MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG I:
CÔNG TY TÀI CHÍNH THUỘC TẬP ĐOÀN VÀ NGHIỆP VỤ UỶ THÁC
1.1. Khái quát mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn và công ty tài chính trong tập đoàn đó. 1
1.1.1. Mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn 1
1.1.2. Mô hình công ty tài chính trong tổng công ty 3
1.2. Nghiệp vụ uỷ thác 7
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ uỷ thác 7
1.2.2. Khái niệm về uỷ thác 12
1.2.3. Mối quan hệ giữa các bên tham gia trong một hợp đồng uỷ thác 13
1.2.4. Phân loại uỷ thác 16
1.3. Uỷ thác quản lý vốn 19
1.3.1. Khái niệm 19
1.3.2. Phân loại uỷ thác vốn 20
1.3.3. Cơ sở luật pháp đối với nghiệp vụ uỷ thác quản lý vốn 24
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA NGHIỆP VỤ UỶ THÁC TẠI
CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ
2.1. Khái quát một số nét về Tổng công ty Dầu khí và công ty Tài chính Dầu khí 30
2.1.1. Một số nét về Tổng công ty Dầu khí 30
2.1.2. Công ty Tài chính Dầu khí 32
2.2. Thực trạng hoạt động của công ty Tài chính Dầu khí qua hơn 1 năm hoạt động 37
2.2.1. Kết quả kinh doanh năm 2001 37
2.2.2. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu 40
2.2.3. Đánh giá các hoạt động năm 2001 41
2.3. Nghiệp vụ uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí 43
2.3.1. Quá trình hình thành nghiệp vụ uỷ thác ở Việt Nam 43
2.3.2. Thực trạng nghiệp vụ uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí 46
2.3.3. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn và triển vọng của nghiệp vụ uỷ thác tại công ty Tài chính Dầu khí
68
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢT PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG UỶ THÁC TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ
3.1. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước Việt Nam 76
3.1.1. Nhanh chóng ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan 76
3.1.2. Cho phép công ty tài chính Dầu khí thực hiện các nghiệp vụ mới 77
3.2. Kiến nghị với Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
3.2.1. Tổng công ty xem xét nhanh chóng thực hiện ủy thác vốn của tổng công ty cho công ty tài chính 77
78
3.2.2. Tổng công ty xem xét, tin tưởng giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm của tổng công ty
3.2.3. Hỗ trợ công ty một cách tối đa trong công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia
3.2.4. Xem xét tăng vốn pháp định cho công ty
3.3. Giải pháp đối với công ty Tài chính Dầu khí 79
3.3.1. Đẩy mạnh hoạt động Marketing 84
3.3.2. Phát triển thêm các nguồn uỷ thác mới
3.3.3. Nhanh chóng thực hiện vai trò người uỷ thác 86
3.3.4. Đa dạng hoá các dịch vụ uỷ thác
KẾT LUẬN 88
96 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các hoạt động khác
6.2
37
-Đầu tư chứng khoán
0.36
2
-Cho vay ủy thác
1.97
12
-Dịch vụ tư vấn
3.89
23
-Thu nhập bất thường
0
0
II-Tổng chi
14.7
1-Chi về hoạt động huy động vốn
4.7
32
2-Chi về dịch vụ thanh toán
0
3-Chi về dich vụ tư vấn
1.7
11
4-Chi về các hoạt động khác
8.3
57
III-Lãi
2
Thuế thu nhập doanh nghiệp
0.648
Lãi sau thuế
1.352
Về doanh thu, năm 2001 là năm đầu tiên kinh doanh nên khi lập kế hoạch dựa trên căn cứ hoàn toàn khác với khi điều hành cụ thể: có những nghiệp vụ đặt kế hoạch rất cao nhưng trong năm không thực hiện được, có những nghiệp vụ kế hoạch không đặt ra thì lại đem lại phần doanh thu đáng kể cho công ty. Tổng doanh thu cuối năm đạt 16.7 tỷ với tỷ trọng 29% doanh thu cho vay (trong đó 17% là thu từ hoạt động tín dụng, 12% là thu từ hoạt động cho vay ủy thác), doanh thu từ dịch vụ tư vấn chiếm 23%, doanh thu từ lãi tiền gửi chiếm 46% đạt 150% kế hoạch được giao.
Về chi phí, tổng chi phí cả năm là 14.7 tỷ trong đó chi phí cho hoạt động huy động vốn chiếm 32%, chi phí dịch vụ tư vấn chiếm 11% còn lại chi phí hoạt động của công ty chiếm 57%.
Chi phí hoạt động cả năm của công ty là 8.3 tỷ đồng trong đó chi phí cho nhân viên là 40%(lương chiếm 35%), chi về tài sản chiếm 29% còn chi công vụ và quản lý chiếm 31%.
Số nộp ngân sách nhà nước trong năm là 908 triệu đồng vượt xa kế hoạch giao là 170 triệu do phần VAT phải nộp tăng, lợi nhuận tăng làm cho thuế thu nhập doanh nghiệp tăng. Phần nộp Tổng công ty cũng tăng hơn gấp đôi kế hoạch do doanh thu và lợi nhuận đều tăng so với kế hoạch.
2.2.1. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu:
Mặc dù mới được thành lập với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng tập thể cán bộ công nhân viên công ty Tài chính Dầu khí đã phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 2001. Đây là kết quả đáng khích lệ đối với một công ty mới tròn một năm tuổi. Công ty đã khẳng định được vị trí của mình, tạo đà phát triển trong những năm tiếp theo.
Bảng 2- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm 2001
Đơn vị tính: tỷ VNĐ
Số TT
Chỉ tiêu
Kế hoạch
Thực hiện KH
Giá trị thực hiện
% so với KH
1
Thu xếp vốn
1,786.5
1,990
111
2
Số dư huy động cuối năm
-ngoại tệ, triệu USD
15
Chưa được phép hoạt động
-nội tệ, tỷ VNĐ
65
255.7
393
3
Dư nợ cho vay cuối năm
-ngoại tệ, triệu USD
15
Chưa được phép hoạt động
-nội tệ
140
170.9
122
4
Hoạt động đầu tư (dự án, tài chính)
30
34.3
114
5
Doanh thu
10,940
16,700
152
6
Lợi nhuận
0.615
2.02
328
7
Thu nộp ngân sách
0.170
9.08
534
8
Nộp Tổng công ty,
0.066
0.168
254
2.2.3. Đánh giá các hoạt động năm 2001:
A. Nghiệp vụ thu xếp vốn:
Đây là một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu của công ty Tài chính Dầu khí. Nó đảm bảo cho các dự án trong ngành dầu khí luôn có được nguồn vốn cần thiết để triển khai.Hoạt động này được phòng nghiệp dịch vụ ủy thác thực hiện với nội dung hoạt động như là một trung gian đầu mối tổ chức sắp xếp các nguồn vốn cho các dự án của ngành dầu khí. Với đặc thù của các dự án trong ngành dầu khí là có vốn rất lớn nên khó có một tổ chức tài chính nào đảm bảo được việc cung cấp toàn bộ vốn cho dự án do vậy công ty tài chính khi có những dự án trong ngành sẽ đứng ra làm đầu mối gom vốn từ các tổ chức tài chính khác (do công ty có ưu thế về mối quan hệ với các tổ chức tài chính). Công ty Tài chính Dầu khí được hưởng một khoản phí cho hoạt động này.
Công ty đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị hàng đầu là đảm bảo thu xếp vốn tín dụng cho các đề án dự án đầu tư của Tổng công ty và các đơn vị thành viên, với phương châm không bỏ sót các dự án. Trong thực tế, các dự án được triển khai rất chậm so với dự kiến ban đầu. Mặc dù vậy, công ty đã khắc phục mọi khó khăn, cố gắng theo sát các dự án và đã thu xếp vốn thành công cho 11 công trình với tổng số 1990 tỷ VNĐ đạt 111% kế hoạch.
Do các công trình chậm giải ngân nên mặc dù ký hợp đồng thu xếp vốn nhưng công ty vẫn chưa nhận được doanh thu từ dịch vụ này.
B. Nghiệp vụ huy động vốn và tín dụng:
Với đặc thù của ngành dầu khí chủ yếu hoạt động bằng ngoại tệ, nên trong kế hoạch đầu năm công ty có dự kiến có phần tham gia hoạt động ngoại hối với số dư huy động và cho vay cuối kỳ đạt 15 triệu USD. Tuy nhiên, cho đến nay công ty vẫn chưa được ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phép, nên phần hoạt động về ngoại tệ công ty vẫn chưa thực hiện được. Công ty đã khắc phục mọi khó khăn, cố gắng hoạt động trên lĩnh vực nội tệ một cách tốt nhất và đã đạt được kết quả đáng ghi nhận:
Đã đảm bảo được đủ vốn tín dụng cho các đơn vị trong và ngoài ngành. Số dư huy động cuối năm đạt 255.7 tỷ VNĐ (hơn 2.5 lần vốn tự có ) đạt 393%.
Đã mạnh dạn áp dụng loại hình cho vay ủy thác (lúc cao điểm đã chiếm đến 85% tổng dư nợ cho vay), trên cơ sở nghiên cứu và sử dụng quy trình cho vay linh hoạt, chặt chẽ và hiệu quả.
Đã mở được thêm hình thức huy động vốn mới là nhận ủy thác quản lý vốn và tài sản cho các đơn vị trong ngành với 4 hợp đồng quản lý vốn với tổng số vốn huy động đạt 100 tỷ VNĐ. Huy động trong ngành từ tiết kiệm dầu khí đã bắt đầu triển khai từ 1/10 đã thật sự cuốn hút cán bộ công nhân viên trong ngành vào sự nghiệp phát triển dầu khí, bước đầu có kết quả tốt với số dư huy động cuối năm đạt hơn 8 tỷ VNĐ.
Bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục như: số dư nợ cho vay chưa ổn định vì các công trình trong ngành triển khai chậm, tuy đã được thu xếp vốn nhưng chưa giải ngân được. Do đó, hầu hết các khoản vay là ngắn hạn (chiếm 90% tổng dư nợ cho vay ). Số dư nợ trung và dài hạn chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 10%).
C. Nghiệp vụ tài chính tiền tệ:
Kế hoạch đầu năm công ty đề ra với phương châm tham gia hầu hết các dự án đầu tư của các đơn vị trong ngành và đưa dần hoạt động này trở thành chủ lực của công ty Tài chính Dầu khí. Năm 2001 công ty đã thực hiện được 5.4 tỷ VNĐ đạt 174%.
Công ty đã tích cực bám sát hầu hết các dự án để tìm cơ hội cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, do thị trường này hiện nay còn mới, chưa ổn định, các chủ đầu tư chưa quen sử dụng dịch vụ tư vấn tài chính trong lập và thẩm định dự án, nên trong năm chỉ thực hiện được 2 dự án với giá trị hơn 500 triệu VNĐ.
Công ty đã năng động tìm kiếm các hình thức dịch vụ tài chính khác như tư vấn quản lý tiền nhàn rỗi cho một số doanh nghiệp (VSP,VR,..) đem lại doanh thu đáng kể (khoảng 4.9 tỷ VNĐ).
Khó khăn của công ty là chưa thu hút và đào tạo được các chuyên gia giỏi, chuyên sâu nhằm đưa các dịch vụ tài chính tiền tệ trở thành thế mạnh của công ty Tài chính Dầu khí.
D. Nghiệp vụ đầu tư:
Tổng vốn đã tham gia đầu tư trong năm 2001 đạt 37.3 tỷ VNĐ, đạt 124%. Mặc dù công tác đầu tư còn nhiều khó khăn do cơ chế, công ty đã chủ động tập trung vào đầu tư tài chính (công trái, trái phiếu và các chứng từ có giá...) có lợi nhuận cao, giúp các đơn vị và cá nhân trong ngành giải phóng vốn cho nhu cầu đầu tư và kinh doanh. Đồng thời, công ty đã tích cực đào tạo cán bộ, chuẩn bị cho việc tham gia vào thị trường chứng khoán với lượng giao dịch hơn 9000 cổ phiếu và trái phiếu của 5 loại chứng khoán.
2.3. Nghiệp vụ ủy thác tại công ty Tài chính Dầu khí:
2.3.1. Quá trình hình thành nghiệp vụ ủy thác ở Việt Nam:
Thập kỷ 90, sau một thời gian thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có dáng dấp của nền kinh tế thị trường. Những quan hệ hàng hóa tiền tệ đang dần dần thay thế các quan hệ phân phối hiện vật thời kỳ tập trung, quan liêu, bao cấp. Bộ mặt kinh tế đất nước đã có những thay đổi cơ bản. Những nguồn lực khan hiếm của đất nước đã được sử dụng có hiệu quả hơn, quan hệ Việt Nam với các nước đang đi vào chiều sâu và là cơ hội để Việt Nam hội nhập mạnh hơn nữa vào nền kinh tế thế giới, mức sống của nhân dân đang được cải thiện, tốc độ tăng luôn ở mức cao đã phần nào khẳng định được sự đúng đắn của con đường cải cách, từ đó cho phép đặt niềm tin vào khả năng cất cánh của Việt Nam trong tương lai.
Chúng ta đã có những cải cách vô cùng quan trọng và kịp thời, trong đó phải kể tới việc cải cách hệ thống các tổ chức tín dụng. Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế, hệ thống ngân hàng đã có nhiều đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Bản thân hệ thống ngân hàng đã và đang được đổi mới và hiện đại hóa dần.Từ loại hình hệ thống ngân hàng một cấp đã chuyển sang hai cấp với những loại hình mới trước đây chưa từng có.
Cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, các bộ phận quan trọng của thị trường tài chính đã được hình thành và phát triển. Đó là thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với cơ cấu tỷ giá thả nổi, thị trường chứng khoán.
Các tổ chức tín dụng cũng thay đổi các loại hình dịch vụ của mình để phù hợp với nền kinh tế mới. Công nghệ, hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng đang từng bước được cải thiện theo hướng thị trường hóa. Ngoài ra, các hình thức hoạt động thông thường như nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh thanh toán được mở rộng dần. Nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời. Cùng với sự phát triển kinh tế, các chính sách sản phẩm, dịch vụ của các tổ chức tín dụng đã thay đổi, tỷ lệ lợi nhuận thu được trên các loại hình dịch vụ này đã tăng đáng kể, tỷ lệ này là 30% so với 15% như trước kia. Các tổ chức tín dụng đã phát triển các loại hình dịch vụ mới như cho thuê két, thực hiện tư vấn với khách hàng, phát hành thẻ thanh toán, các loại hình ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu cũng được thực hiện. Nghiệp vụ ủy thác và nhận ủy thác đầu tư và cho vay lại cũng được thực hiện tại các tổ chức tín dụng.
Nghiệp vụ ủy thác đã hình thành tại Việt Nam từ giữa những năm 90. Trong giai đoạn đầu nền kinh tế Việt Nam đã bước vào giai đoạn chuyển hóa nền kinh tế mạnh mẽ nhất. Các thành phần kinh tế được phép phát triển và nhiều loại hình kinh tế đã ra đời đáp ứng nhu cầu đó. Việt Nam đã mở cửa đón nhận vốn và hợp tác trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi với nước ngoài. Các công ty, doanh nghiệp luôn luôn có sự cải tiến nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng và thu lợi nhuận hợp lý.
Nghiệp vụ ủy thác tại Việt Nam không phải là sản phẩm dịch vụ chỉ có thể tồn tại trong chốc lát. Các tổ chức tín dụng tại Việt Nam đã thấy được đây là thế mạnh mới cho sự phát triển của họ. Nghiệp vụ ủy thác đã manh lại cho các tổ chức tín dụng những nguồn vốn cho đầu tư và phát triển mới. Các nguồn vốn này không chỉ bao gồm từ các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư tại Việt Nam mà trong số đó còn có cả nguồn vốn từ các cơ quan, xí nghiệp trong nước. Các nhà đầu tư có thể lựa chọn phương pháp đầu tư trực tiếp nhưng sẽ phải chịu những rủi ro cao hơn so với việc thực hiện ủy thác. Và những nhà đầu tư đã nhận thấy rằng việc ủy thác không chỉ đem lại nguồn lợi lớn mà còn là phương pháp tốt để chia xẻ và phòng tránh rủi ro.
Trong giai đoạn đầu mới phát triển nghiệp vụ ủy thác, các ngân hàng là cơ quan thực hiện nghiệp vụ này nhiều nhất. Các ngân hàng lúc này đã đóng vai trò người nhận ủy thác, chủ yếu là việc nhận quản lý vốn. Tuy nhiên đến cuối năm 2000, các ngân hàng vẫn chỉ nhận vốn ủy thác của Chính Phủ và các khoản vốn ủy thác của các tổ chức quốc tế như vốn ODA.Tuy nhiên khoản vốn mà ngân hàng nhận được là tuân theo chỉ định của chính phủ Việt Nam, khoản vốn này được dùng để đầu tư vào các dự án phát triển chung cho nền kinh tế đất nước. Còn có rất nhiều nguồn ủy thác khác ngoài nguồn do Chính Phủ Việt Nam nhận về nhưng các ngân hàng chưa tỏ ra tích cực tự thân vận động để đi tìm cho mình những nguồn ủy thác mới. Về vai trò ủy thác, các ngân hàng quốc doanh, ngoại trừ ngân hàng đầu tư và phát triển, vẫn mới đang tìm đường đi cho việc ủy thác lại vốn cho các tổ chức tín dụng khác. Các ngân hàng quốc doanh đã tỏ ra chưa năng động như các tổ chức tín dụng khác về việc thực hiện cả hai vai trò ủy thác và nhận ủy thác.
Vào năm 1994, công ty tài chính cổ phần Sài Gòn, đã trở thành công ty tài chính đầu tiên được ngân hàng nhà nước cho làm thí điểm tiếp nhận vốn ủy thác. Đến lúc này thì không chỉ có ngân hàng đứng vai trò là người nhận ủy thác mà các công ty tài chính cũng được phép tham gia làm nhiệm vụ này. Và ngay trong năm đầu tiên thực hiện công việc, công ty đã tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư của hai đơn vị nước ngoài với tổng số vốn lên đến 1.211.832 USD.
Đến năm 1998, các công ty tài chính thuộc các tổng công ty được thành lập trên cơ sở phát triển tổng công ty thành tập đoàn kinh tế mạnh. Vì vậy, xu hướng phát triển là việc các tổng công ty sẽ chuyển từ cơ chế quản lý vốn theo phương thức hành chính sang cơ chế công ty tài chính. Do đó, việc ủy thác vốn của Tổng công ty cho công ty tài chính nhằm mục đích hoàn thiện chức năng của công ty tài chính. Công việc này tạo cho các công ty tài chính thích nghi dần với hình thức tiếp nhận vốn của Tổng công ty để đầu tư vào các công trình, dự án trong ngành của mình. Và vốn ủy thác sẽ không chỉ bao gồm tiền mặt mà các Tổng công ty cũng sẽ ủy thác cho công ty tài chính số cổ phiếu và tín phiếu mà họ đang nắm giữ, việc ủy thác các tài sản này nhằm mục đích chuyển giao số vốn mà Tổng công ty đang nắm giữ sang cho công ty tài chính để công ty tài chính có thể nhanh chóng trở thành trung tâm luân chuyển vốn trong tổng công ty.
Tuy vậy, những nghiệp vụ ủy thác mà các tổ chức tín dụng ở Việt Nam đã thực hiện mới dừng ở mức đơn giản, sơ khai, khai thác một cách sơ sài những thế mạnh của nghiệp vụ này. Những nghiệp vụ liên quan tới hoạt động ủy thác tiến hành thực hiện công việc thì hầu như chưa được quan tâm còn các hoạt động ủy thác liên quan tới quản lý tài sản chỉ ở mức độ rất nhỏ do chưa có khung pháp lý đầy đủ mà hoạt động này vốn rất cần. Do vậy, hiện nay ở Việt Nam mới chỉ thực hiện các hoạt động ủy thác liên quan tới ủy thác vốn mà trong đó cũng chưa thật đầy đủ và hoàn chỉnh.
2.3.2. Thực trạng nghiệp vụ ủy thác tại công ty Tài chính Dầu khí:
Qua hơn một năm hoạt động, tại công ty đã có nhiều hoạt động thuộc phạm vi của nghiệp vụ ủy thác được tiến hành và từng bước hoàn chỉnh cả về lý luận, qui trình lẫn thao tác nghiệp vụ.
Hiện nay, nghiệp vụ ủy thác tại công ty bao gồm:
Nghiệp vụ tiếp nhận vốn ủy thác và cho vay vốn ủy thác
Nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn và tài sản
Nghiệp vụ ủy thác phát hành trái phiếu, cổ phiếu
Thông thường khi nói đến nghiệp vụ ủy thác vốn ta hiều là gồm cả hai nghiệp vụ tiếp nhận và quản lý vốn ủy thác, trong việc quản lý đã bao gồm là cho vay vốn ủy thác đó hay dùng để đầu tư chứng khoán, đầu tư dự án... Và có thể hiểu chỉ cần nói là nghiệp vụ quản lý vốn ủy thác là đủ vì nó đã bao hàm cả nghiệp vụ tiếp nhận và cho vay rồi nhưng do điều kiện của công ty mới hình thành nên thực chất việc quản lý vốn ủy thác chưa thực sự phát triển trong khi đó diễn ra nhiều nhất là hoạt động tiếp nhận và cho vay nguồn vốn ủy thác của các tổ chức tín dụng, mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại nên tại công ty đã có sự phân chia này để tách riêng và quản lý các nguồn từ các tổ chức tín dụng và nguồn từ các cá nhân cùng các tổ chức kinh tế khác, chủ yếu là trong ngành dầu khí.
2.3.2.1. Cơ chế và qui trình của các nghiệp vụ ủy thác tại công ty Tài chính Dầu khí
Cơ chế, qui trình nghiệp vụ tiếp nhận và cho vay vốn ủy thác
A.1) Cơ chế của nghiệp vụ
Tại công ty Tài chính Dầu khí đã ban hành cơ chế về việc tiếp nhận và cho vay ủy thác nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty Tài chính Dầu khí nhận vốn ủy thác từ các tổ chức tín dụng để cho vay trực tiếp đến các đối tượng vay. Cơ chế này không áp dụng để điều chỉnh hoạt động của PVFC nhận và cấp phát vốn ủy thác của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
Nhận ủy thác cho vay là việc bên nhận ủy thác vay lại hoặc nhận vốn giao của bên ủy thác để cho vay trực tiếp đến các đối tượng vay. Cho vay ủy thác là việc bên cho vay ủy thác sử dụng nguồn vốn nhận ủy thác của các tổ chức tín dụng để cho vay các đối tượng vay. Bên ủy thác là tổ chức tín dụng được thành lập theo luật tổ chức tín dụng, bên nhận ủy thác và bên cho vay là công ty Tài chính Dầu khí, bên vay là đối tượng vay, bao gồm chủ đầu tư của các dự án của ngành dầu khí cần vay vốn và các công ty thành viên của Tổng công ty có nhu cầu vay vốn ngắn hạn.
Tài khoản ủy thác là tài khoản của bên nhận ủy thác mở tại bên ủy thác để tiếp nhận vốn ủy thác. Tài khoản được mở riêng cho từng dự án và có thể bao gồm tài khoản VND hoặc tài khoản ngoại tệ phụ thuộc vào cơ cấu khoản cho vay ủy thác là VND hoặc ngoại tệ hoặc cả hai.
Phí ủy thác là khoản tiền mà bên nhận ủy thác được hưởng từ việc thực hiện dịch vụ ủy thác cho vay. Mức phí ủy thác bằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay ủy thác và lãi suất ủy thác cho vay.
Đi kèm hợp đồng ủy thác cho vay, hợp đồng được ký gữa bên ủy thác và PVFC điều chỉnh quan hệ cho vay và nhận ủy thác cho vay của hai bên là hợp đồng tín dụng ủy thác, hợp đồng ký giữa PVFC và bên vay, điều chỉnh quan hệ vay và cho vay của hai bên.
Mục đích của nghiệp vụ này là PVFC nhận ủy thác cho vay của bên ủy thác để cho vay trực tiếp đến bên vay phục vụ nhu cầu đầu tư cho các dự án hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn của bên vay.
Hình thức nhận ủy thác cho vay: PVFC có thể thoả thuận với bên ủy thác chọn một trong hai hình thức ủy thác cho vay sau:
+ Hình thức thứ nhất: là hình thức ủy thác cho vay trong đó bên ủy thác giao vốn cho PVFC để cho bên vay vay. PVFC thực hiện các nghiệp vụ cho vay và hưởng phí ủy thác. PVFC không phải chịu rủi ro khoản vay. Việc thẩm định tín dụng do bên ủy thác tiến hành, PVFC có trách nhiệm tổ chức để bên ủy thác tiến hành việc thẩm định tín dụng và lập báo cáo thẩm định.
Lãi suất cho bên vay vay được bên ủy thác và PVFC thoả thuận và qui định trong hợp đồng ủy thác cho vay và hợp đồng tín dụng.Bên ủy thác và PVFC thoả thuận thống nhất mức phí ủy thác mà PVFC được hưởng và qui định trong hợp đồng ủy thác cho vay.
Các rủi ro khoản vay do bên ủy thác chịu. PVFC chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại về kinh tế của bên ủy thác do lỗi của PVFC gây ra.
+ Hình thức thứ hai: là hình thức ủy thác cho vay trong đó bên nhận ủy thác ủy thác vốn cho PVFC để cho bên vay vay với mức lãi suất ủy thác thoả thuận. PVFC gánh chịu các rủi ro khoản vay. Bên ủy thác chỉ chịu những tổn thất kinh tế liên quan đến khoản ủy thác của mình.
PVFC chịu trách nhiệm tiến hành thẩm định tài chính và lập báo cáo gửi cho bên ủy thác. Lãi suất ủy thác được xác định cụ thể trong hợp đồng ủy thác cho vay, bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn trong đó lãi suất quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn.Lãi suất cho bên vay vay do PVFC và bên vay quyết định.Phí ủy thác mà PVFC được hưởng bằng chênh lệch giữa lãi suất cho bên vay vay và lãi suất ủy thác trả cho bên ủy thác. Các tổn thất kinh tế liên quan đến khoản ủy thác theo hình thức này do bên ủy thác chịu. Các tổn thất kinh tế liên quan đến khoản vay do PVFC chịu.
A.2) Qui trình của nghiệp vụ
Thẩm định tín dụng
Khi xét thấy một dự án có nhu cầu vay vốn phù hợp với khả năng nhận ủy thác để cho vay của PVFC, phòng dịch vụ ủy thác có trách nhiệm thảo luận với bên vay và tìm kiếm nguồn ủy thác phù hợp.
Khi được bên ủy thác chấp nhận, phòng dịch vụ ủy thác sẽ:
Tiến hành thẩm định tín dụng và lập báo cáo thẩm định gửi cho bên ủy thác trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ hai.
Trợ giúp tổ chức để bên ủy thác tiến hành việc thẩm định tín dụng, lập báo cáo thẩm định trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất.
Ký kết hợp đồng:
Hợp đồng ủy thác cho vay do giám đốc (hoặc người được ủy quyền) của bên ủy thác và PVFC ký. Hợp đồng được lập làm 4 bản, mỗi bên giữ hai bản.Hợp đồng tín dụng ủy thác được lập thành 3 bản (là 4 bản nếu cho vay có bảo lãnh), bên vay giữ một bản, hai bản do bên cho vay giữ, một bản (nếu có ) do bên bảo lãnh giữ.
Hồ sơ rút vốn của bên vay:
Hồ sơ rút vốn và các điều kiện rút vốn của bên ủy thác được qui định trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp PVFC nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất, các qui định này phải phù hợp với các qui định trong hợp đồng ủy thác cho vay.
Khi rút vốn, bên vay gửi bộ hồ sơ rút vốn phù hợp với qui định trong hợp đồng tín dụng cho PVFC.
Điều chuyển vốn và giải ngân:
PVFC sẽ mở tài khoản ủy thác tại bên ủy thác để tiếp nhận vốn ủy thác. Việc mở tài khoản có thể bao gồm tài khoản VND hoặc ngoại tệ.
+ Trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất, mỗi lần bên vay rút vốn, phòng dịch vụ ủy thác có trách nhiệm:
Tiếp nhận và kiểm tra toàn bộ hồ sơ rút vốn theo đúng yêu cầu nội dung của hợp đồng tín dụng ủy thác.
Lập thông báo rút vốn.
+ Trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ hai, các thủ tục điều chuyển vốn và giải ngân được tiến hành:
Trường hợp bên vay rút vốn đúng lịch rút vốn thì tiến hành như trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất.
Trường hợp bên vay rút vốn không đúng lịch rút vốn, phòng dịch vụ ủy thác có trách nhiệm tiến hành các thủ tục đàm phán với bên ủy thác để điều chỉnh lịch rút vốn ủy thác cho phù hợp. Các thủ tục sau đó được tiến hành như trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất.
Thu nợ và lãi:
Thu nợ gốc lãi: đến kỳ thu nợ gốc, lãi PVFC tiến hành các thủ tục thu nợ gốc, lãi từ bên vay, trích khoản phí ủy thác được hưởng của mình và chuyển trả phần còn lại cho bên ủy thác.
Điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ: Khi đến hạn trả nợ nếu bên vay không có khả năng trả hết nợ và có văn bản đề nghị PVFC gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ thì:
Trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất, PVFC xem xét và gửi yêu cầu của bên vay và ý kiến của mình cho bên ủy thác. Việc điều chỉnh thế nào do bên ủy thác quyết định. Trong trường hợp bên vay được điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ, bên vay được hưởng mức lãi suất bằng mức lãi suất cho vay trong hạn.
Trong trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ hai, PVFC xem xét và quyết định chấp thuận hay không chấp thuận đề nghị của bên vay.
Hoàn trả vốn ủy thác và lãi ủy thác:
Đối với mỗi hình thức nhận ủy thác, việc hoàn trả vốn ủy thác và lãi ủy thác được thực hiện khác nhau:
Trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ nhất, ngay khi nhận được thông báo, phòng kế toán lập ủy nhiệm chi chuyển trả phần vốn gốc và lãi cho bên ủy thác.
Trường hợp nhận ủy thác theo hình thức thứ hai, việc hoàn trả vón ủy thác và lãi ủy thác được thực hiện theo hợp đồng đã ký với bên ủy thác.
Khi đến hạn hoàn trả vốn ủy thác mà PVFC chưa có khả năng trả hết số vốn ủy thác do bên vay chưa trả hết nợ, PVFC lập văn bản đề nghị bên ủy thác điều chỉnh kỳ hạn ủy thác hoặc gia hạn ủy thác để bên ủy thác xem xét và cho điều chỉnh kỳ hạn hoặc gia hạn ủy thác.
Cơ chế và qui trình nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn
B.1) Cơ chế của nghiệp vụ
Công ty Tài chính Dầu khí đã ban hành cơ chế về việc tiếp nhận ủy thác quản lý vốn bằng tiền để điều chỉnh hoạt động tiếp nhận ủy thác quản lý vốn bằng tiền từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài ngành Dầu khí.
Nhận ủy thác quản lý vốn bằng tiền là việc bên nhận ủy thác nhận vốn giao của bên ủy thác để thực hiện quản lý theo những mục đích đã thỏa thuận, không trái với các qui định của Pháp luật. Bên ủy thác là các tổ chức, cá nhân ủy thác vốn cho bên nhận ủy thác quản lý để thực hiện quản lý theo những mục đích đã thỏa thuận theo hợp đồng, không trái với qui định của pháp luật. Bên nhận ủy thác quản lý vốn là công ty Tài chính Dầu khí(PVFC). Hợp đồng ủy thác quản lý vốn là hợp đồng được ký giữa bên ủy thác và PVFC, điều chỉnh quan hệ ủy thác quản lý vốn giữa hai bên.
Vốn ủy thác được quản lý theo mục đích khai thác lợi thế của các bên trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh doanh, sinh lợi không trái với qui định của Pháp luật hiện hành.
Các hình thức nhận ủy thác quản lý vốn tại công ty Tài chính Dầu khí:
Hình thức thứ nhất: là hình thức quản lý vốn trong đó bên ủy thác vốn cho PVFC để PVFC quản lý và sử dụng vào các mục đích sinh lời, trong đó bên ủy thác không chỉ định cụ thể mục đích sử dụng vốn. PVFC quyết định việc sử dụng và kinh doanh vốn ủy thác, đảm bảo an toàn vốn, không trái với các qui định của pháp luật hiện hành. Lãi suất và phí ủy thác: lãi suất ủy thác được hai bên trong hợp đồng thoả thuận và qui định thống nhất trong hợp đồng; PVFC được hưởng mức phí ủy thác bằng chênh lệch giữa lãi suất ủy thác và lãi suất mà PVFC được hưởng từ việc quản lý và kinh doanh vốn ủy thác. Các rủi ro trong quản lý vốn do PVFC chịu.
Hình thức thứ hai: là hình thức ủy thác quản lý vốn trong đó bên ủy thác vốn cho PVFC để PVFC quản lý và kinh doanh theo các danh mục và phương án đã được bên ủy thác chấp nhận (có thể do PVFC tư vấn ). Bên ủy thác là người cuối cùng quyết định và phê duyệt danh mục hay phương án kinh doanh. Lãi suất ủy thác do hai bên thoả thuận và được ghi rõ trong hợp đồng. Bên ủy thác và PVC thoả thuận thống nhất mức phí ủy thác mà PVFC được hưởng. Các rủi ro trong quản lý và kinh doanh do bên ủy thác chịu, PVFC chịu trách nhiệm bồi thường mọi thiệt hại cho bên ủy thác trong trường hợp do lỗi của PVFC gây ra.
B.2) Qui trình nghiệp vụ:
a) Tiếp nhận vốn ủy thác
+ Trong trường hợp nhận vốn ủy thác theo món: Sau khi kí kết hợp đồng ủy thác quản lý vốn, vào ngày chuyển vốn ủy thác (có trong hợp đồng) bên ủy thác có trách nhiệm chuyển số vốn ủy thác vào các tài kho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29887.doc