Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất và cũng là thành tựu vĩ đại nhất của nền văn minh nhân loại .Tuỳ những yếu tố hoàn cảnh, điều kiện, mục tiêu và các tính chất khác nhau của giao tiếp mà mỗi môi trường giao tiếp khác nhau lời nói có những nghi thức khác nhau tương ứng. Trong môi trưòng giáo dục, ngôn ngữ phải được dùng chính xác, chuẩn mực; hoạt động giao tiếp trong môi trường này được thể hiện trên 3 bình diện :
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1992 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về thực hiện nghi thức nhà nước tại trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy định. Văn thư đóng dấu này bằng mực dấu đỏ vào khoảng trống dưới số và ký hiệu theo đúng quy định của pháp luật.
14) Tên viết tắt người đánh máy và số lượng bản đánh máy hoặc sao chụp: yếu tố này được trình bày tại lề góc phải trang nhất ngang yếu tố địa danh, ngày tháng.
15) Các yếu tố chỉ dẫn phạm vi phổ biến, dự thảo và tài liệu hội nghị, như: “thu hồi”, “xem tại chỗ ", “xem xong xin trả lại”, “lưu hành nội bộ” v.v...
1.5. Công tác lễ tân, tổ chức hội họp, tiếp đãi khách
“Lễ tân” là một nội dung của “Nghi thức nhà nước”. Lễ tân nhà nước là tổng hợp các nghi thức, thủ tục trong việc đón, tiễn, giao tiếp với khách nhằm giải quyết những công việc có liên quan đến quan hệ nội bộ nhà nước, giữa các nhà nước, cũng như giữa nhà nước và công dân. Như vậy, về cơ bản, lễ tân được hiểu là tổng hợp những quy định, nghi thức, thủ tục được các nhà nước tuân thủ thực hiện trong giao tiếp quốc tế.
Tổ chức tiếp khách là một trong những hoạt động quan trọng, một công tác cơ bản của các cơ quan công quyền, các đoàn thể, các tổ chức khác nhau. Công tác này được thực hiện không chỉ nhằm để giao tiếp xã hội thuần thuý, đảm bảo hoạt động thông suốt đối với các hệ quả của quá trình quản lý, mà còn tạo cho các nhà quản lý có điều kiện xem xét, đánh giá hiệu quả công việc từ phía bên ngoài.
Việc tiếp khách đến giao dịch cần được tiến hành đảm bảo các yêu cầu nhất định. Trước tiên, cần được bố trí phòng thường trực cơ quan để khách ngồi đợi trước khi vào làm việc. Tại đây cần treo bảng nội quy tiếp khách có nội dung ngắn gọn để khách biết cần phải làm gì khi có việc đến giao dịch. Nhân viên trực có trách nhiệm niềm nở chào và hỏi khách đến gặp ai, đã có hẹn trước chưa v.v.... Sau đó nhân viên trực nhanh chóng thông báo chính xác về sự hiện diện của khách để người có trách nhiệm ra tận phòng thường trực đón và hướng dẫn khách về phòng làm việc của mình.
- Để làm việc đón khách vào, lãnh đạo cơ quan có thể thân hành hoặc thông qua người thư ký. Lúc này, người thư ký có vai trò hết sức quan trọng, bởi lẽ đó là nhân vật đại diện đầu tiên của cơ quan, đơn vị đối với khách, tạo nên ấn tượng đầu tiên cho khách và nếu đó là ấn tượng tốt thì công việc có thể được nói là” đầu xuôi đuôi lọt”. Thêm nữa, người thư ký còn là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu của một số khá lớn khách đến giao dịch với lãnh đạo cơ quan, tổ chức. Người thư ký có trách nhiệm đón khách một cách niềm nở, thân thiện, tin tưởng, bình tĩnh, không bao giờ hoảng sợ, trả lời khách một cách có ý thức, rõ ràng, lễ độ. Nếu đang bận nói chuyện qua điện thoại hoặc một việc gì khác không thể dừng, thì người thư ký vẫn phải chào hỏi khách để khách biết là sẽ được tiếp ngay sau khi người thư ký đó xong việc. Việc từ chối đón tiếp một người khách nào đó phải được thực hiện một cách hết sức thận trọng, lịch sự. Người thư ký cũng có trách nhiệm chào khách lúc khách làm việc với lãnh đạo xong ra về.
Khi đón tiếp khách nước ngoài lại càng phải chú trọng đến việc thực hiện sao cho khách có ấn tượng ban đầu về sự nồng hậu, thân thiện của sự đón tiếp.
Việc đón tiếp các đoàn khách có khác nhau về mặt nghi lễ tuỳ theo tính chất của mỗi đoàn. Công tác này đã được quy định tại Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 186/HĐBT ngày 2-6-1992 ban hành “ Quy định một số nghi lễ nhà nước và tiếp khách nước ngoài” và các văn bản khác có liên quan.
Bố trí chỗ ngồi cho khách là công việc tiếp theo không kém phần quan trọng trong công tác lễ tân, nó ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung và hiệu quả của hoạt động được tổ chức.
Bố trí chỗ ngồi phải thích hợp theo thứ bậc của từng người. Tuỳ theo tính chất, nội dung của từng loại hoạt động mà có cách bố trí sao cho thích hợp. Sắp xếp cho những người tham gia hội nghị, hội thảo, họp bàn, hội đàm v.v... phải theo những nguyên tắc nhất định, đó là:
1) Nguyên tắc ngôi thứ: ngôi thứ và cấp bậc được dựa trên các nguồn khác nhau như từ danh sách các ngôi thứ chính thức do nhà nước và tổ chức định chế công bố, từ tập quán ngoại giao ngày càng được hoàn thiện theo năm tháng trong quan hệ quốc tế, từ sự tôn kính đối với một số thành viên trong xã hội hay phép tắc xã giao giữa các thành viên của cộng đồng.
2) Nguyên tắc ”đoàn khách tự định đoạt”: chỗ ngồi của khách nước ngoài cùng một nước do chính quyền nước đó xác định; đoàn khách tự chỉ định người đứng đầu và thứ bậc của mỗi người.
3) Nguyên tắc bình đẳng giữa các nước: cần xác định những tiêu chuẩn khách quan để xác lập ngôi thứ các nguyên thủ quốc gia với nhau và giữa các phái đoàn với nhau, ví dụ như: sắp xếp theo thâm niên chức vụ, xếp chỗ theo thứ tự vần chữ cái tên của nước có đại diện hoặc rút thăm.
4) Nguyên tắc ngôi thứ không uỷ quyền: một người khi đại diện một người khác thì không thể được đối xử như người mình đại diện. Trừ trường hợp liên quan đến nguyên thủ quốc gia. Để có những vinh dự như nhau, người thay thế phải cùng cấp. Một người thay thế có thứ bậc thấp hơn không nhất thiết phải được mời phát biểu hoặc lên bục danh dự.
5) Nguyên tắc ”nhường chỗ”: chủ một buổi lễ tiếp một nhân vật cấp bậc cao hơn sẽ lịch sự nhường chỗ quan trọng nhất (vị trí số 1: vị trí trung tâm, sau đó vị trí đối diện hoặc bên tay phải là vị trí số 2) cho khách.
6) Nguyên tắc tuổi tác và thâm niên: người nhiều tuổi xếp trên người ít tuổi, người cùng chức vụ có thâm niên lâu hơn được xếp trước, người tiền nhiệm xếp sau người đương nhiệm.
7) Nguyên tắc ưu tiên phụ nữ: khách nữ có cùng cấp bậc được ưu tiên xếp trước khách nam.
8) Nguyên tắc "người được mời": các cặp vợ chồng được xếp chỗ theo cấp bậc người giữ cương vị được mời.
9) Nguyên tắc "dân sự trước tôn giáo": các chức sắc tôn giáo xếp sau các chức sắc dân sự tại các buổi lễ thông thường.
10) Nguyên tắc người có công: ưu tiên những người có huân, huy chương, được những giải đặc biệt, có uy tín trong các lĩnh vực nghệ thuật, khoa học v.v....
11) Nguyên tắc bên phải trước bên trái sau: người quan trọng nhất ở bên phải chủ nhân rồi người quan trọng thứ hai ở bên trái và cứ thế xen kẽ tiếp theo.
12) Nguyên tắc "đối diện tương đồng": Chủ nhân ngồi đối diện với với khách chính, sau đó theo quy tắc phải trái và xen kẽ sẽ xếp các vị chủ, khách khác. Chủ - khách có thể ngồi theo kiểu “ Chủ toạ kiểu Pháp”, hoặc “ Chủ toạ kiểu Anh”. “Chủ toạ kiểu Pháp” là kiểu sơ đồ bàn, theo đó chủ và khách ngồi chính giữa bàn, đối diện nhau. Các vị trí tiếp theo theo nguyên tắc "phải trước trái sau". Còn "chủ toạ kiểu Anh" là kiểu sơ đồ bàn, theo đó chủ và khách chính ngồi ở hai đầu bàn, đối diện nhau. Các vị trí tiếp theo vẫn theo nguyên tắc "phải trước trái sau".
1.6. Kỹ năng giao tiếp (cử chỉ, lời ăn, tiếng nói, trang phục...)
Có thể thấy, trong giao tiếp, con người luôn luôn thể hiện một lực hấp dẫn nào đó để thực hiện ý đồ giao tiếp của mình và cái hấp dẫn đó phần nào tiềm ẩn trong năng lực ứng xử và khả năng khai thác năng lực đó ở mỗi cá nhân. Sự hấp dẫn đó được truyền đạt tới đối tượng giao tiếp thông qua trang phục, những cái bắt tay, giọng nói, vóc dáng, hoạt động nội tâm được biểu hiện bởi những yếu tố ngôn ngữ điệu bộ đó.
1) Trang phục
Trang phục của công chức nhà nước khi đón tiếp, làm việc với khách nước ngoài và trong giờ làm việc phải chỉnh tề, lịch sự, sao cho thể hiện được tính văn minh, tôn trọng khách và sự tôn trọng mình của mỗi cá nhân công chức.
Theo Thông báo của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng số 11/TB ngày 12/9/1992 qui định y phục của công chức nhà nước trong giờ làm việc ở công sở như sau:
a- Đối với nam:
- Mùa nóng mặc bộ comlê màu nhạt, vải mỏng hoặc không mặc áo vét (chỉ mặc áo sơ mi dài tay hoặc ngắn tay bỏ trong quần, có thắt cra-vat hoặc không thắt cra-vat)
- Mùa lạnh mặc bộ comlê màu sẫm, vải dày, có thắt cra-vat, đi giày hoặc dép có quai hậu.
b- Đối với nữ:
- Mùa nóng mặc áo dài truyền thống.
- Mùa lạnh mặc bộ comlê nữ màu sẫm, vải dày hoặc áo dài có khoác măng tô với thân dài hơn áo, ngoài mặc áo khoác ấm tuỳ điều kiện, đi giày hoặc dép có quai hậu.
2) Dáng điệu, cử chỉ, vẻ mặt là một phương tiện quan trọng, mang tính phi ngôn ngữ. Đối với cán bộ công chức về căn bản phải có điệu bộ chững chạc, khoan thai, đi đứng thẳng người, ngay ngắn, đàng hoàng.
3) Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất và cũng là thành tựu vĩ đại nhất của nền văn minh nhân loại. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, mục tiêu của giao tiếp mà lời nói có những nghi thức khác nhau.
Lời nói công vụ phải đảm bảo tính chính xác, tuân thủ những chuẩn mực sử dụng từ ngữ, tức là sử dụng những từ ngữ văn học, mà không sử dụng những từ ngữ địa phương, tiếng lóng v.v... Cách thức xưng hô trong lời nói công vụ tuy yêu cầu đảm bảo tính khách quan, trang trọng, song cũng tuỳ hoàn cảnh để chọn cách xưng hô cho phù hợp với nghi thức lời nói tiếng Việt nói chung. Trong những trường hợp nhất định có thể dùng những từ xưng hô thông dụng như ông, bà, bác, anh, chị,... song không dùng từ như tao, mày, chú,...
Lời nói công vụ còn có thể đựơc truyền đi qua điện thoại - thiết bị dùng để nói chuyện với nhau ở khoảng cách xa. Khi nói chuyện qua điện thoại cần đảm bảo một số quy ước xã giao sau:
a- Lời nói nhẹ nhàng, nhã nhặn, lịch sự, diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc.
b- Khi gọi đi phải tự giới thiệu ngay tên, địa chỉ và nêu rõ đối tượng cần được tiếp xúc nói chuyện; gặp được đối tượng cần nói chuyện cần có lời chào xã giao và bắt đầu vào thẳng nội dung cần trao đổi; kết thúc trao đổi cần nói lời chào hoặc lời cảm ơn cần thiết.
c- Khi tiếp thoại cần xác định người đàm thoại, địa chỉ của người đó, nếu đúng là đối tượng mình cần trao đổi thì cần đi thẳng vào nội dung cuộc gọi, nếu không thì tìm cách chuyển đạt tiếp hoặc đề nghị có nhắn gì không.
2. Vai trò việc thực hiện nghi thức nhà nước trong hệ thống giáo dục công dân
2.1. Những nội dung của nghi thức nhà nước trong trường học
Con người là nhân tố quyết định trong sự phát triển xã hội. Để có một xã hội văn minh, giàu mạnh và phát triển bền vững thì con người trong xã hội ấy phải là những người có tri thức, có phẩm chất và sức khoẻ tốt, nghĩa là họ phải được đào tạo một cách toàn diện. Chính vì vậy, để thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, để hoà nhập với sự phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác giáo dục, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Theo Điều 2 Luật Giáo dục 1998, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Và cũng theo Điều 4 Luật Giáo dục1998, thì nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại, có tính hệ thống, coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân, bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Như vậy, công tác giáo dục trong trường học không chỉ đơn thuần là truyền đạt, trau dồi cho học sinh, sinh viên những kiến thức, hiểu biết về khoa học, văn học, toán học, lịch sử... mà còn giáo dục cả về đạo đức, về tư tưởng, về hành vi và cách ứng xử đối với môi trường xung quanh. Sao cho những kiến thức họ học được ở trường phải được vận dụng vào cuộc sống, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Người học sinh phải hiểu biết một cách đúng đắn về những “lễ nghi” cần thiết, đó là cách ứng xử với những người xung quanh, với thầy cô, bạn bè, gia đình, họ hàng... và cả những ‘lễ nghi” của một người công dân đối với Tổ quốc, đó là ý thức tôn trọng và niềm tự hào đối với các biểu tượng quốc gia, thể hiện tinh thần yêu nước, ý thức được trách nhiệm của mình đối với nền độc lập dân tộc
Ngay từ những ngày đầu ngồi trên ghế nhà trường, học sinh đã phải tuân thủ một nghi thức trường học là: đọc 5 điều Bác Hồ dạy trước buổi học, với nội dung:
Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm
Nghi thức Nhà nước trong trường học, do đó, bao gồm những nội dung sau:
- Giáo dục cho học sinh, sinh viên cách thức quan niệm đúng đắn, có ý thức tôn trọng và có niềm tự hào với các biểu tượng quốc gia.
- Trang trí trường học văn minh, khoa học.
- Giao tiếp ngôn ngữ.
- Giao tiếp phi ngôn ngữ.
2.2. ý thức tôn trọng và sử dụng đúng các biểu tượng quốc gia
Biểu tượng quốc gia là những hình tượng tượng trưng cho một nước, đó là Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy, Quốc hiệu..., nó biểu tượng một cách rõ ràng quyền lực của nhân dân ta, chủ quyền của mình đối với lãnh thổ, cương vực đã được phân định.
Việc giáo dục cho học sinh, sinh viên có thái độ nghiêm túc, tôn trọng và sử dụng đúng các biểu tượng quốc gia rất quan trọng, khi nhận thức đúng đắn về nó sẽ tránh được những sai phạm không đáng có.
Theo Dussault, "Bản thân lá cờ không chỉ là đối tượng giao tiếp, vì chúng hàm chứa ý nghĩa, mà việc sử dụng cờ còn là một ngôn ngữ cần phải biết để hiểu cho đúng; khi dùng đúng, ta đảm bảo truyền tải đúng ý định của mình. Việc cắm cờ sai chí ít cũng bị coi là không hiểu biết, còn tệ hại nhất sẽ bị coi như một sự miệt thị hoặc thậm chí thù địch. Trong bối cảnh quan hệ căng thẳng, người ta sẽ thật sự suy diễn khiếm khuyết như là biểu hiện của một sự cố ý. Một "trận đấu về cắm cờ" dễ xảy ra những sơ ý như vậy. Chính vì thế, để tránh việc sử dụng cờ do vô ý gây ra ngạc nhiên hoặc hiềm khích mà người ta đã có những quy định lễ tân hướng dẫn việc sử dụng cờ".
Theo quy định, các trường học phải tổ chức chào cờ và hát quốc ca vào buổi sáng thứ hai hàng tuần trước giờ học đầu tiên.
Tại các buổi lễ như khai giảng, bế giảng cần tổ chức chào cờ nghiêm túc theo đúng quy định của Nhà nước.
Biểu tượng quốc gia, đặc biệt Quốc kỳ, Quốc ca còn khẳng định vị trí của đất nước ta trên trường quốc tế trong các cuộc thi đấu thế giới hay khu vực. Ví dụ như: trong những đợt thi quốc tế về Toán học, Vật lý hay Thể thao, khi những thí sinh của ta đoạt giải, họ mới chỉ thấy sự vui mừng cho bản thân, nhưng khi đứng trên bục danh dự để chào cờ và cử nhạc Quốc ca trước lúc chính thức nhận huy chương thì họ mới tỏ rõ niềm xúc động, niềm tự hào dân tộc, và thể hiện hết được danh dự của bản thân khi mang lại chiến thắng vẻ vang cho tổ quốc.
2.3. Trang trí trường học
Trường học là một tổ chức đào tạo-giáo dục, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng đào tạo-giáo dục cần phải có một môi trường tốt. Môi trường đó trước tiên phải sạch sẽ, gọn gàng, thoáng mát. Biển hiệu tên trường, nội quy trường hay những câu khẩu hiệu phải được đặt ở những nơi vừa tầm mắt người đọc, phù hợp với quang cảnh chung của trường, các phòng, ban, lớp học phải được bố trí khoa học, đảm bảo an toàn, chống hoả hoạn, có cường độ ánh sáng thích hợp, thông gió, có nhiệt độ thích hợp, tránh tiếng ồn, sao cho hiệu quả công việc, giảng dạy đạt được cao nhất.
Quyết định số 1221/2000/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ y tế về việc ban hành Quy định về vệ sinh trường học , có nội dung như sau :
-Trường học xây dựng ở nơi cao ráo, sạch sẽ, sáng sủa, yên tĩnh; xa những nơi phát sinh ra các hơi khí độc hại, khói bụi , tiếng ồn; xa các bến xe, bến tầu, kho xăng dầu, bãi rác, chợ ...; xa các trục đường giao thông lớn, xa sông, suối và thác ghềnh hiểm trở.
-Hướng của trường (hướng cửa sổ chiếu sáng chính của các phòng học) là hướng Nam hoặc Đông Nam.
-Diện tích khu trường phải đủ rộng để làm chỗ học, sân chơi, bãi tập và trồng cây xanh.
-Phòng học được thông gió một cách tự nhiên, đảm bảo mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông, hoặc có hệ thống thông gió nhân tạo như quạt trần, quạt thông gió treo cao trên mức nguồn sáng... để đảm bảo tỷ lệ khí CO2 trong phòng không quá 0,1%.
- Phòng học phải được chiếu sáng tự nhiên đầy đủ, cửa sổ phải có cửa chớp , cửa kính để che nắng và cản mưa, gió lạnh thổi vào .
- Phòng học phải được yên tĩnh. Tiếng ồn trong phòng học không được quá 50 đềxiben (dB)
Quan trọng hơn, trường phải có sân, cột cờ để thực hiện nghi thức chào cờ và hát quốc ca vào sáng thứ 2 hàng tuần, trước buổi học đầu tiên. Các trường phổ thông có một đội trống với bộ đồng phục riêng để phục vụ cho buổi chào cờ đó.
2.4. Giao tiếp phi ngôn ngữ
Giao tiếp là hoạt động trao đổi và sử dụng thông tin hai chiều để nhận biết và tác động lẫn nhau trong quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp giữa con người với nhau để đạt được mục đích nhất định. Hoạt động này có thể được thực hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, mà trong đó theo các nhà nghiên cứu thì vai trò cơ bản (dùng cho khoảng 60-70% hoạt động giao tiếp) thuộc về các phương tiện phi ngôn ngữ.
Trong trường học, các mối quan hệ diễn ra chủ yếu là quan hệ giữa thầy với trò, hoạt động giao tiếp trong quan hệ ấy mang tính chính thức hơn, quy củ hơn so với những môi trường khác; ngôn ngữ, hành vi ứng xử của thầy với trò và của trò với thầy đòi hỏi phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Giao tiếp phi ngôn ngữ thường biểu hiện ở hành vi ứng xử, cử chỉ, thái độ, trang phục của thầy giáo cũng như của học sinh.
1) Về hành vi ứng xử, thái độ, cử chỉ:
Có thể thấy, ở các nước phương Tây người ta không chú trọng nhiều đến những nghi lễ giao tiếp trong mối quan hệ thầy và trò, quan niệm của họ đơn giản hơn, dễ dàng, thoải mái hơn các nước phương Đông. Ví dụ, khi thầy giáo vào lớp, học sinh có thể không phải đứng lên chào thầy; hoặc trong giờ giảng, thầy giáo không nhất thiết phải đứng trên bục giảng, mà có thể ngồi xuống ghế cùng với học sinh, thậm chí ngồi lên bàn học sinh để giảng bài; và học sinh cũng không nhất thiết phải ngồi ghế mà có thể đứng-ngồi hay ra-vào tuỳ thích.
Tuy nhiên, hành vi ứng xử trong mối quan hệ thầy trò ở nước ta không được thoải mái như vậy, mà phải tuân theo những phép tắc nhất định . Nước ta là nước á Đông, chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo nên rất coi trọng lễ nghĩa: "Tiên học lễ , hậu học văn", đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Vì vậy, học sinh đối với thầy giáo phải lễ phép, có tôn ti trật tự, có thái độ tôn sư trọng đạo, biết ơn thầy cô và phải thực hiện những nghi thức trong lớp học như :
- Khi thầy giáo vào lớp để bắt đầu buổi học, học sinh phải đứng lên chào thầy với thái độ trang nghiêm, không nói cười hay quay ngang quay dọc lúc đứng chào.
- Trong giờ học, học sinh phải trật tự, chăm chú lắng nghe thầy giáo giảng bài, không nói chuyện riêng, gây ồn ào, bởi lẽ, nếu ngược lại tức là học sinh có thái độ không tôn trọng thầy, dễ gây phân tán, mất tập trung giảng dạy cho thầy giáo, làm cho bài giảng không đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, học sinh phải tuân theo sự chỉ huy của thầy giáo, khi muốn phát biểu phải xin phép thầy, có thể nói: "Thưa thầy, em xin phép có ý kiến ạ", thầy giáo đồng ý thì mới được phát biểu; hoặc muốn ra ngoài cũng phải xin phép thầy, không được ra vào tuỳ tiện.
- Khi hết giờ, học sinh phải đứng lên chào thầy một cách trang nghiêm trước khi ra về. Nếu gặp thầy giáo ngoài đường, học sinh cũng phải lễ phép chào thầy, tôn trọng thầy như trong lớp học.
Bắt tay cũng là một cử chỉ giao tiếp dùng tay nắm lấy tay người khác để chào hay để tỏ tình thân thiện. Tuy nhiên, khi gặp thầy cô giáo, học sinh không được bắt tay thầy trước, mà chỉ chào thầy; khi thầy đưa tay ra trước thì học sinh mới được phép bắt tay.
Ngược lại, giáo viên cũng cần có thái độ tôn trọng và thân mật với học sinh, tránh tình trạng đặt khoảng cách quá xa giữa thầy với trò, gây cho học sinh khó tiếp cận với thầy để trao đổi bài học khi có khó khăn, khúc mắc. Thầy giáo cần tỏ thái độ tâm huyết, nhiệt tình với học sinh, tất cả vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, "tất cả vì học sinh thân yêu".
2) Về trang phục:
Trang phục cũng là một phương tiện phi ngôn ngữ của hoạt động giao tiếp. Một bộ quần áo sạch sẽ, là ủi thẳng nếp, giản dị, phù hợp với người mặc thể hiện sự tự trọng ,thái độ nghiêm túc, lịch sự trong giao tiếp, sẽ gây ấn tượng tốt, dễ gần, sự thân thiện ngay khi mới tiếp xúc lần đầu. Bởi lẽ, trước tiên mọi người nhìn thấy rồi sau đó mới nghe thấy chúng ta, cách ăn mặc biểu hiện cách xử sự lịch thiệp của ta, mà không cần chúng ta phát ngôn, hơn thế, cơ hội phát ngôn không phải là dễ, và nếu có được cơ hội đó thì không phải ai cũng quan tâm lắng nghe. Chính vì vậy, mỗi người cần ý thức đúng đắn về trang phục, ăn mặc sao cho thích hợp với mình và với hoàn cảnh giao tiếp. Đặc biệt là trong trường học, vấn đề về trang phục cần phải được quan tâm lưu ý và phải được chuẩn hoá.
Đối với học sinh, trang phục phải giản dị, gọn gàng, chỉnh tề, không được tuỳ tiện, luộm thuộm, thiếu nghiêm túc, không mặc những trang phục hở hang, quá loè loẹt hay lập dị. Nhiều trường phổ thông nước ta đã có đồng phục riêng cho học sinh, tuy nhiên cũng nên có cũng nên có huy hiệu riêng của trường để cán bộ, giáo viên, học sinh đeo khi đến trường dạy và học. ở các nước khác, học sinh, sinh viên có lễ phục để mặc riêng trong ngày lễ, biểu hiện sự trang nghiêm hơn trong những ngày lễ đó, nước ta cũng nên áp dụng hình thức lễ phục này. Hiện nay các trường đại học của ta có bộ lễ phục riêng mặc trong buổi lễ nhận bằng tốt nghiệp đại học, tuy nhiên, bộ lễ phục này chưa được gọn gàng, có phần lai căng, nên chăng cách tân một chút để gọn gàng, tiện lợi và phù hợp với truyền thống dân tộc hơn .
Đồ trang sức là một yếu tố quan trọng để tôn vinh vẻ đẹp của con người. Tuy nhiên, đồ trang sức quá đắt tiền và lộng lẫy không phù hợp với học sinh, sinh viên và giảng viên, dễ gây phân cấp xã hội trong lớp học và bị tách biệt khỏi môi trường lóp học chung . "Ăn mặc thích hợp là biết cách cư xử, và vì vậy phải tính đến tập quán của từng môi trường xã hội, hoặc nghề nghiệp, phải tính đến cương vị và tuổi tác của từng cá nhân cũng như hoàn cảnh cụ thể. Nếu xa rời những chuẩn mực trong phục trang, ta có nguy cơ khiến người khác nghĩ rằng ta đã mắc một sai lầm, như vậy còn có thể tha thứ được, hoặc có thể ta đã thiếu suy xét , một điều khó tha thứ hơn, và nguy hại hơn là khiến người khác nghĩ rằng ta chỉ trích phong cách của người đối thoại vì ta tỏ ra khác biệt với họ "(Dusault L. Sđd. tr. 199).
2.5. Giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất và cũng là thành tựu vĩ đại nhất của nền văn minh nhân loại .Tuỳ những yếu tố hoàn cảnh, điều kiện, mục tiêu và các tính chất khác nhau của giao tiếp mà mỗi môi trường giao tiếp khác nhau lời nói có những nghi thức khác nhau tương ứng. Trong môi trưòng giáo dục, ngôn ngữ phải được dùng chính xác, chuẩn mực; hoạt động giao tiếp trong môi trường này được thể hiện trên 3 bình diện :
1) Giao tiếp giữa thầy với trò và giữa trò với thầy:
a- Giao tiếp giữa thầy với trò :
Thầy giáo là người trực tiếp truyền tải cho học sinh kiến thức cũng như hiểu biết của mình, vì vậy, ngôn ngữ trong giảng dạy và giao tiếp với học sinh cần chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu; sao cho học sinh nắm bắt ngay được ý định mình muốn truyền đạt mà không hiểu sai lệch nội dung. Khi đối thoại với học sinh, thầy giáo có thể xưng Tôi, Thầy và gọi Bạn, Em; và dùng lời nói thân thiện, niềm nở, tạo sự thoải mái tự nhiên cho học sinh.
b- Giao tiếp giữa trò với thầy:
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa, đất nước ta đang dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, và do đó cũng tiếp thu nhiều điều mới mẻ của nhân loại. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức được rằng, việc tiếp thu ấy cần có sự chắt lọc, chỉ tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, và phải đảm bảo bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc."Tôn sư trọng đạo " là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Không vì tính tự do của nền kinh tế thị trường mà chúng ta có quan niệm thoải mái hơn, lỏng lẻo hơn trong việc sử dụng lời nói, ngôn ngữ của học sinh đối với thầy giáo; mà hơn bao giờ hết, khi càng phát triển hiện đại, tiên tiến bao nhiêu chúng ta càng phải giữ gìn, phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc ấy bấy nhiêu, để khẳng định sức mạnh của ta trên trường quốc tế không chỉ về kinh tế mà còn cả về văn hoá. Chính vì vậy, học sinh nói với thầy giáo phải nhẹ nhàng, lễ phép, có thưa gửi, bày tỏ sự tôn kính với thầy, không được nói trống không.
c- Giao tiếp giữa trò với trò:
Quan hệ giữa học sinh với học sinh là quan hệ đồng trang lứa, quan hệ bạn bè, nên việc sử dụng ngôn ngữ có thể thoải mái hơn. Tuy nhiên, thoải mái không phải là nói gì cũng được, mà phải có mức độ, phải giữ được mức lịch sự cần thiết, đặc biệt không được chửi thề hay những từ ngữ không có văn hoá. Trong đối thoại có thể xưng Tôi, Tớ, và gọi Bạn, Cậu.
2) Giao tiếp giữa học trò đối với xã hội nói chung:
Ngoài giao tiếp ở trường học với thầy cô giáo và bạn bè, học sinh còn giao tiếp với những mối quan hệ khác, đó là những giao tiếp hàng ngày với hàng xóm, bố mẹ, họ hàng, người thân và xã hội nói chung. Việc dùng lời nói, ngôn ngữ chuẩn mực không chỉ được quy định riêng trong trường học mà nó còn phải được áp dụng cả khi giao tiếp ngoài xã hội. Bởi lẽ, cách ứng xử, nói năng ngoài xã hội sẽ thể hiện mặt bằng chung, trình độ dân trí chung của công dân, đặc biệt là của học sinh, sinh viên. Trong giao tiếp xã hội nói chung, học sinh càng không được thoải mái như trong giao tiếp với bạn bè, mà càng phải lễ ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34247.doc