MỤC LỤC
CHƯƠNG I 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI 1
1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 1
1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 1
1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 4
1.2.1. Về chủ thể của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 4
1.2.2. Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 4
1.2.3. Về mục đích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 4
1.2.4. Về tính chất của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 5
1.2.5. Về mối quan hệ giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư 5
1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 6
1.3.1. Vai trò, ý nghĩa chung 6
1.3.2. Vai trò, ý nghĩa riêng đối với Việt Nam 9
2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 10
2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 10
2.2. Vai trò của pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 13
2.2.1. Pháp luật về ĐTTTRNN thừa nhận, định hướng và thúc đẩy các hoạt động ĐTTTRNN, qua đó là công cụ bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư 13
2.2.2. Pháp luật ĐTTTRNN là công cụ quản lý của nhà nước về ĐTTTRNN 14
2.2.3. Pháp luật ĐTTTRNN góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về đầu tư 14
2.3. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước trên thế giới 15
2.4. Khái lược sự hình thành và phát triển của pháp luật về ĐTTTRNN ở Việt Nam 18
CHƯƠNG II 22
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 22
1. Về chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 22
2. Về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 24
3. Về thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 25
4. Về hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 34
5. Về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 36
6. Về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 39
7. Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 43
CHƯƠNG III 44
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI 44
1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 44
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 50
kÕt luËn 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 4
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2101 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o kinh doanh, ghi nhận quyền ĐTRNN cho tất cả các loại hình DN, không phân biệt sở hữu, đã đăng ký theo Luật Doanh nghiệp mới hay chưa, kể cả các cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học và các hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam, phạm vi chủ thể ĐTTTRNN đã được mở rộng một cách đáng kể như sau:
- Một là, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp;
- Hai là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước chưa chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
- Ba là, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư;
- Bốn là, doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp;
- Năm là, hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
- Sáu là, cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các cơ sở dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
- Bảy là, hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam.
Quy định mới này đã củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy mọi tiềm năng kinh tế tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể kinh doanh, tạo ra sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
2. Về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Điều kiện ĐTTTRNN chính là thước đo cho chính sách khuyến khích ĐTTTRNN, cũng đồng thời phản ánh thái độ của nhà nước đối với hoạt động này. Tại NĐ 22 năm 1999 thái độ của nhà nước thể hiện rõ thông qua các điều kiện đối với nhà đầu tư để được ĐTRNN như sau:
- Một là, dự án ĐTRNN có tính khả thi;
- Hai là, có năng lực tài chính, đáp ứng yêu cầu ĐTRNN;
- Ba là, thực hiện đầu đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước.
Thực tiễn đã chứng minh các quy định trên chưa tạo điều kiện cho nhà ĐTRNN, vì pháp luật không hề giải thích rõ các tiêu chí của một dự án ĐTTTRNN được coi là có tính khả thi. Nên việc xem xét điều kiện này là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền, rất dễ dẫn đến tiêu cực. Như vậy với quy định này nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, tạo cơ hội cho một bộ phận cán bộ “biến chất” có điều kiện gây phiền phức cho nhà đầu tư. Nhà nước cần cho nhà đầu tư tự quyết định, tăng tính tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư. Do đó việc đặt ra điều kiện về “tính khả thi” là hoàn toàn không cần thiết.
DN Việt Nam được tiến hành ĐTTTRNN không chỉ đáp ứng điều kiện về tính khả thi của dự án, pháp luật còn yêu cầu DN đó có năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu ĐTRNN. Trong khi không hề có văn bản hướng dẫn cụ thể nào về tiêu chí “năng lực tài chính” của doanh nghiệp thế nào được coi là đáp ứng được yêu cầu ĐTRNN. Vì vậy, rõ ràng quy định này chưa tạo được tính thông thoáng cần thiết đối với hoạt động ĐTRNN của nhà nước ta thời điểm lúc bấy giờ. Sự cân nhắc có phần quá khắt khe và chặt chẽ trước khi quyết định đồng ý cho một DN Việt Nam tiến hành ĐTTTRNN đã tạo ra rào cản lớn đối với chính hoạt động này. Một doanh nghiệp mạnh dạn tiến hành ĐTRNN nhằm mở rộng thị trường tất yếu sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thử thách ở một môi trường cạnh tranh lớn hơn, tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn thì sự hỗ trợ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi từ phía nhà nước là hết sức cần thiết, nhưng những quy định này của pháp luật lại đặt ra quá nhiều cản trở, gây không ít khó khăn cho họ. Vì các quy định về “tính khả thi” và “năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu ĐTRNN” này đã dẫn tới hệ quả thời gian cấp phép bị kéo dài do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có đủ thời gian xem xét kỹ lưỡng về tính khả thi của dự án và khả năng tài chính của nhà đầu tư.
Khắc phục những hạn chế trên, hiện nay tại khoản 1 Điều 76 Luật đầu tư 2005 quy định các điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng khi tiến hành ĐTRNN theo hình thức ĐTTT là:
- Một là, có dự án ĐTRNN;
- Hai là, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam;
- Ba là, được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp giấy chứng nhận đầu tư.
NĐ 78 năm 2006 quy định về ĐTTTRNN đã cụ thể hoá các điều kiện trên tại Điều 4 như sau:
- Một là, có dự án ĐTTTRNN;
- Hai là, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam;
- Ba là, tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước đối với các trường hợp sử dụng vốn nhà nước để ĐTTRNN;
- Bốn là, được Bộ KH – ĐT cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Như vậy, Luật đầu tư đã có những quy định thông thoáng và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư ĐTTTRNN, các nhà đầu tư chỉ còn phải đáp ứng một số điều kiện mang tính chất nghĩa vụ dưới góc độ quản lý nhà nước và để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được hiệu quả.
3. Về thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Tại NĐ 22 năm 1999, một trong những rào cản lớn nhất mà pháp luật đặt ra đối với hoạt động ĐTTTRNN chính là các quy định về thủ tục ĐTTTRNN. Sau một thời gian thực hiện một số doanh nghiệp Việt Nam ĐTTTRNN liên tục phàn nàn thủ tục xin cấp phép cho dự án chuyển tiền ra và chuyển lợi nhuận về…chỗ nào cũng vướng. Trong khi đó, dự án thì không thể chậm trễ, nhiều doanh nghiệp đã nản lòng và ngậm ngùi mong chờ một sự thay đổi [22].
Thông tư số 05/2001/TT - BKH ngày 38/8/2001 của Bộ KH – ĐT về hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp đã quy định rõ thủ tục ĐTRNN được tiến hành theo 2 thủ tục là đăng ký cấp giấy phép đầu tư và thẩm định cấp giấy phép đầu tư.
* Thủ tục đăng ký cấp giấy phép đầu tư: áp dụng đối với các dự án ĐTRNN mà chủ đầu tư không thuộc thành phần kinh tế nhà nước và có vốn đầu tư dưới 1 triệu đô la Mỹ.
Doanh nghiệp phải lập hồ sơ dự án gửi Bộ KH - ĐT bao gồm các tài liệu sau:
- Đơn đăng ký ĐTRNN;
- Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp;
- Văn bản chấp thuận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư cấp (nếu có); hợp đồng bản thoả thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư;
- Báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp trong 1 năm gần nhất.
* Thủ tục thẩm định cấp giấy phép đầu tư: áp dụng đối với những dự án ĐTRNN của doanh nghiệp nhà nước không phân biệt quy mô và mục đích đầu tư và các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế khác có vốn đầu tư từ 1 triệu USD trở lên.
Doanh nghiệp phải lập hồ sơ dự án gửi Bộ KH - ĐT gồm các tài liệu sau:
- Đơn xin ĐTRNN;
- Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp;
- Giải trình về dự án đầu tư;
- Văn bản chấp thuận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư cấp: hợp đồng, bản thoả thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư;
- Văn bản chấp thuận ĐTRNN của cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp (là doanh nghiệp nhà nước) hoặc của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh (doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác).
Đối với những dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ, chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, Bộ KH - ĐT trình Thủ tướng Chính phủ ý kiến thẩm định kèm theo hồ sơ dự án và ý kiến của các Bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH - ĐT thông báo quyết định cho doanh nghiệp.
Đối với những dự án còn lại, sau khi nhận được ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan, Bộ KH - ĐT thông báo quyết định cho doanh nghiệp. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau, Bộ KH - ĐT trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định. Trường hợp đơn xin đầu tư được chấp thuận, Bộ KH - ĐT cấp giấy phép đầu tư cho doanh nghiệp và gửi bản sao đến các Bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan; trường hợp đơn xin đầu tư không được chấp thuận, Bộ KH - ĐT thông báo quyết định của mình cho doanh nghiệp và nêu rõ lý do. Thời hạn thẩm định cấp giấy phép ĐTRNN không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Khi triển khai thực hiện thủ tục đầu tư nói trên đã nhận được không ít sự phàn nàn từ các doanh nghiệp về tính phức tạp, rắc rối trong quy trình cấp phép đầu tư. Một số bài báo viết: “ông Văn Quang Cần, kế toán trưởng công ty TNHH hàng tiêu dùng Bình Tiên cho biết, công ty đã xúc tiến việc đầu tư sang Campuchia để mở rộng mạng lưới phân phối hàng hoá, với tổng vốn khoảng 300.000 USD. Tuy nhiên với khoảng thời gian xin cấp phép mất ít nhất là 6 tháng, công ty cũng đang có nhiều lo ngại. Ông Phạm Văn Thanh, giám đốc công ty nhựa Sài Gòn cũng cho biết, công ty đã đầu tư sang Lào để sản xuất đồ nhựa dân dụng với số vốn 1,5 triệu USD và đã hoạt động tại Lào được 3 tháng. Song, trước đây công ty cũng phải mất tới tròn 1 năm mới xin được giấy phép đầu tư” [17].
Luật Đầu tư 2005 và NĐ 78 năm 2006 ra đời đã đơn giản hoá, phù hợp với thực tiễn hoạt động của các DN Việt Nam hiện nay, mở rộng hơn loại hình ĐTRNN và giảm thiểu các thủ tục hành chính đã khắc phục được tính rườm rà và phức tạp can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại các quy định cũ.
Theo đó thủ tục để tiến hành ĐTRNN bao gồm các thủ tục:
Thủ tục cấp và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư.
Thủ tục triển khai dự án đầu tư.
Luật Đầu tư 2005 đã phân các dự án ĐTRNN thành 2 loại: dự án đăng ký đầu tư và dự án thẩm tra đầu tư. Theo đó nhà đầu tư để được cấp giấy chứng nhận ĐTRNN phải thực hiện theo 1 trong 2 trình tự tương ứng với mỗi loại dự án:
* Quy trình đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư: áp dụng đối với dự án đầu tư có quy mô vốn dưới 15 tỷ VNĐ.
Nhà đầu tư phải nộp cho Bộ KH - ĐT 3 bộ hồ sơ dự án đầu tư. Hồ sơ dự án đầu tư bao gồm các giấy tờ và tài liệu sau:
- Văn bản đăng ký dự án đầu tư;
- Bản sao có công chứng của: Giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc quyết định thành lập hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương đối với nhà đầu tư là tổ chức; hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân Việt Nam; hoặc Giấy phép đầu tư đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 nhưng không đăng ký lại theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp.
- Hợp đồng hoặc văn bản thoả thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc hợp tác đầu tư đối với dự án đầu tư có đối tác khác cùng tham gia đầu tư.
- Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông hoặc đại hội xã viên về việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với trường hợp nhà đầu tư là Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty hợp danh hoặc Công ty cổ phần hoặc hợp tác xã trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, hợp tác xã.
Sau khi nhận được hồ sơ, Bộ KH - ĐT sẽ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ, đề nghị nhà đầu tư giải trình về nội dung cần phải làm rõ. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ KH - ĐT cấp giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời sao gửi đến các Bộ, ngành liên quan. Trường hợp không được chấp thuận, Bộ phải có thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do gửi nhà đầu tư.
* Quy trình thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư: áp dụng đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ VNĐ trở lên. Nhà đầu tư phải nộp cho Bộ KH - ĐT 8 bộ hồ sơ dự án đầu tư. Hồ sơ dự án đầu tư bao gồm các giấy tờ và tài liệu sau:
- Văn bản đề nghị thẩm tra dự án đầu tư;
- Bản sao có công chứng của: Giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hoặc Giấy đăng ký kinh doanh hoặc quyết định thành lập hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương đối với nhà đầu tư là tổ chức; hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân Việt Nam; hoặc Giấy phép đầu tư đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cấp Giấy phép đầu tư trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 nhưng không đăng ký lại theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp.
- Văn bản giải trình về dự án đầu tư gồm các nội dung sau: mục tiêu đầu tư, địa điểm đầu tư, quy mô vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư, việc sử dụng lao động Việt Nam (nếu có); việc sử dụng nguyên liệu từ Việt Nam (nếu có); tiến độ thực hiện dự án đầu tư.
- Hợp đồng hoặc bản thoả thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc cùng hợp tác đầu tư đối với trường hợp có đối tác khác cùng tham gia đầu tư.
- Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông hoặc đại hội xã viên về việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với nhà đầu tư là Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty hợp danh hoặc Công ty cổ phần hoặc hợp tác xã trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, hợp tác xã.
Do tính chất, quy mô, mức độ đầu tư và sự ảnh hưởng của dự án đầu tư tới nền kinh tế đất nước mà pháp luật đặt ra các yêu cầu về hồ sơ dự án, nội dung cũng như quy trình của quá trình thẩm tra, cấp giấy chứng nhận đối với các dự án này là chặt chẽ hơn, thủ tục cấp phép phải trãi qua quá trình thẩm định mất nhiều thời gian hơn. Đòi hỏi sự cân nhắc kỹ càng và quyết định thật sự đúng đắn của các Bộ, ngành liên quan, UBND tỉnh nơi nhà đầu tư đặt trụ sở và đến cả sự can thiệp của Thủ tướng Chính phủ.
Quy định mới về hồ sơ dự án đầu tư cũng không còn yêu cầu về văn bản chấp thuận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư cấp, hợp đồng, bản thoả thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư và báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một năm gần nhất. Đây cũng được coi là 1 bước tiến nhằm tháo dỡ rào cản mà pháp luật đã từng đặt ra đối với hoạt động ĐTTTRNN trước đây. Khi nhà nước nhìn nó bớt khắt khe hơn và cố gắng tạo điều kiện để khuyến khích hoạt động này. Đồng thời cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp có thể chủ động và độc lập chịu trách nhiệm đối với quyết định và hành vi của mình, không trực tiếp can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh trong nội bộ của các nhà đầu tư về thủ tục.
NĐ78 năm 2006 cũng đã có những quy định cụ thể hơn về việc phân định thẩm quyền chấp thuận đối với các dự án đầu tư. Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ không chỉ dừng lại ở những dự án của doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc có vốn đầu tư của DN nhà nước có giá trị từ 1.000.000 đô la Mỹ trở lên mà thủ tướng Chính phủ còn có thẩm quyền chấp thuận đầu tư đối với các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, tài chính, tín dụng, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có sử dụng vốn nhà nước từ 150 tỷ đồng VN trở lên hoặc vốn của các thành phần kinh tế từ 300 tỷ đồng VN trở lên. Và các dự án đầu tư ngoài dự án trên mà có sử dụng vốn nhà nước từ 300 tỷ đồng VN trở lên hoặc vốn của các thành phần kinh tế từ 600 tỷ đồng VN trở lên.
Thủ tục ĐTRNN theo quy định mới được giao về 1 mối xem xét và cấp giấy chứng nhận đầu tư đó là Bộ KH - ĐT nhằm đơn giản hoá thủ tục hành chính và giảm thiểu tối đa sự can thiệp bằng cách lấy ý kiến các bộ ngành liên quan như trước kia.
Việc quy định đơn vị đồng tiền là đồng Việt Nam thay thế cho đô la Mỹ theo quy định cũ cũng có phần hợp lý hơn khi đồng đôla trong thời điểm hiện nay là hết sức bất ổn do tỷ giá hối đoái liên tục thay đổi [10].
Ngoài ra, NĐ 78 năm 2006 còn quy định về quy trình điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Khi nhà đầu tư đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư liên quan đến mục tiêu đầu tư, quy mô dự án đầu tư, vốn đầu tư, chủ đầu tư, nước tiếp nhận dự án đầu tư, thời hạn thực hiện dự án đầu tư mà có nhu cầu điều chỉnh. Theo đó, các quy định này so với quy định cũ tại Thông tư 05/2001/TT - BKH ngày 30/08/2001 đầy đủ hơn, đặt ra các yêu cầu chặt chẽ hơn, thể hiện rõ tính bắt buộc “phải đề nghị với Bộ KH - ĐT” khi có sự thay đổi mà không phải là “có thể đề nghị” như trước đây.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư thì việc triển khai dự án đầu tư là bước tất yếu tiếp theo của tất cả các nhà đầu tư. Pháp luật cũng đã có những quy định cụ thể và rõ ràng hơn về thủ tục tiến hành các hoạt động này.
Đầu tiên nhà đầu tư phải tiến hành thông báo thực hiện dự án đầu tư bằng văn bản gửi đến các Bộ, ngành có liên quan. Kể từ ngày được cấp chứng nhận đầu tư quá thời hạn 12 tháng mà dự án đầu tư không được nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận hoặc qua thời hạn 6 tháng kể từ ngày dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận mà dự án đầu tư không được triển khai thì nhà đầu tư phải có văn bản nêu rõ lý do và đề nghị kéo dài thời hạn triển khai dự án đầu tư hoặc đề nghị chấm dứt dự án đầu tư gửi Bộ KH - ĐT. Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng, trên thực tế thời gian để hoàn thành thủ tục đầu tư tại CHLB Nga thường mất khoảng 3 năm [16]. Như vậy, quy định về việc khống chế thời gian triển khai là 12 tháng với 2 lần gia hạn (mỗi lần 6 tháng) với các dự án ĐTRNN như thế này sẽ làm khó cho các doanh nghiệp khi bỏ vốn đầu tư vào thị trường LB Nga. Nên dễ thấy là quy định này vẫn đang có phần bất cập.
Hàng năm, trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư có văn bản báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư gửi đến các cơ quan, bộ, ngành liên quan.
Một trong những trở ngại gián tiếp cản trở con đường ĐTRNN của các doanh nghiệp trong các quy định trước kia là việc chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước. Theo quy định, lợi nhuận của các dự án đầu tư phải chuyển về nước chậm nhất là 6 tháng khi năm tài chính kết thúc, nhưng lại chưa có quy định rõ ràng lợi nhuận bao gồm cụ thể những gì. Chủ đầu tư Việt Nam muốn chuyển lợi nhuận thành vốn đầu tư tiếp để khỏi phải chuyển tiền đầu tư ra cũng không phải là chuyện đơn giản.
Việc chuyển tiền ra nước ngoài đã từng làm đau đầu không ít doanh nghiệp. Đại diện một doanh nghiệp cho biết, thường thì Ngân hàng “săm soi quá kỹ” nên việc chuyển tiền không phải lúc nào cũng đơn giản. Giám đốc một doanh nghiệp tâm sự: “tôi mong rằng NHNN nên có một quy định cụ thể đối với việc chuyển vốn ra nước ngoài, nhằm tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án. Nếu phải chờ đợi thủ tục quá lâu nhà đầu tư sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội hợp tác” [24].
NĐ 78 năm 2006 ra đời cùng với hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý ngoại hối, quy định về xuất khẩu và chuyển giao công nghệ đã một phần khắc phục đựơc những điểm bất cập này. Sự ra đời của Luật thuế xuất nhập khẩu và Pháp lệnh ngoại hối 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005 cùng với sự đầy đủ và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói chung, các quy định cũng ngày càng rõ ràng, hoàn thiện, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, thủ tục liên quan đến chuyển vốn ra nước ngoài, chuyển lợi nhuận về nước trở nên thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện đúng tiến độ, đúng kế hoạch. Một tín hiệu đáng mừng cho các nhà đầu tư là sự ra đời của Thông tư số 10/2006/TT - NHNN ngày 21/12/2006 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để ĐTTTRNN. Thông tư này được ban hành rất kịp thời, thoả mãn sự mong chờ của các nhà đầu tư cũng như các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vay vốn để ĐTRNN. Đó là một sự hỗ trợ thiết thực của nhà nước giúp nhà đầu tư Việt Nam vươn ra thị trường thế giới.
Về phê duyệt tái đầu tư cũng đã có những quy định đơn giản hoá thủ tục hành chính, đồng thời quy định rõ nghĩa vụ của nhà đầu tư trong trường hợp có nhu cầu tái đầu tư mà không phải là một quy định hết sức chung chung như tại Điều 14 NĐ 22 năm 1999 “nếu sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư ở nước ngoài phải được Bộ KH - ĐT chấp thuận và đăng ký với NHNN Việt Nam”.
Có thể nói sự ra đời của Luật đầu tư 2005 và NĐ 78 năm 2006 là một bước tiến mới khi đặt ra các quy định về thủ tục ĐTTTRNN đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên theo các DN Việt Nam, ĐTRNN hiện nay vẫn đang gặp nhiều khó khăn từ phía cơ quan quản lý nhà nước. Tập đoàn dầu khí quốc gia Petro Việt Nam, cơ quan có nhiều dự án ĐTRNN nhất để thăm dò, khai thác dầu khí cũng than phiền rằng họ vướng phải rất nhiều cơ chế, mà đặc biệt là thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài. Thông thường, khi muốn mua một mỏ dầu, Petro Việt Nam phải lập dự án, rồi chờ các cơ quan nhà nước phê duyệt, trong khi vẫn phải đàm phán với đối tác nước ngoài. Quá trình này tốn rất nhiều thời gian. “Chúng tôi muốn một mỏ dầu trị giá 100 triệu USD, thì phải xin phép nhiều cấp. Khi xong được thủ tục, giá của mỏ đó đã cao lên, hoặc công ty nước ngoài khác đã mua xong rồi. Thế là dự án không thành”, ông Đinh La Thăng, chủ tịch Petro Việt Nam nhận xét. Ông còn cho biết thêm: “Hành lang pháp lý của Việt Nam trong việc ĐTRNN nói chung và ngành dầu khí nói riêng còn quá chặt chẽ. Những trường hợp phải xin phép nhiều cấp, nhiều ngành, chúng tôi không có quyền quyết định” [17]. Đây cũng là vấn đề mà các nhà làm luật cần nghiên cứu kỹ, nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về ĐTRNN, không ngừng tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN phát triển.
Như vậy, Luật đầu tư 2005, NĐ 78 năm 2006 và mới đây nhất là Quyết định số 1175/2007/QĐ - BKH ngày 10/10/2007 hướng dẫn về thủ tục ĐTRNN, các quy định về thủ tục ĐTRNN của Việt Nam đã cụ thể và rõ ràng hơn, tạo được thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động xin cấp giấy chứng nhận và triển khai, tiến hành ĐTTTRNN. Thực tiễn đã chứng minh: lợi nhuận sẽ quyết định hướng của các nhà đầu tư chứ không phải các biện pháp hành chính. Vì vậy một yêu cầu đặt ra với các nhà làm luật là cần có những quy định cởi mở hơn theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho DN chứ không chỉ phục vụ quy hoạch của ngành, của Chính phủ.
4. Về hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Pháp luật về đầu tư của các nước thừa nhận một số hình thức đầu tư phổ biến sau [29]:
- Doanh nghiệp liên doanh: Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của ĐTTTRNN trên thế giới từ trước đến nay. Nó là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác. Giúp nhà đầu tư tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại; thâm nhập được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ, đồng thời chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: DN 100% vốn nước ngoài cũng là hình thức được nhiều nhà đầu tư lựa chọn nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hoá ở mức độ cạnh tranh…Ưu điểm dễ nhận thấy của hình thức này là nhà đầu tư chủ động trong quản lý điều hành, triển khai nhanh dự án và được quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển chung của doanh nghiệp.
- Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp tác kinh doanh: Đây là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.
- Đầu tư theo hợp đồng BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao): Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà thường do Chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành DN sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho Chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
- Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con: Đây là một trong những mô hình tổ chức quản lý được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
- Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài: Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở chỗ chi nhánh không đuợc coi là một pháp nhân độc lập trong khi công ty con là một pháp nhân độc lập nên việc thành lập chi nhánh đơn giản hơn vì chỉ phải thông qua đăng ký tại các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại.
- Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập: Đây là hình thức đầu tư có yêu cầu cao về năng lực tài chính. Tuy nhiên lại được đánh giá là hình thức phù hợp nhất với hoạt động ĐTTTRNN của các quốc gia đang phát triển như nước ta.
Pháp luật về ĐTTTRNN ở Việt Nam không có quy định trực tiếp nào về hình thức đầu tư, song về nguyên tắc pháp luật Việt Nam cho phép ĐTTTRNN dưới các hình thức:
- Một là, đầu tư thành lập một tổ chức kinh tế mới dưới dạng thành lập một doanh nghiệp 1 chủ (độc doanh) hoặc thành lập công ty (liên doanh);
- Hai là, đầu tư thông qua hoạt động hợp tác kinh doanh với các đối tác của nước tiếp nhận khác (hợp doanh);
- Ba là, mua cổ phần, góp vốn để trực tiếp tham gia quản lý và điều hành các doanh nghiệp tại nước tiếp nhận đầu tư;
- Bốn là, thực hiện các hoạt động sáp nhập, mua lại các doanh nghiệp của nước sở tại;
Mỗi hình thức đầu tư có những ưu nhược điểm riêng và áp dụng trong các trường hợp khác nhau. Trong đó hình thức mua lại và sá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (24).doc