MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, TẠO ĐIỀU KIỆN CHO VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở LÀO HIỆN NAY 6
1.1. Phát triển nền kinh tế thị trường, chuẩn bị công nghiệp hóa, hiện đại hóa là yêu cầu và điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay 6
1.2. Tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ, ý thức pháp luật nâng cao dân trí trong nhân dân 22
Chương 2: ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THEO HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở LÀO HIỆN NAY 33
2.1. Nhận thức về đổi mới và hoàn thiện theo hướngxây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay 33
2.2. Hướng đổi mới tổ chức và hoạt động Nhà nước nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay và những năm tới 61
Chương 3: ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC THEO HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở LÀO HIỆN NAY 79
3.1. Đổi mới tư duy về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước theo hướng Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay 79
3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay 89
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
108 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2088 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao đổi ngoại thương với bên ngoài ở cấp trung ương và địa phương đều được mở rộng. Nhưng do quan điểm giản đơn về CNXH trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước còn thấp kém như vậy đã vội vàng tiến hành quốc hữu hóa trong công nghiệp, tăng cường khu vực nhà nước trong thương nghiệp và dẫn tới tình trạng tập trung hóa nền kinh tế đất nước, trong khi trình độ sản xuất xã hội chưa phát triển cao. Do nóng vội, chủ quan duy ý chí, xem nhẹ thực tiễn khách quan nên hậu quả là năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra thấp kém, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả và đời sống nhân dân ngày càng giảm sút.
Nhưng từ những sai lầm ấy của lịch sử, Đảng và Nhà nước Lào đã đúc rút được nhiều bài học quý báu trong việc đổi mới quản lý, điều hành kinh tế - xã hội cũng như việc đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước trong thời kỳ sau này - thời kỳ đổi mới.
2.1.2.2. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước Lào trong thời kỳ đổi mới - Một số kết quả và vấn đề đặt ra hiện nay
Bước vào công cuộc đổi mới, để đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế và xã hội, bộ máy và hoạt động của Nhà nước Lào từng bước có những thay đổi theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền.
Trước hết, Hội đồng nhân dân tối cao khóa II do công dân Lào toàn quốc trực tiếp bầu cử đã ra đời năm 1989. Hội đồng nhân dân tối cao khóa II gồm có 79 thành viên (trong đó có 5 thành viên nữ).
Hội đồng nhân dân tối cao khóa II ngoài Chủ tịch, Phó chủ tịch, có ủy ban Thường vụ và các ban phụ trách các lĩnh vực quan trọng của đất nước trong đó có ban phụ trách pháp luật. Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối cao khóa II không kiêm chức Chủ tịch nước như khóa trước, chỉ phụ trách chức vụ chính của mình - là cơ quan lập pháp tối cao [14, tr.10-11].
Hội đồng nhân dân tối cao khoá II có vai trò trọng yếu là thể chế hoá đường lối đổi mới do Đảng NDCM Lào khởi xướng thành Hiến pháp của chế độ CHDCND Lào và ban hành một số luật mới. Hệ thống tổ chức Hội đồng nhân dân khóa này chỉ có ba cấp, bỏ cấp xã, bao gồm: Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội), Hội đồng nhân dân tỉnh - thành, Hội đồng nhân dân huyện.
Để đảm bảo sự thống nhất tổ chức bộ máy tham mưu cấp tỉnh, huyện cũng đã được củng cố sắp xếp lại, nhưng việc củng cố bộ máy chính quyền ở địa phương không hoàn toàn giống nhau mà tùy theo điều kiện thực tiễn của mỗi tỉnh, huyện. Một số tỉnh, huyện có tới 20 sở còn một số tỉnh, huyện khác chỉ có 18 hoặc 16 sở.
Ngày 23/11/1989 tại kỳ họp thứ 2 của Hội đồng nhân dân tối cao khóa II, trong lúc chưa có Hiến pháp, vẫn thông qua 4 bộ luật mới của chế độ pháp lý CHDCND Lào như: Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tòa án nhân dân. Bốn đạo luật trên được công bố áp dụng thi hành theo sắc lệnh của Chủ tịch nước CHDCND Lào số 04, 05, 06 và số 07 ra ngày 9 tháng 1 năm 1990. Bốn bộ luật trên được áp dụng và có giá trị đến ngày nay. Điều đó cũng thể hiện tính đặc thù trong lĩnh vực lập pháp của CHDCND Lào. Tuy chưa có Hiến pháp nhưng có một số đạo luật để quản lý điều hành xã hội.
Đại hội V của Đảng NDCM Lào (1991) đã tiếp tục khẳng định sự cần thiết phải đổi mới và kiện toàn về chính trị trong đó đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế đang chuyển từ kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên sang nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. Đó là vấn đề rất mới đặt ra đối với công tác quản lý, điều hành của Nhà nước. Phương thức quản lý điều hành mang tính chất mệnh lệnh, hành chính như giai đoạn trước đây là không còn phù hợp. Nhà nước, do đó, đã phải từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng sử dụng hệ thống pháp luật để quản lý kinh tế - xã hội, thể đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới. Pháp luật ngày càng trở nên cần thiết là công cụ quản lý của Nhà nước. Việc Nhà nước dùng Hiến pháp và pháp luật để quản lý đất nước, quản lý xã hội ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết đối với Nhà nước Lào.
Từ những yêu cầu đòi hỏi thực tiễn khách quan, Hiến pháp đầu tiên - một đạo luật cơ bản có tính pháp lý cao nhất của CHDCND Lào đã được công bố áp dụng theo Sắc lệnh số 55 của Chủ tịch nước CHDCND Lào ngày 15/8/1991. Việc ban hành Hiến pháp, một mặt, thể hiện sự đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước trong giai đoạn mới, mặt khác, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới và hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào. Lần đầu tiên chế độ CHDCND Lào đã có đạo luật cơ bản là Hiến pháp, trên cơ sở đó mà ban hành các đạo luật khác, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng cũng như bảo đảm các quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân Lào dưới chế độ xã hội mới.
Từ đây, tổ chức và hoạt động chủ yếu của Nhà nước CHDCND Lào chủ yếu dựa vào Hiến pháp. Việc củng cố kiện toàn bộ máy quyền lực Nhà nước, việc xây dựng tổ chức hoạt động của Nhà nước được tiến hành mang tính chất pháp lý nhiều hơn so với giai đoạn trước, mà quan trọng nhất là việc bước đầu xây dựng và củng cố ba cơ quan quyền lực nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội:
ở CHDCND Lào, Hội đồng nhân dân tối cao đã chuyển thành Quốc hội từ ngày 20/12/1992. Quốc hội là cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân, có thẩm quyền quyết định những vấn đề cơ bản của đất nước, là cơ quan lập pháp, lập hiến, là cơ quan có quyền theo dõi giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Thay đổi lớn nhất là chuyển Hội đồng nhân dân tối cao từ cơ quan chủ yếu thực hiện chức năng đại diện cho nhân dân các bộ tộc Lào, là cơ quan tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thành Quốc hội với nhiều chức năng khác nhau, trong đó nổi lên là chức năng hợp pháp. Còn chức năng tập hợp, đoàn kết nhân dân, chủ yếu thuộc về chức năng của Mặt trận Lào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc tách các chức năng làm cơ sở chính trị - xã hội cho chính quyền cách mạng - Nhà nước, trong đó có Quốc hội khỏi chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội) là một xu hướng tích cực, tiến bộ, thể hiện sự phát triển của xã hội Lào.
Chuyển Hội đồng nhân dân tối cao thành Quốc hội, nhấn mạnh chức năng lập pháp là những bước tiến bộ theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội được thực hiện theo nguyên tắc phổ thông bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín [34, tr.1-12].
Quốc hội bao gồm các thành viên (đại biểu) Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 6 luật Quốc hội). Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện công việc theo chế độ hội họp và quyết định các vấn đề theo ý kiến của đa số (Điều 3 luật Quốc hội). Quốc hội mỗi khóa có nhiệm kỳ 5 năm kể từ cuộc họp đầu tiên của Quốc hội khóa hiện hành đến cuộc họp lần đầu của Quốc hội khóa mới (Điều 4 luật Quốc hội). Như vậy, “theo Hiến pháp và luật Quốc hội CHDCND Lào hiện nay đang thực hiện chế độ cơ cấu tổ chức Quốc hội một cấp, không có Hội đồng nhân dân các cấp như trước” [38, tr.3]. ở địa phương chỉ có tổ đại diện của Quốc hội (đoàn đại biểu Quốc hội) đóng tại tỉnh theo khu vực bầu cử nhằm tạo thuận lợi cho các đại biểu Quốc hội hoạt động thực thi nhiệm vụ của mình, thay mặt cho nhân dân theo dõi, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước cấp địa phương. Điều đó cũng thể hiện sự đổi mới từng bước về tổ chức hoạt động của nhà nước trên lĩnh vực lập pháp.
Chủ tịch nước:
Theo Hiến pháp 1991, ở CHDCND Lào Chủ tịch nước không kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối cao như giai đoạn trước. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, người nắm quyền hành chính cao nhất, là người thay mặt cho nhân dân các bộ tộc Lào kể cả ở trong và ngoài nước. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra với kết quả phiếu bầu hơn 2/3 của số thành viên Quốc hội đến dự cuộc họp. Chủ tịch nước có nhiệm kỳ 5 năm (Điều 52 của Hiến pháp). Chủ tịch nước có thể có phó chủ tịch giúp việc và thay mặt khi Chủ tịch nước vắng mặt. Phó chủ tịch nước cũng do Quốc hội bầu với kết quả số phiếu ít nhất phải 50% của số thành viên đến dự cuộc họp (Điều 55 của Hiến pháp).
Chính phủ:
Cùng với chuyển Hội đồng nhân dân tối cao thành Quốc hội thì Hội đồng Bộ trưởng cũng được chuyển thành Chính phủ CHDCND Lào.
Theo Điều 56 của Hiến pháp, “Chính phủ là cơ quan hành chính quốc gia, Chính phủ quản lý thống nhất việc thực thi nhiệm vụ của Nhà nước về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại". Chính phủ gồm có Thủ tướng, Phó thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ [34, tr.21-22].
Thủ tướng Chính phủ do Chủ tịch nước bổ nhiệm và thông qua Quốc hội. Thủ tướng là:
Người đứng đầu Chính phủ có quyền chỉ đạo và quản lý điều hành mọi công việc của Chính phủ, chỉ đạo công việc của các bộ cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác thuộc Chính phủ, chỉ đạo công việc của Tỉnh trưởng, Thành trưởng. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm thứ trưởng, phó ban, phó tỉnh trưởng, phó thành trưởng và huyện trưởng [34, tr.22-23].
Chính phủ hoạt động thực thi nhiệm vụ theo nguyên tắc tập trung dân chủ về tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối nội và đối ngoại (Điều 3 luật Chính phủ).
Bộ máy của Chính phủ nước CHDCND Lào bao gồm các bộ và các cơ quan ngang bộ đã được Quốc hội thông qua. Đồng thời việc quy định cơ cấu bộ máy của Chính phủ còn dựa trên cơ sở yêu cầu đòi hỏi thực tiễn của đất nước trong từng giai đoạn.
Như đã nêu trên Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Chủ tịch nước.
Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 31 ra ngày 26/2/1993 quy định cơ cấu các bộ và cơ quan ngang bộ nước CHDCND Lào được tổ chức gồm có 13 bộ và 3 cơ quan ngang bộ. Đó là "bộ máy Chính phủ được cơ cấu lại sau khi Hiến pháp nước CHDCND Lào ra đời và được giữ vững cho đến nay" [37, tr.2].
Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IV (23-6 tháng 2 năm 1998), theo đề nghị của Chủ tịch nước CHDCND Lào, đã quyết định giữ nguyên cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ theo tinh thần Hiến pháp 1991.
Các bộ và cơ quan ngang bộ đã có hệ thống tổ chức từ Trung ương xuống tỉnh - thành và huyện trên cả nước.
Chính quyền địa phương:
Chính quyền địa phương được tổ chức theo lãnh thổ. Để phù hợp và thống nhất với tổ chức bộ máy quản lý hành chính cấp Trung ương, ở địa phương cũng đã củng cố lại bộ máy theo Hiến pháp 1991. Theo đó, ở CHDCND Lào chính quyền địa phương gồm có ba cấp tỉnh - thành, huyện và bản - làng. Tỉnh - thành: có tỉnh trưởng, thành trưởng, phó tỉnh trưởng, phó thành trưởng. Huyện: có huyện trưởng và phó huyện trưởng giúp việc. Bản làng: có trưởng làng và phó trưởng làng là người giúp việc (Điều 62 của Hiến pháp).
Việc quản lý địa phương được tổ chức theo chế độ quản lý địa giới hành chính lãnh thổ. Hiện nay ở nước CHĐCN Lào có các đơn vị hành chính là tỉnh, huyện, bản làng. Để tổ chức quản lý địa phương một cách thống nhất, Bộ Chính trị Trung ương Đảng NDCM Lào đã có Văn bản hướng dẫn số 02 về việc tăng cường sự chỉ đạo của văn phòng tỉnh đối với cơ quan quản lý địa phương. Theo tinh thần của Hiến pháp, chính quyền địa phương được củng cố từng bước xóa bỏ cấp xã. Song, tùy theo điều kiện thực tế của mỗi nơi, nhất là vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh, tạm thời vẫn giữ cấp xã để từng bước xây dựng củng cố bản - làng, tiến tới thực hiện Sắc lệnh số 102 của Thủ tướng Chính phủ ra ngày 5/7/1993 về tổ chức và quản lý bản - làng.
Nước CHDCND Lào hiện nay có 17 tỉnh, thành phố và một đặc khu trực thuộc Trung ương, 141 huyện, 11.229 bản làng, 799.289 hộ.
Mục đích của việc củng cố tổ chức chính quyền địa phương là nhằm tăng cường sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động quản lý giữa chiều dọc và chiều ngang; kết hợp quản lý thống nhất toàn quốc và quản lý theo vùng, lãnh thổ, trong đó lấy tỉnh làm đơn vị chiến lược, coi huyện là đơn vị thực hiện kế hoạch và từng bước tự chủ về mọi mặt [25, tr.3].
Như vậy, theo tinh thần Hiến pháp 1991 thì tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào cũng có những thay đổi nhất định. Một là, cơ cấu tổ chức gọn lại, các cơ quan Chính phủ trở thành những cơ quan quản lý nhà nước về những lĩnh vực - ngành được phân công. Tách dần chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng điều hành trực tiếp sản xuất kinh doanh. Hai là, các cơ quan Chính phủ chuyển biến theo hướng là cơ quan hành pháp - chấp hành pháp luật và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Việc chuyển Hội đồng nhân dân thành Chính phủ cũng là một chuyển biến tích cực theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Lào hiện nay.
Cơ quan tư pháp:
Hệ thống cơ quan tư pháp của CHDCND Lào gồm có hai cơ quan là: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. "Theo quy định của Hiến pháp 1991, Tòa án nhân dân là cơ quan xử án của Nhà nước bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh - thành, Toà án nhân dân huyện và Tòa án quân sự" [34, tr.25].
Trong đó, Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước. Tòa án nhân dân tối cao kiểm tra quyết án của Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị ủy ban Thường vụ Quốc hội. Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao và thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp do ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và miễn nhiệm. Tòa án nhân dân xét xử và quyết định tập thể.
Trong khi xét xử thẩm phán Tòa án phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc xét xử vụ án tại phiên tòa phải thực hiện một cách công khai, loại trừ trường hợp mà pháp luật đã quy định. Bị cáo có quyền kháng án mà mình bị truy tố, đoàn luật sư có quyền giúp đỡ bào chữa về mặt pháp lý đối với bị cáo. Người thay mặt các cơ quan, tổ chức là hội có quyền tham dự khi vụ án được tiến hành tại phiên tòa theo luật định [34, tr.26].
Viện kiểm sát nhân dân bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh - thành, Viện kiểm sát nhân dân huyện và Viện kiểm sát quân sự.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có quyền kiểm tra việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh và thống nhất đối với tất cả các cơ quan, tổ chức đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội, cơ quan hành chính địa phương các đơn vị kinh tế, cán bộ công nhân viên chức nhà nước và mọi công dân thực hiện quyền kiện tụng - khiếu nại.
Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao do Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị của ủy ban Thường vụ Quốc hội là:
Người chỉ đạo mọi hoạt động của các cơ quan kiểm sát nhân dân của CHDCND Lào. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao do ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn viện trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh - thành, huyện và Viện kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm và miễn nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ chỉ tuân theo pháp luật và chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao [34, tr.13-28].
Như vậy theo Hiến pháp 1991 các cơ quan xử án và bảo vệ pháp luật như Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân không thuộc Bộ tư pháp như giai đoạn trước. Những người đứng đầu cơ quan tư pháp là do Quốc hội bổ nhiệm còn ở địa phương là do người đứng đầu cơ quan tư pháp tối cao bổ nhiệm và bãi miễn. Khi thực hiện nhiệm vụ các cơ quan tư pháp chỉ tuân thủ pháp luật và dưới sự chỉ đạo của cơ quan tư pháp cấp trên một cách độc lập và xét xử công minh.
Có thể nói, tư tưởng đường lối đổi mới được xác định bởi Đại hội IV (1986) của Đảng NDCM Lào, nhưng đổi mới Nhà nước (lĩnh vực chính trị) phải đến Đại hội V của Đảng (1991) khi Hiến pháp đầu tiên của chế độ CHDCND Lào ra đời (15/8/1991). Hiến pháp quy định chế độ Nhà nước CHCND Lào là Nhà nước dân chủ nhân dân. Mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân, các bộ tộc Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân được thể hiện đại biểu Quốc hội do nhân dân, công dân Lào toàn quốc sử dụng quyền dân chủ của mình bầu theo luật định. Sau đó Quốc hội bầu Chủ tịch nước, bầu và bổ nhiệm các cơ quan Nhà nước khác có thể trực tiếp hoặc gián tiếp theo luật định.
Sau gần 20 năm đổi mới, công cuộc cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ở CHDCND Lào đã và đang được tiến hành theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền. Theo đó, Nhà nước đang được xây dựng theo mô hình Nhà nước thống nhất quyền lực trên cơ sở có sự phân công, phân cấp rành mạch giữa ba cơ quan lập pháp hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân Lào trong điều kiện mới. Đó là mô hình tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước mang tính đặc thù, độc lập, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước.
Tuy nhiên, từ thực tế cho thấy quá trình đổi mới và xây dựng nhà nước ở Lào hiện nay vẫn còn những vấn đề đặt ra sau đây:
Một là, vấn đề thực hiện chế độ Quốc hội một cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước, có các tổ chức, công chức đặt trụ sở ở các tỉnh với nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của chính quyền địa phương. Trong việc thực thi quyền hạn của nhân dân, am hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân. ở CHDCND Lào không có Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã.
Hiện nay theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định số đại biểu Quốc hội được tính theo tỷ lệ dân số là 5 vạn dân với 1 đại biểu. Như vậy Quốc hội hiện hành chỉ có 99 thành viên trong đó 31 thành viên đại diện cho các cơ quan trung ương và 68 thành viên đại diện của các tỉnh trong cả nước. Trong hoàn cảnh địa lý tự nhiên của Lào, đất rộng người thưa đường giao thông chưa thông suốt, dân sống du canh du cư chiếm tỷ lệ khá cao như hiện nay, thì với số đại biểu Quốc hội như vậy khó có thể đảm đương với công việc của mình với tư cách là cơ quan người đại diện quyền lực của nhân dân.
Mặt khác, thực hiện chế độ Quốc hội một cấp có xu hướng làm cho cơ quan đại diện của nhân dân lại không sát với dân, phần nào làm ảnh hưởng đến việc thực thi quyền dân chủ của nhân dân và việc nhân dân được tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng bị hạn chế phần nào. Trên thực tế hiện nay, Hiến pháp và Nghị định 102/CP về quản lý bản làng quy định là nhân dân chỉ được quyền bầu đại biểu theo Quốc hội và bầu chọn trưởng làng - cơ quan hành chính địa phương cấp thấp nhất. Còn chính quyền quản lý hành chính khác như cấp huyện, tỉnh đều do cấp trên chỉ định và bổ nhiệm. Như vậy làm thế nào bảo đảm thực hiện dân chủ với phương châm cam kết, bảo đảm, dân làm và dân kiểm tra công việc của nhà nước. Có thể có Hội đồng nhân dân cấp cơ sở ở cấp cơ bản - làng hoặc cấp huyện để gần gũi với nhân dân hơn hay không. Có nên tăng thêm đại biểu Quốc hội tính theo số huyện trên cả nước, tức mỗi một huyện ít nhất cũng phải có từ 1-2 đại biểu trở lên hay không. Có nên lấy cấp huyện làm đơn vị khu vực bầu cử sẽ hợp lý hơn hay không.
Vấn đề lớn hiện nay ở Lào là làm thế nào để cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan dân cử ngày càng sát với dân, hiểu được lòng dân, được dân tin tưởng và có khả năng, có điều kiện phục vụ nhân dân tốt nhất.
Hai là, thực hiện chế độ thủ trưởng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo tinh thần của Hiến pháp 1991, cách tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính CHDCND Lào được tổ chức theo chế độ thủ trưởng không có ủy ban nhân dân cùng cấp - người đứng đầu có quyền quyết định mọi công việc thuộc về trách nhiệm phạm vi quyền hạn của mình một cách tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Theo đó, Thủ tướng là người đứng đầu có quyền chỉ đạo, điều hành quyết định mọi công việc của Chính phủ nhằm xây dựng cơ quan hành chính nhà nước vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả để quản lý đất nước trong giai đoạn mới. Văn phòng Thủ trưởng là cơ quan tham mưu của Chính phủ, đồng thời là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cấp Trung ương, có quyền chỉ đạo văn phòng tỉnh trên cả nước. Các Bộ trưởng quản lý thi hành nhiệm vụ với tư cách là người đứng đầu các ngành chuyên môn, quản lý vĩ mô đối với các ngành trên cả nước. Tỉnh trưởng, Huyện trưởng là người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính địa phương có quyền quyết định mọi công việc thuộc trách nhiệm, quyền hạn của mình cả chiều dọc và chiều ngang quy hoạch xây dựng địa phương vững mạnh về mọi mặt. Văn phòng tỉnh trưởng làm tham mưu cho tỉnh trưởng, huyện trưởng điều hành công việc hàng ngày của tỉnh, huyện, cấp huyện chỉ đạo trực tiếp bản - làng, thực hiện nhiệm vụ xây dựng bản - làng vững mạnh về mọi mặt.
Cách làm này đã làm tăng thẩm quyền của cá nhân người đứng đầu- cả quyền lãnh đạo, quyền quản lý đều nằm trong tay một người và không còn có sự can thiệp giám sát của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân như trước đây nữa. Mọi công việc đều do người đứng đầu quyết định, cho nên làm cho công việc trôi chảy nhanh nhạy hơn. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào kiểm tra giám sát công việc của tỉnh trưởng, huyện trưởng. Bởi vì ban thanh tra kiểm tra cùng cấp theo chế độ, nguyên tắc vẫn là cơ quan dưới quyền thì khó có thể kiểm tra thanh tra cấp trên có địa vị cao hơn. Vậy nên tổ chức Ban kiểm tra - thanh tra như thế nào là hợp lý, có hiệu lực, hiệu quả là một vấn đề rất quan trọng đối với việc thực hiện chế độ thủ trưởng trong tổ chức hoạt động của bộ máy ở CHDCND Lào hiện nay.
Bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh tất nhiên là phụ thuộc rất nhiều vấn đề, nhưng việc thực hiện tốt công tác kiểm tra, thanh tra cũng không kém phần quan trọng. Trong lúc thiếu đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý cấp chủ chốt, có đủ năng lực cả tài, đức để giữ công việc chức vụ thủ trưởng với tinh thần trách nhiệm cao là rất cần thiết. Cho nên Đảng và Nhà nước phải luôn quan tâm coi việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức, phẩm chất năng lực cho cán bộ làm nhiệm vụ hàng đầu, bức xúc hiện nay cũng như tương lai mới có thể bảo đảm thực hiện tốt các chế độ thủ trưởng trong tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước. Và nếu không làm được như vậy thì xu hướng tình trạng quan liêu, độc đoán của bộ máy Nhà nước, chuyên quyền, tham ô, tham nhũng sự tha hóa của cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước là điều không thể tránh khỏi. Lịch sử tổ chức và hoạt động của nhà nước đã chứng minh rằng, quần chúng nhà nước cần được tập trung thì mới tập trung được trí tụê, tập trung các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Điều này thật là cần thiết, nhất là đối với những nước nghèo. Nhưng tập trung quyền lực không thể không đi cùng với kiểm tra và giám sát chặt chẽ quyền lực, bằng không quyền lực bị thoái hóa là không tránh khỏi. Trong điều kiện Lào hiện nay, tập trung và giám sát quyền lực nhà nước đều cần thiết, đều cấp bách như nhau. Xây dựng Nhà nước pháp quyền chủ yếu để giải bài toán này mà thôi.
Ba là, vấn đề xóa bỏ chính quyền cấp xã, tạo điều kiện để cấp bản - làng trực thuộc huyện:
Theo tinh thần Hiến pháp 1991, ở CHDCND Lào hiện nay đang chủ trương bước xóa bỏ chính quyền cấp xã để đưa cấp bản - làng trực thuộc huyện. Thực ra chính quyền cấp xã chỉ là cấp trung gian giữa huyện và bản - làng. Trên thực tế bản - làng chính là cấp chịu trách nhiệm gánh vác mọi công việc của bản - làng. Cho nên việc xây dựng chính quyền cấp bản làng vữgn mạnh là rất cần thiết và phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn mới mà Đảng, Nhà nước đề ra hiện nay. Bản làng là nơi tập chung sinh sống của cộng đồng dân cư, gồm nhiều tầng lớp, nhiều nghề nghiệp khác nhau là nơi có tổ chức thực hiện trực tiếp các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước thành hiện thực. Bản làng là địa bàn phức tạp giữ vị trí chiến lược đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng Do vậy, làng là đơn vị hành chính cấp thấp nhất để sát với dân hơn. Tuy nhiên, cán bộ bản, làng lại không phải nằm trong biên chế công chức nhà nước, nằm rải rác ở khắp mọi nơi trên cả nước thì việc sắp xếp lựa chọn cán bộ lãnh đạo quản lý bản - làng đang là vấn đề rất khó khăn.
Hàng trăm, hàng ngàn bản - làng ở vùng nông thôn sâu xa hẻo lánh, tìm được người biết đọc, biết viết cũng hiếm, chưa nói đến tìm cán bộ. Hơn nữa đường xá lại khó khăn, không thể xóa bỏ cấp xã và đưa bản làng lên trực thuộc một sớm, một chiều, cần phải thực hiện từng bước. Nếu nơi nào, vùng nào còn chưa có điều kiện, tạm thời giữ chính quyền cấp xã. Hiện nay riêng ở hai tỉnh Savănnakết và Sầm Nưa cũng vẫn còn 85 xã. Xóa bỏ chính quyền quản lý cấp xã nhằm làm cho chính quyền gọn nhẹ và có hiệu lực, hiệu quả hơn là một chủ trương đúng. Nhưng để xây dựng bản - làng vững mạnh về mọi mặt, vấn đề đặt ra là Đảng và Nhà nước phải có chính sách quy hoạch, lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trưởng làng, phó trưởng làng như thế nào để họ có thể gánh vác được việc của mình. ở những nơi khó khăn có thể điều động cán bộ Đảng, Nhà nước xuống cơ sở bản, làng làm công tác lãnh đạo quản lý bản làng tạo điều kiện cho cấp bản - làng từng bước trực thuộc huyện là một chủ trương đúng đắn, vấn đề là tổ chức thực hiện như thế nào cho có hiệu quả thiết thực - câu hỏi là ở chỗ này.
Bốn là, vấn đề thực hiện chế độ kiêm nghiệm (nhất thể hóa cán bộ Đảng và cán bộ nhà nước) trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Chế độ kiêm nhiệm - kiêm chức (nhất thể hóa chức vụ Đảng và chính quyền) trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với toàn xã hội, đồng thời phát huy vai trò, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý xã hội của Nhà nước. Khi nói đến chế độ kiêm nhiệm có nghĩa là trong tổ chức bộ máy nhà nước các cấp, các ngành, người đứng đầu như tỉnh trưởng, huyện trưởng, trưởng bản, trưởng làng, đồng thời là những người đứng đầu cấp ủy các cấp tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc