới, điều này dẫn đến việc khó đảm
bảo thời gian thực hiện tiến độ của dự án. Nhiều dự án vốn đầu tư trung ương đến
tháng 7, tháng 8 thậm trí đến tháng 9 mới được giao kế hoạch năm.
Việc giao kế hoạch và phân khai kế hoạch chậm dẫn đến việc điều chỉnh
về tiến độ thực hiện và thah toán vốn của từng dự án, nhưng công tác điều chỉnh
rất chậm, nhưng công tác điều chỉnh rất chậm, sang đến tháng 10 kế hoạch điều
chỉnh vẫn chưa được thông qua, làm ảnh hưởng đến việc thanh toán vào cuối
năm, việc triển khai của các chủ đầu tư bị động và rất chậm trễ.
Thứ hai: Các trình tự về thủ tục đầu tư như công tác mời thầu, phê duyệt
kết quả đấu thầu, kết quả đấu thầu chậm nên ảnh hưởng đến tiến độ thi công của
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 43
công trình. Thêm vào đó là việc bỏ giá thầu quá thấp dưới mức giá thành đã
khiến cho nhiều công trình không hoàn thàh đúng thời hạn, chất lượng và tuổi thọ
bị ảnh hưởng nghiêm trọng và tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh
- Các quy định, thủ tục về đầu tư XDCB theo nghị định 52/1999/NĐ- CP
chưa thực hiện nghiêm túc.
Hiện nay có các công trình chưa đủ thủ tục nhưng các bộ, ngành địa
phương vẫn bố trí kế hoạch vốn đầu tư. Bên cạnh đó lại có nhiều công trình đã có
đầy đủ thủ tục về đầu tư nhưng lại bố trí kế hoạch thấp, nên không đủ vốn để
triển khai thi công
Thứ ba: Tình trạng giải ngân chậm hay còn gọi “Vốn chờ dự án” trong
thực tế hiện nay.
Việc khối lượng XDCB đạt thấp do nhiều nguyên nhân sau:
- Về cơ chế chính sách: Thời gian qua hệ thống chính sách và thể chế của
nhà nước đã thay đổi căn bản. Trong đó cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng được
thay đổi phù hợp và có tác động mạnh tới tăng trưởng và đầu tư. Song trên tổng
thể thì hệ thống chính sách, cơ chế quản lý đầu tư còn thiếu đồng bộ, chưa cụ thể,
chưa thật thông thoáng thậm chí còn có những quy định làm rào cản của quả
trình thực hiện đầu tư.
- Tiến độ thanh toán vốn đầu tư còn quá chậm
Thứ tư: Trong đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải, nặng về đối phó với
thiên tai, chưa tập trung trọng điểm một số công trình xây dựng còn kéo dài.
Thứ năm: Khả năng cân đối ngân sách còn nhiều khó khăn mới đáp ứng
được 60-70% yêu cầu, chưa tương xứng với yêu cầu đầu tư phát triển nông
Luận văn tốt nghiệp
Đỗ Việt Hùng - Lớp D36 - 01A 44
nghiệp nông thôn dẫn đến hệ thống thuỷ lợi còn thiếu đồng bộ, hệ thống đê kè,
cống còn yếu kém, khả năng phòng chống thiên tai chưa đảm bảo ...
Thứ sáu: Về cơ chế quản lý :
- Việc phân cấp đầu tư giữa trung ương và địa phương chưa rõ ràng cụ thể,
dẫn đến công trình không đồng bộ, hiệu quả phục vụ kém, đối với thuỷ lợi vốn bộ
quản lý thường tập chung đầu mối và kênh chính, địa phương đầu tư kênh cấp
dưới đến mặt ruộng, nhưng nhiều địa phương không có vốn để đầu tư nên công
trình không đồng bộ.
Thứ bảy: Tình trạng thất thoát vốn, lãng phí vốn ngân sách trong quá trình
thi công xây dựng công trình cho ngành thuỷ lợi vẫn còn xảy ra
Thất thoát vốn trong quá trình thi công xây dựng có thể do những nguyên
nhân sau:
- Kiểm kê khối lượng thực hiện chưa chính xác (có thể do khách quan hoặc
có thể do cố ý nhằm thu lợi bất chính)
- Khai khống khối lượng thực hiện. Thực tế công viêc làm được ít nhưng
lại kê khai, lập phiếu giả mạo để được thanh toán nhiều, nhằm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư xây dựng cơ bản và cơ sở để tổ chức thực hiện quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản đối với ngành thuỷ lợi.pdf