MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI 10
1.1. Quan điểm phát triển con người trong lịch sử triết học trước Mác 10
1.2. Quan điểm phát triển con người trong triết học Mác - Lênin 15
1.3 Quan điểm phát triển con người của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) 22
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 39
2.1. Thực trạng phát triển con người ở Việt Nam hiện nay 39
2.2. Một số giải pháp cơ bản để phát triển con người ở Việt Nam hiện nay 63
KẾT LUẬN 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2945 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn đó, nó được thể hiện bằng một con số từ 0 đến 1. Do tỷ lệ người biết chữ của người trưởng thành tối thiểu là 0%, tối đa là 100%, điểm của trình độ hiểu biết đối với một quốc gia có tỷ lệ người biết chữ 75% sẽ là 0,75. Tương tự như vậy, tuổi thọ tối thiểu là 25 và tối đa là 85 năm, do đó, một quốc gia có tuổi thọ trung bình là 55 năm có số điểm sẽ là 0,5. Đối với thu nhập, mức tối thiểu là 100 USD và tối đa là 40.000 USD (theo phương pháp sức mua tương đương - PPP). Mức thu nhập cao hơn mức trung bình của thế giới được điều chỉnh theo phương pháp chiết khấu gia tăng. Chỉ số tổng hợp sẽ là giá trị trung bình của các điểm số của ba yếu tố trên.
Tuy nhiên, như chúng ta thấy, HDI còn là một chỉ số tương đối đơn giản, không phản ánh hết tính phong phú, đến tất cả các khía cạnh của sự phát triển con người. Nó mới quan tâm đến ba khía cạnh của đời sống con người (thu nhập, giáo dục và tuổi thọ), do đó, nó chưa đầy đủ và còn bỏ qua khá nhiều khía cạnh có liên quan đến chất lượng sống của con người như chính trị, văn hóa, môi trường sống, an ninh xã hội… Cũng giống như GDP, HDI chỉ là chỉ số đánh giá trung bình, nên nó che lấp các khía cạnh, hay nói chính xác hơn, nó không đề cập được đến đầy đủ các khía cạnh như: sự bất bình đẳng, sự phân chia giữa các vùng, miền, dân tộc, giới tính...
HDI mới chỉ là một phương pháp đo mang tính định lượng với những chỉ số giản đơn chứ chưa đề cập được đến các yếu tố về chất lượng, sự khác biệt về trình độ giữa các quốc gia, khu vực. Ví dụ: trình độ giáo dục thực ra không chỉ thể hiện bằng tỉ lệ biết chữ hay số năm đi học mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như chất lượng giáo dục, khả năng và cơ hội của người học, đặc biệt là người học ở giáo dục bậc cao. Ngay cả nếu xác định về tỷ lệ người đi học hay người biết chữ đến trình độ nào thì đã có sự khác biệt giữa các vùng, miền, dân tộc, các nhóm người trong một quốc gia chứ chưa nói đến sự khác biệt giữa các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau.
Hay ở khía cạnh thu nhập quốc dân chẳng hạn, ta thấy sự khập khiễng giữa các vùng, các quốc gia, cho nên khó có thể khẳng định thu nhập ở quốc gia này thấp mà đời sống vật chất của con người không đảm bảo, hay ở nước mà thu nhập cao chưa hẳn đã đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu về mặt vật chất, giáo dục, hay y tế… Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: đời sống kinh tế của khu vực, quốc gia đó, vào sự công bằng xã hội, an ninh xã hội, vào sự quan tâm vào con người đến mức nào của chính phủ các quốc gia…
HDI là chỉ số đánh giá trình độ phát triển con người bằng phép tính trung bình của ba chỉ số: thu nhập, giáo dục và tuổi thọ. Điều này có nghĩa, nếu như một trong ba chỉ số này biến đổi thì nó cũng làm cho biến đổi giá trị chỉ số HDI. Nếu xem xét sự tiến bộ đạt được trong phát triển con người mà chỉ căn cứ vào phép tính trung bình của 3 chỉ số này sẽ khập khiễng, không chính xác. Khi đánh giá những thành tựu về phát triển con người của các quốc gia, đòi hỏi, phải xem xét mức đầu tư của các quốc gia cho giáo dục, y tế và các khía cạnh khác cho con người đạt được hiệu quả như thế nào. Thực tế, nhiều quốc gia có thu nhập quốc dân cao nhưng số người đi học ít, hay việc chăm sóc sức khỏe của người dân không được quan tâm, hay ngược lại có quốc gia thu nhập quốc dân thấp nhưng chỉ số về tuổi thọ hay giáo dục lại cao… Vì vậy, việc xếp hạng chỉ số phát triển con người giữa các quốc gia trên thế giới dù có đánh giá được sự phát triển, song nó chỉ mang tính tương đối.
Để đánh giá sự phát triển con người thực ra phải cần rất nhiều tiêu chí, bởi sự phát triển con người là sự phát triển, nâng cao về mọi mặt của đời sống con người, nó do nhiều yếu tố tác động. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá sự phát triển con người cần phải xem xét tất cả các mặt trong mối quan hệ tương tác với nhau, bởi sự phát triển về kinh tế chưa hẳn đã tương đồng với sự phát triển về văn hóa và hơn nữa, các mặt của đời sống xã hội như chính trị, văn hóa, dân tộc… trong xã hội là không đồng đều nhau, chưa hẳn các nước có nền kinh tế phát triển cao mà đời sống văn hóa con người đã được nâng lên, hay sự mất ổn định chính trị, xã hội, sự phân biệt chủng tộc… cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của con người. Chỉ số HDI vẫn chưa thể đánh giá một cách toàn diện trình độ phát triển con người ở từng quốc gia trên thế giới cũng như để so sánh trình độ phát triển con người giữa các quốc gia với nhau.
Tuy nhiên, HDI là thước đo tương đối tổng hợp, với tính ưu việt của nó, công cụ này đã vượt qua khỏi khía cạnh kinh tế thuần túy về sự phát triển xã hội, bổ sung cho thước đo GDP mặc dù là quan trọng nhưng còn phiến diện và sai lệch. Có thể nói, với công cụ HDI, việc đánh giá về thành tựu phát triển kinh tế, xã hội trở nên toàn diện hơn và phản ánh chân thực hơn về mục tiêu phát triển của các quốc gia. Theo thời gian, HDI không chỉ phản ánh trạng thái và những tiến bộ về phát triển con người, mà còn là căn cứ để đảng và nhà nước các quốc gia lựa chọn và đề ra mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế, xã hội.
Đặc biệt, trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, thì phát triển con người là một yêu cầu cơ bản và lâu dài cho tất cả các quốc gia và cả nhân loại nói chung. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi phải có một mặt bằng chung về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… Nếu không nâng cao trình độ về mọi mặt cho tất cả mọi người thì quá trình hội nhập, toàn cầu hóa sẽ vì lợi ích của một nhóm người giàu có, sự hội nhập sẽ không thể đảm bảo sự vững chắc trong một thế giới năng động như hiện nay, sẽ không đảm bảo được sự tiến bộ chung trong quá trình lịch sử nhân loại. Vì vậy, HDI đến nay được coi là bộ công cụ hữu hiệu nhất để đánh giá trình độ phát triển con người của các quốc gia, để từ đó, các quốc gia tự đánh giá trình độ phát triển của nước mình và xây dựng những chính sách, chiến lược phát triển con người cho phù hợp với sự phát triển, tiến bộ chung của nhân loại.
Sự phát triển con người bao hàm rất nhiều khía cạnh, khi đánh giá sự phát triển đó cần phải tính đến đầy đủ các yếu tố của nó. Để khắc phục những hạn chế của công cụ HDI trong việc vận dụng nó vào đánh giá trình độ phát triển con người ở các quốc gia trên thế giới, UNDP sử dụng các HDI chi tiết như: GEM - Số đo quyền lực giới tính; GDI - Chỉ số phát triển giới tính; HPI - Chỉ số nghèo khổ… như là sự bổ sung cho việc đánh giá trình độ phát triển con người ở các quốc gia.
Một trong những điều kiện phát triển con người là phải đảm bảo sự công bằng, xóa bỏ sự bất bình đẳng về giới, đây là một trong những khía cạnh mà UNDP quan tâm. Theo thống kê, hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ở châu á, châu Phi, phụ nữ thường chịu thiệt thòi hơn so với nam giới trong việc tiếp cận với các cơ hội trong xã hội và nâng cao năng lực phát triển của mình. Phụ nữ thường có ít quyền hành hơn, họ ít được nghỉ ngơi, hưởng thụ hơn, ít được tham gia vào xã hội hơn… Họ phải lao động, cống hiến nhiều hơn so với nam giới. Họ có vai trò rất to lớn trong việc phát triển con người, đó là việc việc nuôi dạy con cái, quản lý, chăm sóc các thành viên trong gia đình… Tuy nhiên, các hoạt động này thường không được đánh giá một cách đúng đắn. Vì vậy, đòi hỏi phải đảm bảo sự bình đẳng cho quá trình phát triển con người. Để đánh giá sự bình đẳng đó, UNDP sử dụng Chỉ số phát triển giới tính (Gender Development Index - GDI) và Số đo quyền lực giới tính (Gender Empowerment Measure - GEM). GDI cũng xem xét các yếu tố phản ánh sự phát triển con người như sức khỏe, giáo dục, thu nhập, nhưng nó gắn với sự bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới để đánh giá. HDI sẽ bị chiết khấu đi khi có sự chênh lệch về giới tính, nếu mức độ sự bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới càng cao thì sự chênh lệch giữa HDI và GDI càng lớn. GDI muốn đánh giá sự mở rộng năng lực giữa nữ giới và nam giới, còn GEM đánh giá mức độ tham gia của nữ giới vào các quá trình của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa. Nó phản ánh sự tiến bộ trong quá trình giải phóng phụ nữ hiện nay. Tuy nhiên, để đánh giá được các khía cạnh này là vấn đề rất phức tạp, không phải lúc nào các quốc gia cũng làm được, vả lại việc đánh giá nó cũng mang tính tương đối cao.
Một nội dung có thể gọi là quan trọng bậc nhất trong chiến lược phát triển con người của UNDP là vấn đề xóa đói, giảm nghèo, nhằm đảm bảo các nhu cầu tối thiểu cho số đông người dân trong xã hội đang rơi vào tình trạng nghèo đói (đặc biệt là đối với các nước chậm và đang phát triển), họ là những người ít được hưởng lợi nhất trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. Chỉ số nghèo khổ tổng hợp (Human Poverty Index - HPI) là thước đo đánh giá những kết quả đạt được trên lĩnh vực này. Quan niệm về nghèo khổ theo UNDP không chỉ là sự đói kém về lương thực, thực phẩm, tính theo thu nhập, mà chỉ số HPI được xây dựng trên ba yếu tố của HDI phản ánh theo mức độ nghèo đói về phương diện năng lực của con người: đó là tuổi thọ, đo bằng tỷ lệ người chết trước 40 tuổi, kiến thức đo bằng tỷ lệ số người trưởng thành mù chữ, mức sống được tính trên cơ sở tổng hợp các yếu tố như tỉ lệ số người có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản, tỷ lệ người dân dùng nước sạch và tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng.
Như vậy, việc sử dụng các HDI chi tiết ở phạm vi quốc gia và dưới cấp quốc gia nằm chỉ ra sự bất bình đẳng và sự chênh lệch giữa các vùng, giới tính, giữa các khu vực thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân tộc. Sử dụng các HDI chi tiết sẽ giúp các quốc gia, các tỉnh, thành phố xác định đường lối, chính sách và thực hiện nhằm khắc phục sự bất bình đẳng và sự chênh lệch về trình độ phát triển mọi mặt của xã hội.
Để đánh giá trình độ phát triển con người, xây dựng bức tranh chung cho quá trình phát triển con người, UNDP đã bổ sung các chỉ tiêu đánh giá từng khía cạnh cụ thể hơn của đời sống như vấn đề môi trường, văn hóa, ổn định chính trị, tệ nạn xã hội… những tiêu chí này cho phép bổ sung và phối hợp với các tiêu chí khác sẽ đảm bảo đánh giá một cách khá toàn diện về sự phát triển con người ở các quốc gia.
Kết luận chương 1
Vấn đề giải phóng, phát triển con người được nhiều nhà triết học trước C.Mác và các nhà triết học hiện đại bàn đến, song do hạn chế bởi lịch sử, bởi lập trường giai cấp, vấn đề này chưa được xem xét với tính cách như là nhu cầu của thực tiễn phát triển con người, chưa được xem xét với tính cách là mục tiêu của mà nhân loại tiến bộ cần hướng tới. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, đặt con người vào vị trí trung tâm trong học thuyết của mình, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cần phải khắc phục mọi sự tha hóa con người, giải phóng họ khỏi mọi sự áp bức, bóc lột của chế độ tư bản. Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển con người. Muốn thực hiện được mục tiêu giải phóng, phát triển con người, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản, lật đổ chế độ tư bản, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện và phát huy vai trò làm chủ cho con người. Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là xây dựng chế độ xã hội cho nhân dân lao động vì sự phát triển lâu dài của chính bản thân con người về mặt cá nhân cũng như về mặt xã hội. Mặc dù, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh, song, vấn đề phát triển con người đã được các ông xem như là mục tiêu cao nhất của xã hội cộng sản.
Với việc lấy con người là trung tâm của mọi sự phát triển, các chuyên gia của UNDP đã xây dựng một quan niệm mới về phát triển con người một cách chi tiết, mang tính hệ thống, phát triển con người là sự mở rộng các cơ hội lựa chọn cho con người và phát huy năng lực của con người trong xã hội. Chương trình này đã lấy phát triển con người làm thước đo đánh giá tiến bộ xã hội, là mục tiêu tối thượng của xã hội và của nhân loại hướng tới. Có thể nói, quan niệm phát triển con người của UNDP đã được nhận thức một cách khá cụ thể, với bộ công cụ HDI, nó đã mở ra một bước ngoặt trong nhận thức đánh giá sự phát triển con người, là thước đo đánh giá những giá trị mà nhân loại đạt được trong thời đại ngày nay.
Với việc nhận thức và bằng những chương trình hành động của mình, UNDP đã có nhiều đề xuất cho chính phủ các quốc gia trên thế giới trong việc đề ra các chính sách phát triển con người. Có thể coi những quan niệm về phát triển con người của UNDP là một sự nhận thức mới về phát triển con người trong thời đại mới với những giá trị tiến bộ mang tính toàn cầu rõ rệt. Những quan điểm này là cơ sở lý luận, là công cụ cho các quốc gia trên thế giới nhận thức và điều chỉnh đường lối chính sách của mình, đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả, bền vững theo chiều tiến bộ vì sự phát triển của con người trong quốc gia mình và của nhân loại nói chung.
Chương 2
Thực trạng phát triển con người và một số giải pháp cơ bản để phát triển con người ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng phát triển con người ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển con người
2.1.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển con người trước thời kỳ đổi mới
Ngay từ khi mới ra đời, mặc dù phải đặt nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc, phong kiến giành độc lập cho dân tộc, Đảng ta vẫn đã đề ra mục tiêu giải phóng, phát triển con người. Trong "Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt", Đảng ta xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản" với mục tiêu là "làm cho nước An Nam được độc lập", con người được giải phóng, "đem lại quyền tự do cho con người"…
Nhận thức được mục tiêu lâu dài, mục tiêu cuối cùng của cách mạng là giải phóng con người, quan niệm của Đảng về giải phóng, phát triển con người được thể hiện trong các văn kiện đại hội qua các thời kỳ. Tất nhiên, khái niệm về phát triển con người chưa được Đảng nói tới, song nội hàm của khái niệm này đã được thể hiện trong quan điểm, đặc biệt trong quá trình chỉ đạo thực hiện, hành động của Đảng và Nhà nước trong các thời kỳ cách mạng.
Trong Bản "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chủ tịch đã khẳng định một quan điểm bất hủ về giải phóng con người với tính cách là điều kiện cho sự phát triển con người: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [28, tr. 555].
Ngay sau khi Đảng và nhân dân giành được chính quyền, mặc dù, bộ máy chính quyền non trẻ vừa mới được ra đời đã phải đối mặt với nhiều kẻ thù, còn trong vòng vây của đế quốc, thực dân, Đảng và Bác Hồ đã nhận thức và xác định vai trò và mục tiêu của giải phóng và phát triển con người. Năm 1945, Chính phủ đã ban bố và thi hành nhiều sắc lệnh về giáo dục (phong trào bình dân học vụ) về y tế, về văn hóa, về khắc phục tình trạng đói nghèo… đã tạo điều kiện, "cơ hội" phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời nâng cao đời sống mọi mặt để nhân dân có đủ năng lực để tham gia vào cải tạo, xây dựng nền kinh tế, xã hội mới nhằm nâng cao đời sống của mình.
Vì vậy, điều quan trọng nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, là cơ sở để giải phóng, phát triển con người; việc thực hiện nhiệm vụ kiến quốc, một mặt, để phát huy lực lượng tổng hợp, tạo sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm lược, mặt khác nhằm mục tiêu cải thiện đời sống nhân dân. Để thực hiện được nhiệm vụ cải thiện đời sống nhân dân trước tiên phải phát triển kinh tế ở các địa phương, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; phải tiến hành cuộc cải cách ruộng đất, đưa ruộng đất về tay nhân dân ("thổ địa cách mạng"), thực hiện quốc hữu hóa các doanh nghiệp, đưa nhân dân trở thành người chủ về mặt kinh tế.
Cùng với việc cải tạo và xây dựng đời sống vật chất cho nhân dân, Đảng tiến hành cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng; nhiệm vụ chủ yếu của nó là nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần cho nhân dân, đó là một nền văn hóa mang tính "dân tộc, khoa học và đại chúng", tức là một nền văn hóa hiện đại trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị của văn hóa truyền thống, đó là nền văn hóa lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, mang bản chất của giai cấp công nhân, một nền văn hóa của nhân dân do nhân dân và vì sự giải phóng của nhân dân lao động nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân lao động.
Trong thời kỳ đất nước bị chia cắt làm hai miền, ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành ba cuộc cách mạng (cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng văn hóa). Tư tưởng tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng đó nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng quan hệ sản xuất mới và nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu cao nhất của các cuộc cách mạng đó là giải phóng nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giải phóng con người là do chính nhân dân thực hiện, là sự nghiệp lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kế thừa và phát triển quan điểm này, Đảng ta cho rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải "xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa", phát huy quyền làm chủ tập thể, đây là một nội dung quan trọng để nâng cao vị trí, phát huy vai trò của nhân dân lao động trong sự nghiệp giải phóng con người. Một khi, quyền làm chủ của nhân dân đã được thực hiện, sẽ là cơ sở cho việc nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân và thông qua đó, vai trò của nhân dân ngày càng được nâng cao, trở thành động lực cho sự phát triển của chính bản thân họ. Như vậy, phát huy quyền làm chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp giải phóng, phát triển con người xã hội chủ nghĩa.
Đảng và Bác Hồ xác định, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội của con người, do con người và vì con người, vì sự phát triển của chính bản thân con người. Mục đích của cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là: "Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" [29, tr. 271]. Vì vậy, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất trong công cuộc giải phóng đất nước. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, một mặt, nhằm cung cấp sức người, sức của cho giải phóng miền Nam, song mặt khác, mục tiêu cao nhất của cách mạng miền Bắc là xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân lao động, tức là giải phóng và phát triển con người. Chế độ dân chủ mới bắt đầu được phát, những điều kiện sinh hoạt trong đời sống xã hội được mở rộng, nhân dân tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước,
Để thực hiện được mục tiêu đó, phải "xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xỏa bỏ chế độ người áp bức bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu" [7, tr. 67]
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã quan tâm đến vấn đề con người, đến sự nghiệp xây dựng và phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó được thể hiện nay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, được thể hiện trong các văn kiện và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng trong các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, ngay sau khi Đảng và nhân dân giành được chính quyền, mặc dù còn vô vàn khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn đặt ưu tiên cho phát triển con người bằng các sắc lệnh, chương trình lương thực, giáo dục, văn hóa, xã hội… Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, tư tưởng tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng là nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu cao nhất là đưa nhân dân trở thành người chủ xã hội, giải phóng và phát triển con người toàn diện con người. Tuy nhiên, trong thời kỳ từ 1975 - 1985, do kéo dài quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, quá nhấn mạnh mặt xã hội của con người nên đã không tạo đầy đủ các điều kiện, cũng như không phát huy đầy đủ khả năng của con người trong xã hội.
2.1.1.2. Quan niệm của Đảng ta về phát triển con người trong thời kỳ đổi
Đại hội VI của Đảng mở ra đường lối đổi mới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, thay đổi những nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó vấn đề con người luôn là sự quan tâm của Đảng, những chính sách xã hội nhằm phát huy vai trò của con người, chính sách xây dựng và đào tạo con người được thể hiện ngày càng sâu sắc hơn.
Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa đa dạng về hình thức sở hữu đã giải phóng được sức sản xuất của xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo điều kiện để phát huy sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, từ đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động.
Tư tưởng phát triển con người được Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta khẳng định, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội "do nhân dân lao động làm chủ", "Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân" [10, tr. 9]. Quan niệm về phát triển con người của Đảng trong thời kỳ này không chỉ bao gồm khía cạnh về những điều kiện cho phát triển con người, tạo những cơ hội cho con người phát triển mà còn bao gồm mặt thứ hai của phát triển con người, đó là nâng cao năng lực cho con người trong xã hội, có nghĩa là xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội mà con người có đủ các điều kiện để phát triển và nhằm mục tiêu giải phóng xã hội, "phát triển toàn diện" con người. Quan niệm này được coi là cơ sở cho Đảng, Nhà nước, các cơ quan đoàn thể và nhân dân nhận thức mục tiêu cao cả mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc về mục tiêu phát triển con người trong thời đại mới.
Đảng ta xác định, con người là động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội là vì con người, vì sự giải phóng và phát triển của chính bản thân con người. Vì vậy, nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nằm mục tiêu cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ môi trường sinh thái, xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng xã hội, nâng cao đời sống văn hóa, giáo dục, y tế cho nhân dân
Đặt con người vào vị trí trung tâm, phát triển con người là mục tiêu của Đảng, Nhà nước và của xã hội nói chung, mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều tập trung vào mục tiêu phát triển toàn diện con người xét cả về mặt cá nhân cũng như về mặt xã hội. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta khẳng định: "Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người, là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội" [10, tr. 13]
Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn nước ta, Hồ Chủ tịch cho rằng: "Muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải xây dựng con người xã hội chủ nghĩa". Con người xã hội chủ nghĩa ở đây là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì "nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính dân tộc Việt Nam" [12, tr. 93]. Ngược lại, muốn có con người xã hội chủ nghĩa thì quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý đến đào tạo, xây dựng con người, phải quan tâm đến "đầu tư cho con người", với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người dân, mỗi gia đình. Tuy nhiên, việc đầu tư đó không chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà phải chú ý đến tương lai, tức thế hệ mai sau. Có như vậy, mới đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững, sự phát triển ngày hôm nay mới tạo đà cho sự phát triển trong tương lai.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột, bất công, thực hiện sự công bằng bình đẳng, hạnh phúc và văn minh cho con người, trong đó sự công bằng, bình đẳng là mục tiêu đồng thời là động lực cho sự phát triển con người. Vì vậy, tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình [11, tr. 113].
Đây là một quan điểm đánh giá rất toàn diện về sự phát triển con người, nó bao hàm cả khía cạnh tạo những điều kiện xã hội cho con người phát triển, bao hàm cả khía cạnh nâng cao "năng lực", vai trò của con người trong xã hội với tính cách phát triển con người là vì con người và do con người thực hiện, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo đảm bảo cho sự phát triển bền vững, toàn diện cho con n