Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 2

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2

2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 2

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 3

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 3

5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN 3

CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 4

1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 4

1.1.1 Khái niệm trọng tài thương mại 4

1.1.2 Đặc điểm của trọng tài thương mại 4

1.1.3 Phân loại trọng tài thương mại 5

1.1.4 Vai trò của trọng tài thương mại 6

1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI 6

1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài 6

1.2.1.1 Sự hình thành và phát triển của trọng tài trước khi có Luật trọng tài thương mại 2010 7

1.2.1.1.1 Giai đoạn trước khi Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 có hiệu lực 7

1.2.1.1.2 Giai đoạn từ khi Pháp lệnh trọng tài thương mại có hiệu lực: 8

1.2.1.2 Sự hình thành và phát triển của trọng tài từ khi Luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực cho đến nay: 9

1.2.2 Khái niệm và ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài: 10

1.2.2.1 Khái niệm phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại: 10

1.2.2.2 Ưu điểm của phươnng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại: 11

1.3 KHÁI QUÁT VỀ SỰ HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 12

1.3.1 Khái niệm hỗ trợ tư pháp 12

1.3.2 Sự hỗ trợ đối với hoạt động của trọng tài thương mại 12

1.3.3 Sự cần thiết phải hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại 12

1.3.3.1 Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Cơ quan tư pháp 12

1.3.3.1.1 Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Tòa án 12

1.3.3.1.2 Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Cơ quan thi hành án 13

1.3.3.2 Vai trò của Cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại 14

1.3.3.2.1 Vai trò của Tòa án 14

1.3.3.2.2 Vai trò của Cơ quan thi hành án 14

1.4 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 15

 

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3749 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọng tài Ad-hoc sẽ tự giải tán. Trọng tài quy chế (trọng tài thường trực): là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường xuyên, có điều lệ, có quy tắc tố tụng riêng, có bản danh sách trọng tài viên. Cả hai điều được thành lập để giải quyết các tranh chấp mà các bên thỏa thuận lựa chọn và trong những lĩnh vực pháp luật cho phép (hoặc không cấm) đều là tổ chức phi chính phủ (không có tính chất quyền lực nhà nước). Giữa chúng có các điểm khác nhau cơ bản sau: - Về mặt thời gian: trọng tài thường trực hoạt động thường xuyên, trong khi đó trọng tài sự việc chỉ được các bên thành lập để giải quyết một tranh chấp nhất định và khi giải quyết xong thì chấm dứt hoạt động. - Về quy chế tổ chức và hoạt động: trọng tài thường trực có quy chế tổ chức và hoạt động định sẵn (các bên tranh chấp không có quyền tham gia xây dựng, sửa đổi) trong khi đó quy tắc thành lập và hoạt động của trọng tài vụ việc do các bên xây dựng. - Về quy tắc tố tụng: trọng tài thường trực có quy tắc tố tụng riêng của mình (đối với một số tổ chức trọng tài thường trực, khi các bên lựa chọn các tổ chức này thì có nghĩa là các bên chọn quy tắc tố tụng của tổ chức đó, đối với một số tổ chức khác, các bên có thể lựa chọn các quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài thường trực khác) trong khi đó trọng tài sự việc không có quy tắc tố tụng định sẵn mà các bên phải thỏa thuận xây dựng (có thể thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng của trọng tài thường trực nào đó để áp dụng thay cho việc xây dựng). - Về đội ngũ trọng tài: trọng tài thường trực có sẵn đội ngũ trọng tài viên để các bên lựa chọn, còn trọng tài sự việc không có (các bên phải thỏa thuận trên cơ sở phù hợp với pháp luật). Vai trò của trọng tài thương mại Trong kinh doanh, không một doanh nghiệp, cá nhân nào không muốn đạt được lợi nhuận cao nhất, cùng với sự đồi hỏi về giữ bí mật kinh doanh, vấn đề giải quyết tranh chấp diễn ra phải nhanh chóng và tiết kiệm chi phí nhất. Do đó, trọng tài là một phương thức giải quyết tối ưu mà họ có thể lựa chọn. Bên bên cạnh đó trọng tài góp phần làm giảm tải công việc cho Tòa án khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển thì các tranh chấp xảy ra ngày càng phổ biến. Sự ra đời của trọng tài thương mại là một tất yếu trong việc đa dạng hoá các cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong vấn đề kinh tế. Theo đó, các nước trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, ngoài Toà án, đều có một cơ quan tài phán khác là trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại giúp giải quyết nhanh gọn và hiệu quả các tranh chấp góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong mỗi quốc gia, và trên phạm vi quốc tế. Ở nước ta hiện nay, việc mở rộng khả năng, cơ hội cho các nhà sản xuất kinh doanhthì việc sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội. Khái quát chung về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài Lịch sử hình thành và phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài Sự hình thành và phát triển của trọng tài trước khi có Luật trọng tài thương mại 2010 Giai đoạn trước khi PLTTTM 2003 có hiệu lực Trước khi có PLTTTM 2003, ở Việt Nam tồn tại hai loại hình trọng tài, bao gồm trọng tài kinh tế nhà nước và trọng tài phi Chính phủ. Đối với trọng tài kinh tế nhà nước Trọng tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài do Nhà nước lập ra, có có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước Ths. Vũ Ánh Dương: Dự án Luật trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, trang tin Tạp chí nghiên cứu lập pháp: . Như vậy, thực chất, trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước. Mô hình này được hình thành đầu tiên bằng Nghị định số 20/TTg Nghị định 20/TTg ngày 14 tháng 4 năm 1960 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tê nhà nước. ngày 14/4/1960. Sau đó, được nâng lên bằng Pháp lệnh trọng tài kinh tế nhà nước năm 1990 Pháp lệnh trọng tài kinh tế nhà nước , theo đó, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh và trọng tài kinh tế huyện. Mô hình này tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống Tòa án kinh tế theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Tòa án năm 1993 Luật tổ chức Tòa án . Bắt đầu từ thời điểm này, các Tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế. Đối với trọng tài phi chính phủ: Trọng tài phi Chính phủ là là một tổ chức độc lập, không phu thộc vào hệ thống các cơ quan nhà nước. Nó có thể được thành lập ở dạng các công ty hoặc các hiệp hội trọng tài. Mô hình này phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường. Ví dụ: Hiệp hội trọng tài Mỹ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản, Tòa án trọng tài quốc tế Luân Đôn. Ở Việt Nam, trong giai đoạn này tồn tại hai mô hình trọng tài khác nhau, cụ thể là Hội đồng trọng tài ngoại thương và Trung tâm trọng tài kinh tế. Hội đồng trọng tài ngoại thương Năm 1963, Hội đồng trọng tài ngoại thương ra đời bằng Nghị định 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc thanh lập Hộ đồng trọng tài ngoại thương. Tiếp sau sự ra đời của Hội đồng trọng tài ngoại thương là sự ra đời của Hội đồng trọng tài hàng hải khi Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 153/CP ngày 5/10/1964 về việc thành lập Hội đồng trọng tài hàng hải. Hai tổ chức trọng tài trên có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong mua bán ngoại thương và hoạt động hàng hải có ít nhất một bên là chủ thể nước ngoài. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải được hợp nhất lại và đổi tên thành Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam (VIAC) đặt bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam bởi Quyết định 204-TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Trung tâm trọng tài kinh tế Hàng loạt các trung tâm trọng tài kinh tế ra đời sau khi Nghị định 116/CP Nghị định 116/CP ngày 5 tháng 9 năm 1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế. có hiệu lực. Có năm trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định này: 02 trung tâm trọng tài tại thành phố Hà Nội, 01 trung tâm trọng tài tại thành phố Hồ Chí Minh, 01 trung tâm trọng tài tại thành phố Cần Thơ và 01 trung tâm trọng tài tại tỉnh Bắc Giang). Như vậy, tuy các trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định 116/CP mang bản chất là hình thức trọng tài phi Chính phủ, nhưng lại chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản khác nhhau. Cụ thể, VIAC hoạt động theo Quyết định 204/TTg, còn 05 trung tâm trọng tài lại được thành lập và hoạt đọng theo quy định của Nghị định 116/CP. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật điều chỉnh ở giai đoạn này đều có giá trị pháp lý thấp, mới dừng ở mức cao nhất là Nghị định. Nội dung văn bản còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và chưa có cơ chế bảo đảm cần thiết để hành hành có hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng do cơ bản là do được ban hành trong bối cảnh nước ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì đây là một khái niệm hoàn toàn mới, chưa hề có trong thực tiễn Việt Nam. Đã có thời chúng ta loay hoay với những khái niệm như thế nào là trọng tài kinh tế, trọng tài thương mại, tiêu chí nào để xác định đó là tranh chấp khinh tế, tranh chấp kinh doanh hay tranh chấp thương mại TS. Dương Văn Hậu: Một số vấn đề và lý luận và thực tiễn của trọng tài thương mại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật. … Thêm vào đó, các văn bản pháp luật về trọng tài, chưa đề cập đến các chế định cơ bản của trọng tài như: vấn đề thỏa thuận trọng tài, sự hỗ trợ cần thiết của Cơ quan tư pháp… Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực thương mại chưa đồng bộ, chưa điều chỉnh kịp thời các quan hệ thương mại phát sinh trong thực tiễn. Giai đoạn từ khi Pháp lệnh trọng tài thương mại có hiệu lực Pháp lệnh trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua ngày 25/3/2003 và có hiệu lực ngày 1/7/2003, sau sáu năm chuẩn bị, soạn thảo trên mười dự thảo, tiến hành nhiều hội thảo lấy ý kiến. Sự ra đời của Pháp lệnh là một bước hoàn thiện đáng kể pháp luật về trọng tài thương mại ở nước ta. Về cơ bản Pháp lệnh đã khắc phục được những khiếm khuyết, hạn chế trong các quy định của pháp luật tròng tài thương mại mà theo đánh giá của nhiều nhà nguyên cứu chính những khiếm khuyết, hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút đáng kể sự hấp dẫn của chế định trọng tài trong thực tiễn giải quyết tranh chấp nảy sinh trong quá trình kinh doanhTS. Nguyễn Thái Phúc: Một số ý kiến về Pháp lệnh trọng tài thương mại, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003. . Trong bối cảnh Pháp lệnh được ban hành vào thời điểm Luật Thương mại 1997 vẫn đang có hiệu lực nhưng các nhà lập pháp đã mạnh dạn đưa khái niệm thương mại theo hướng mở, tương thích với Luật mẫu về trọng tài Thương mại UNICITRAL, mà không “bó buộc” trong 14 hành vi quy định trong Luật Thương mại 1997. Đây được coi là bước “đột phá” trong công tác lập pháp vào thời điểm này. Có thể nói, PLTTTM 2003 đã khắc phục hầu hết các bất cập trong các quy định trước đây đặc biệt là các quy định về sự hỗ trợ, giám sát của Tòa án, Cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết tranh chấp và thi hành quyết định trọng tài. Vấn đề này đã góp phần là cho các doanh nghiệp tin tưởng lựa chọn và sử dụng trọng tài nhiều hơn. Sự hình thành và phát triển của trọng tài từ khi Luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực cho đến nay: Qua gần 10 năm thực hiện, PLTTTM 2003 đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập và cần được khắc phục kịp thời. Những vấn đề cần được xem xét hoàn thiện như: thỏa thuận trọng tài vô hiệu, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc triệu tập nhân chứng, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, việc hủy quyết định trọng tài mà đặc biệt là cơ chế hỗ trợ của Tòa án, Cơ quan thi hành án đối với các quyết định của trọng tài. Để khắc phục những bất cập trong một số quy định của PLTTTM 2003, Luật trọng tài tài thương mại đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2011. Luật trọng tài Thương mại được ban hành trong điều kiện đất nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới, vì thế đã giúp cho Pháp luật về trọng tài của Việt Nam tiến gần hơn tới các chuẩn mực quốc tế, đưa hoạt động của trọng tài thương mại tại Việt Nam sẽ bước sang một giai đoạn phát triển mới.  Pháp lệnh trọng tài thương mại đặt dấu ấn đầu tiên trong hệ thống văn bản pháp lý về lĩnh vực tranh chấp thương mại, nhưng cũng có một số hạn chế. Để khắc những hạn chế này, Luật trọng tài Thương mại đã có những thay đổi rất mới. Thứ nhất, tính an toàn với thỏa thuận trọng tài của Luật cao hơn Pháp lệnh trọng tài. Tính vô hiệu của thỏa thuận trọng tài cũng được hạn chế bớt để gần gũi hơn với thực tiễn trọng tài thương mại. Thứ hai, hội đồng trọng tài cũng được thêm một số quyền, chẳng hạn như quyền được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trực tiếp. Thứ ba, hội đồng trọng tài có thể triệu tập các nhân chứng để hỗ trợ cho trọng tài. Ngoài ra, điểm khiến phán quyết trọng tài trở nên hấp dẫn hơn, đó là căn cứ để hủy phán quyết trọng tài rõ ràng minh bạch hơn. Luật cũng mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài (như được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng) và giảm nguy cơ phán quyết của trọng tài bị Tòa án tuyên hủy. Trước đây, không ít bên thua kiện không muốn thi hành phán quyết, trọng tài có thể yêu cầu Tòa án hủy nhưng do một số nhược điểm nên căn cứ hủy có thể bị lạm dụng. Theo Luật, tính minh bạch của căn cứ hủy phán quyết trọng tài được nâng lên mức cao hơn.  Khái niệm và ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài: Khái niệm phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất phi nhà nước thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết xung đột băng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Trọng tài là phương thức do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 thì “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này Khoản 1 điều 3, Luật trọng tài thương mại 2010. ”. Theo đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài bao gồm tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại, hoặc các tranh chấp mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài Điều 2, Luật trọng tài thương mại 2010. . Với quy định như trên, Luật trọng tài thương mại 2010 đã thể hiện sự tiến bộ khi mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài so với PLTTTM 2003, nó không còn gói gọn trong phạm vi hoạt động thương mại mà còn mở rộng sang các hoạt động khác. Ngoài ra, trọng tài còn được hiểu theo cách hiểu chung nhất là cơ quan xét xử do các bên thành lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên và trong lĩnh vực mà pháp luật quy định để giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Trọng tài được thành lập theo định nghĩa trên thường được dùng để chỉ các trọng tài thương mại ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, các tranh chấp thương mại được giải quyết bằng một cơ quan Nhà nước mà ta thường gọi là trọng tài kinh tế. Do là tổ chức trọng tài được thành lập bởi cơ quan Nhà nước nên trọng tài kinh tế vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế Nhà nước. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự nguyện. Để tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thì các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Cũng giống như hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đều có sự xuất hiện của một bên thứ ba. Tuy nhiên, đối với hòa giải, vai trò của bên thứ ba chỉ mang tính chất hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau. Còn đối với phương thức trọng tài, sau khi xem xét vụ việc tranh chấp, trọng tài đưa ra phán quyết có gia trị cưỡng chế thì hành đối với các bên tranh chấp mà các bên không thê kháng cáo ở bất kì cơ quan, tổ chức nào. Ưu điểm của phươnng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại: Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng trọng tài cho thấy có một số ưu điểm sau: Thứ nhất, quyết định của trọng tài là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt buộc đối với các bên, các bên không thể chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại trọng tài chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so với xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm dứt sự tồn tại. Thứ hai, hoạt động của trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài xét xử vụ kiện là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện, do đó các trọng tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy họ có điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình tiết của vụ việc. Chính điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận, điều mà ít khi xảy ra ở Tòa án. Thứ ba, trọng tài xét xử bí mật bởi tiến trình giải quyết của trọng tài có tính riêng biệt. Hầu hết các quy định pháp luật về trọng tài của các quốc gia đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một ưu điểm quan trọng bởi các doanh nghiệp không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp bị đem ra công khai trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình. Thứ tư, khi xét xử, trọng tài cho phép các bên được sử dụng kinh nghiệm của các chuyên gia và điều này được thể hiện ở quyền chọn trọng tài viên của các bên. Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên trình độ, năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên biệt như licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chứng khoán…  Thứ năm, hoạt động xét xử của trọng tài liên tục do đó tiết kiệm thời gian, chi phí và tiền bạc cho doanh nghiệp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng là điều không thể tránh khỏi. Thứ sáu, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thể hiện tính năng động, linh hoạt và mềm dẻo, do đó dễ thích ứng hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. Tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Thực tiễn cho thấy giải quyết tranh chấp bằng trọng tài VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng, trong khi đó giải quyết tranh chấp tại Tòa án có trường hợp kéo dài mấy năm. Thứ bảy, việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tính bí mật cao và vì vậy sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các bên rơi vào thế đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một người chiến thắng, còn bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc. Việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng bởi nó diễn ra trong một không gian kín, nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đổi để tìm ra sự thật khách quan của vụ/việc. Đó chính là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau. Hơn nữa, sự tự nguyện thi hành quyết định của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn có thể diễn ra trong tương lai. Với những ưu điểm như vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã ngày càng trở thành một phương thức tố tụng kinh doanh - thương mại hữu hiệu và được các bên lựa chọn ngoài tố tụng bằng Tòa án. Khái quát về sự hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại Khái niệm hỗ trợ tư pháp Theo Đại từ điển tiếng Việt, hỗ trợ có nghĩa là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn Hóa – Thông Tin, 1998, tr. 835. , tư pháp là việc xét xử theo pháp luật các hành vi vi phạm phám luật Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn Hóa – Thông Tin, 1998, tr. 1756. . Từ hai khái niệm hỗ trợ và tư pháp, ta có thể hiểu hỗ trợ tư pháp là việc giúp đỡ trong xét xử một vụ việc, một hành vi vi phạm pháp luật, giúp cho quá trình xét xử được tiến hành một cách thuận tiện, nhanh chóng và có hiệu quả cao nhất. Như vậy, hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài có thể hiểu là việc hỗ trợ cần thiết cho các hoạt động giải quyết tranh chấp trong quá trình tố tụng của trọng tài, mang lại kết quả tốt nhất là giải quyết thỏa đáng được tranh chấp giữa các bên. Sự hỗ trợ đối với hoạt động của trọng tài thương mại Theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 thì hai cơ quan tư pháp có thẩm quyền hỗ trợ đối với hoạt động của trọng tài thương mại là Tòa án và Cơ quan thi hành án gồm các hoạt động hỗ trợ như: áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ đối Hội đồng trọng tài do các bên thành lập, triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ, xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, xem xét hủy quyết định trọng tài và thi hành quyết định trọng tài. Sự cần thiết phải hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Cơ quan tư pháp Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Tòa án Là một tổ chức phi Chính phủ, trọng tài thương mại ở tất cả các nước không mang quyền lực Nhà nước khi giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp độc lập với Tòa án. Nhưng với bản chất là phương thức tài phán tư, trọng có những hạn chế nhất định về thẩm quyền và trong trường hợp ấy phải cần đến sự hỗ trợ của Tòa án. Luật trọng tài thương mại 2010 đã xác lập vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với trọng tài. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo sự độc lập của trọng tài, Luật đã nhấn mạnh Tòa án chỉ hỗ trợ trọng tài trong các trường hợp cụ thể, không có quyền can thiệp vào quá trình tố tụng trọng tài. Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập với Tòa án, điều này tạo cho trọng tài nhưng thuận lợi về việc chủ động trong quá trình tố tụng giải quyết tranh chấp, tôn trọng và bảo đảm cho các bên có quyền tự do định đoạt tối đa về mọi lĩnh vực liên quan điến giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, cũng đặt ra cho trọng tài những khó khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài. Đây có thể coi là vấn đề quyết định đến sự hấp dẫn của phương thức tài phán này và quyết định hiệu quả trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của trọng tài. Với những nước có Luật trong tài, có lịch sử phát triển lâu đời của trọng tài thương mại tì trong nội dung của pháp luật về tài phán kinh tế điều có những quy định về sự hỗ trợ quyền lực của Nhà nước thông qua vai trò của cơ quan tài phán tư pháp là Tòa án đê trọng tài thương mại hoạt động thuận lợi hơn trong giải quyết tranh chấp. Ở Việt Nam, suốt một thời gian dài trong lịch sử lập pháp, chúng ta không hề có quy định sự hỗ trợ của tài phán nhà nước đối với tài phán phi Chính phủ trong pháp luật tài phán kinh tế mà chỉ đơn thuần là sự quản lý hành chính nhà nước đối vơi hoạt động của trọng tài. Pháp luật trọng tài ở nước ta trước khi có PLTTTM 2003 được xây dựng trên các quan điểm hoàn toàn xa lạ với thông lệ quốc tế. Theo các quan điểm này, trọng tài thương mại là một thiết chế tài phán phi Chính phủ, do đó phải được thiết lập sao cho có thể tồn tại độc lập với Tòa án. Kết quả của quan điển trên là giữa trọng tài và Tòa án ở nước ta trong thời gian này không hề tồn tại mối quan hệ nào và đây có thể coi là nguyên nhân cơ bản nhất làm trọng tài thương mại không thể phát huy được ưu điểm của mình cũng như sức hấp dẫn của nó kho các bên tranh chấp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Với sự ra đời của PLTTTM 2003, Pháp lệnh thi hành án dân sự 2003, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã thể hiện rõ một quan điểm mới tiếp cận với sự phát triển của pháp luật tài phán của các nước phát triển. Trong đó, một trong những nội dung cơ bản là việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án trong việc hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của trọng tài. Có thể gọi đây là một sự tiếp sức cho trọng tài, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc đa dạng hóa các phương thức giải quyết tranh chấp tạo điều kiện tối đa cho các chủ thể kinh doanh tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Luật trọng tài thương mại 2010 được ban hành nhằm khắc phục những khuyết điểm của PLTTTM 2003, phù hợp với tình hình thực tế, đưa phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tiến gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Luật trọng tài thương mại 2010 càng củng cố và nhấn mạnh mối quan hệ hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại. Với Tòa án, trọng tài thương mại giúp chia sẻ gánh nặng giải quyết tranh chấp thương mại trong bối nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và không ngừng hội nhập vào nền kinh tế phát triển năng động trên thế giới thì việc giao lưu kinh tế ngày càng nhiều, việc dẫn đến tranh chấp ngày càng tăng là việc không thể tránh khỏi. Đối tượng sử dụng trọng tài nhiều hơn, giúp giảm nhẹ gánh nặng xét xử của Tòa án, doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và thời gian khi sử dụng trọng tài giải quyết tranh chấp. Mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và Cơ quan thi hành án Sau khi xem xét vụ việc, trọng tài sẽ đưa ra phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thi hành. Vấn đề đặt ra ở đây, trong trường hợp bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì Cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế các bên thi hành, Đây là một biện pháp bảo đảm quyết định của trọng tài sẽ được thi hành trên thực tế. Do đó, tạo mối quan hệ khăn khít giữa trọng tài và Cơ quan thi hành án sẽ tạo điều kiện choc ac bên khi đã chọn trọng tài thì phải tôn trọng những quyết định của trọng tài, nếu không sẽ bị cưỡng chế thi hành bởi Cơ quan thi hành án. Vai trò của Cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại Vai trò của Tòa án Trọng tài thương mại vừa mang bản chất thương lượng, vừa mang bản chất của cơ qua tài phán. Là cơ quan “t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChương 1 luận văn- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.doc
Tài liệu liên quan