ĐẶT VẤN ĐỀ 1
PHẦN 1 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC DẠY NGHỀ 3
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN TỚI CÔNG TÁC DẠY NGHỀ 3
1. Nghề và trình độ nghề 3
2. Công nhân kĩ thuật 4
3. Đào tạo nguồn nhân lực 5
II. ĐÀO TẠO NGHỀ 6
1. Khái niệm: 6
2. Phân loại đào tạo nghề 6
3. Hệ thống cơ sở dạy nghề 7
III. TRƯỜNG DẠY NGHỀ VÀ TRUNG TÂM DẠY NGHỀ 8
1. Trường dạy nghề 8
1.1. Đặc điểm cơ bản 8
1.2. Phân loại trường dạy nghề theo hình thức sở hữu và quyền quản lý trực tiếp 8
2. Trung tâm dạy nghề 9
IV. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ. 10
1. Nhận thức của xã hội về đào tạo nghề 10
2. Cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở dạy nghề 11
3. Chương trình, giáo trình dạy nghề 11
4. Giáo viên dạy nghề 12
5. Các chính sách của Nhà nước liên quan tới công tác dạy nghề 12
V. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ 13
1. Kinh nghiệm đào tạo nghề ở một số nước 13
1.1. Công tác dạy nghề ở Cộng hòa liên bang Đức. 13
1.2 Nhật Bản 14
1.3. Hàn Quốc 15
2. Sự cần thiết phải phát triển công tác đào tạo ở Việt Nam. 15
PHẦN 2 17
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY NGHỀ CỦA CÁC TRƯỜNG DẠY NGHỀ VÀ CÁC TRUNG TÂM DẠY NGHỀ 17
(Từ phần 2 gọi tắt các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề là các cơ sở dạy nghề) 17
I - THỰC TRẠNG PHÂN BỐ CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ 17
1. Phân bố các cơ sở dạy nghề theo vùng lãnh thổ, khu vực kinh tế trọng điểm 17
2. Phân bố các cơ sở dạy nghề theo cấp quản lý. 19
2.1 Với khối trường dạy nghề 20
2.2 Với trung tâm dạy nghề 20
3. Các cơ sở dạy nghề chia theo nhóm nghề 21
4. Cơ sở dạy nghề theo công suất thiết kế và công suất đào tạo. 23
4.1. Trường dạy nghề 24
4.2 Trung tâm dạy nghề 26
II. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ THỰC TRẠNG HỌC SINH HỌC NGHỀ 27
1. Số lượng 27
2. Chất lượng của học sinh học nghề 28
2.1 Về dạy lý thuyết 28
2.2. Về dạy thực hành 29
2.3. Về giáo dục ý thức và tác phong lao động 30
2.4. Thời gian tập việc 31
III. CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ 32
A. Nhà xưởng 32
1. Trường dạy nghề 32
2.Trung tâm dạy nghề 35
2.1 Diện tích mặt bằng 35
2.2 Chất lượng nhà xưởng 35
2.3 Về đầu tư xây dựng nhà xưởng 36
B. Trang thiết bị 36
1. Trường dạy nghề 36
1.1 Mức đầu tư cho trang thiết bị qua các năm 36
1.2 Chất lượng trang thiết bị 37
2. Trung tâm dạy nghề 39
2.1 Mức đầu tư cho trang thiết bị qua các năm 39
2.2 Về chất lượng trang thiết bị 39
IV. CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH, GIÁO TRÌNH TRONG CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ 40
1. Chương trình đào tạo. 40
1.1 Khối các trường dạy nghề. 40
1.2 Khối các trung tâm dạy nghề. 40
2. Giáo trình giảng dạy. 42
2.1 Khối các trường dạy nghề: 42
2.2 Khối các trung tâm dạy nghề. 42
V. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ 43
1. Đội ngũ giáo viên theo nhiệm vụ chính 43
1.1 Đối với trường dạy nghề 43
1.2 Đối với trung tâm dạy nghề 44
2. Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo hình thức tham gia giảng dạy 44
3. Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo thâm niên giảng dạy 47
4. Tương quan giữa quy mô giáo viên và quy mô đào tạo của các 48
cơ sở dạy nghề 48
5. Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo tuổi 49
6. Mức độ phù hợp giữa chuyên ngành được đào tạo và chuyên môn đang giảng dạy của đội ngũ giáo viên 51
7. Trình độ chuyên môn kĩ thuật của đội ngũ giáo viên 52
8. Trình độ sư phạm 53
9.Trình độ tin học 54
10.Trình độ ngoại ngữ 55
VI. CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DẠY NGHỀ 56
PHẦN 3 58
KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC DẠY NGHỀ Ở CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ 58
I . MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO NGHỀ 58
II- MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC DẠY NGHỀ Ở CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ 59
1. Quy hoạch sắp xếp lại mạng lưới cơ sở dạy nghề 59
2. Đối với đội ngũ giáo viên giảng dạy 61
3. Đổi mới chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học. 65
4. Chính sách thu hút học sinh học nghề 68
5. Chính sách của Nhà nước về đào tạo nghề 70
KẾT LUẬN 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số ý kiến về công tác dạy nghề của trường dạy nghề và trung tâm dạy nghề, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của doanh nghiệp về chất lượng đào tạo thực hành của các cơ sở dạy nghề
Đơn vị:số ý kiến
Loại hình
Doanh nghiệp
Trường dạy nghề
Trung tâm dạy nghề
Tốt
Tương đối
Trung bình
Kém
Tốt
Tương đối
Trung bình
Kém
1. Doanh nghiệp nhà nước
54
57
18
2
0
2
6
2
2. Doanh nghiệp tư nhân
55
47
8
3
0
8
2
0
3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
6
12
13
3
0
0
8
2
Đối với trường dạy nghề:
Doanh nghiệp tư nhân nhận xét việc dạy thực hành trong các trường dạy nghề cao hơn so với đánh giá của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có đến 48,67% ý kiến của doanh nghiệp tư nhân cho rằng trường dạy nghề dạy thực hành tốt, chỉ có 7,08% cho rằng đạt mức trung bình và 2,65% đánh giá là kém. Trong khi đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đánh giá chất lượng dạy thực hành ở trường dạy nghề là thấp nhất: chỉ 20,69% đánh giá loại tốt, có đến 44,83% cho là chỉ ở mức trung bình và 10,34% đánh giá loại kém
Đối với trung tâm dạy nghề:
Nhận xét của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về dạy thực hành của trung tâm dạy nghề tương tự như về dạy lý thuyết: đa số ý kiến cho rằng chỉ ở mức trung bình và kém.
Tóm lại, các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhận xét chất lượng dạy thực hành ở các cơ sở đào tạo kém hơn so với chất lượng dạy lý thuyết.
2.3. Về giáo dục ý thức và tác phong lao động
Đây là yếu tố quan trọng hình thành nên nhân cách và là một phẩm chất không thể thiếu của người lao động đồng thời tác động lớn đến năng suất lao động.
Biểu7: Nhận xét của doanh nghiệp về giáo dục ý thức và tác phong lao động của các cơ sở dạy nghề
Đơn vị:số ý kiến
Loại hình
doanh nghiệp
Trường dạy nghề
Trung tâm dạy nghề
Tốt
Tương đối
Trung bình
Kém
Tốt
Tương đối
Trung bình
Kém
1. Doanh nghiệp nhà nước
61
61
9
0
0
3
6
1
2. Doanh nghiệp tư nhân
58
38
17
0
0
7
2
1
3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
7
17
6
4
0
1
7
2
Đối với trường dạy nghề
Tỉ lệ ý kiến nhận xét tốt, tương đối tốt, trung bình và kém của các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối với việc giáo dục ý thức và tác phong lao động tương ứng là: trong đó, doanh nghiệp nhà nước đánh giá cao về trường dạy nghề, ngược lại, doanh nghiệp có vốn đầu tư chưa hài lòng với ý thức và tác phong lao động của những người học từ trường dạy nghề .
Đối với trung tâm dạy nghề :
Đa số ý kiến cho rằng chất lượng xây dựng ý thức và tác phong lao động của các trung tâm dạy nghề chỉ đạt mức trung bình. Cả 3 loại doanh nghiệp đều không có ý kiến đồng ý đạt loại tốt.
Như vậy, có thể thấy rằng các cơ sở dạy nghề chưa quan tâm tới việc giáo dục ý thức và tác phong lao động, mà người lao động Việt Nam đang rất thiếu do ảnh hưởng nặng nề của nề nếp sản xuất cũ, quan liêu, bao cấp gây ra.
2.4. Thời gian tập việc
Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có những đánh giá khác nhau về thời gian cần thiết để công nhân kỹ thuật tuyển mới làm quen với công việc, tương ứng là: 6,6 – 3,9 – 8,5 tuần.
Theo đánh giá của chính công nhân kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp thì thời gian trung bình cần thiết để có thể đáp ứng tốt yêu cầu công việc tại vị trí đảm nhận là khoảng 5,85 tuần, ngắn hơn so với đánh giá của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng dài hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Để làm quen với công việc, 82,86% ý kiến cho rằng phải tự học trong quá trình làm việc là chính; 12,79% ý kiến đề cập tới hình thức học bổ sung do các doanh nghiệp tổ chức; có 4,35% cho rằng cần học lại từ đầu do doanh nghiệp tổ chức.
Thời gian tập việc tại các doanh nghiệp cho thấy:
Thời gian tập việc phụ thuộc vào trình độ công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng.
Việc đào tạo tại các cơ sở dạy nghề không thể thoả mãn tuyệt đối nhu cầu của các doanh nghiệp
Để khắc phục tình trạng này thì việc gắn đào tạo với các cơ sở sản xuất kinh doanh là một nhu cầu thực tế khách quan. Chỉ có gắn đào tạo với sử dụng mới nâng cao được hiệu quả đào tạo, rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng.
Qua những phân tích tổng quát trên đây, có thể đánh giá rằng việc đào tạo ở các trung tâm dạy nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Các phần sau sẽ làm rõ hơn các yếu tố tác động cơ bản tới công tác dạy nghề của các cơ sở dạy nghề:
Cơ sở vật chất
Chương trình, giáo trình
Đội ngũ giáo viên
Chính sách của Nhà nước về đào tạo nghề
III. Cơ sở vật chất của các cơ sở dạy nghề
A. Nhà xưởng
1. Trường dạy nghề
1.1 Diện tích mặt bằng
Diện tích mặt bằng trực tiếp tác động đến công suất thiết kế cũng như khả năng mở rộng đổi mới cơ sở vật chất.
Biểu đồ 4:
Phần lớn trường ngoài công lập có diện tích nhỏ hơn 5000 m2 và không có trường nào có diện tích lớn hơn 40 000 m2. Còn trường công lập: diện tích lớn hơn 40000 m2 chiếm tỷ lệ cao nhất (23%). Diện tích mặt bằng bình quân của một trường là 24,4 nghìn m2, của trường công lập cao gấp 20 lần các trường ngoài công lập, trong khi số học sinh bình quân cao gấp 10 lần. Như vậy về khía cạnh nào đó các trường ngoài công lập đang phải chịu tải lớn hơn.
Biểu 8: Diện tích xây dựng/1 học viên và số phòng học/1000 đang đào tạo học viên của các trường
Cấp quản lý
Hình thức sở hữu
Diện tích xây dựng /1 học viên (m2)
Diện tích phòng học /1 học viên (m2)
Số phòng học trên 1000 học viên (phòng)
Trung ương
Công lập
21.55
2.42
21.29
Ngoài công lập
8.09
3.68
89.57
Chung
21.08
2.46
23.64
Địa phương
Công lập
14.08
1.65
20.71
Ngoài công lập
5.20
2.26
114.09
Chung
9.22
1.98
71.85
Tổng số
Công lập
18.53
2.11
21.06
Ngoài công lập
5.32
2.32
113.07
Chung
14.06
2.18
52.16
Về diện tích phòng học trên 1 học sinh thì không có sự khác nhau lớn giữa các trường công lập và ngoài công lập (2,1 và 2,3 m2/học viên) và giữa các trường ở trung ương và địa phương (2,46 và 1,98 m2). Có sự khác nhau lớn giữa tổng diện tích xây dựng giữa các trường trung ương và địa phương (gấp 6 lần) và giữa các trường công lập và ngoài công lập (gấp 19 lần). Điều đó chứng tỏ rằng các diện tích phụ trợ khác cho học tập tính trên một học viên như thư viện, xưởng thực hành... thì các trường công lập và các trường trung ương bảo đảm tốt hơn rất nhiều so với các trường ngoài công lập và các trường địa phương. Số phòng học trên 1000 học viên của các trường ngoài công lập vào gấp 2 lần các trường công lập.
1.2 Chất lượng nhà xưởng
Không có sự khác biệt về tỷ trọng chất lượng phòng học và xưởng thực hành giữa các trường trung ương và các trường địa phương, đồng thời cũng không có sự khác nhau lớn giữa các trường công lập và ngoài công lập. Nhìn chung diện tích phòng học là nhà tạm chiếm từ 5,5% đến 7,5%, nhà kiên cố chiếm từ 64,5% đến 75,5%. Riêng về nhà ở cho học viên thì có sự khác nhau khá lớn về chất lượng nhà của các trường trung ương và các trường địa phương.
1.3 Về đầu tư xây dựng cơ bản
Mức đầu tư bình quân cho một trường ở trung ương qua các năm là: 1997: 537 triệu đồng, 1998: 506 triệu đồng, 1999: 759 triệu đồng và năm 2000 là 683 triệu đồng. Con số này đối với các trường địa phương là 132; 95; 151; và 205 triệu đồng. Ngân sách cấp cho xây dựng cơ bản của các trường trung ương dao động trong khoảng từ 75-79% còn các trường địa phương chỉ từ 42-47%. Điều này cho thấy rằng trong các năm gần đây, nhà nước đã tăng mức đầu tư cho hoạt động dạy nghề mà đặc biệt là giành cho các trường ở trung ương.
Đầu tư xây dựng cơ bản bình quân đối với các trường công lập của năm 1999 và 2000 là gần 530 triệu đồng và nhìn chung là tăng không đáng kể, trong khi ở các trường ngoài công lập là 145 và 153 triệu đồng (bằng khoảng hơn 30% so với các trường công lập). Nhưng rõ ràng là với qui mô nhỏ hơn nhiều thì mức đầu tư của các trường ngoài công lập như vậy là lớn và điều đó cho phép họ nâng cấp được nhà xưởng. Vốn ngân sách đầu tư cho xây dựng cơ bản của các trường công lập chiếm khoảng gần 80%. Mức đầu tư xây dựng cơ bản cho xưởng thực hành, phòng học và phòng thí nghiệm cao hơn so với đầu tư cho xây dựng nhà ở, phòng làm việc.
Xét theo các vùng kinh tế: Thì mức đầu tư cho các trường thuộc các tỉnh ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long là cao nhất và thấp nhất là ở các tỉnh Tây Nguyên. Tuy nhiên riêng năm 2000, mức đầu tư xây dựng cơ bản cho các trường thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng tăng cao hơn nhiều so với các năm trước, điều đó có thể là do hướng ưu tiên của nhà nước.
2.Trung tâm dạy nghề
2.1 Diện tích mặt bằng
Biểu 9: Qui mô của các trung tâm dạy nghề phân theo nhóm diện tích mặt bằng
(Đơn vị: %)
Cấp quản lý
Hình thức
sở hữu
Đơn vị
Nhóm theo Tổng diện tích mặt bằng (1000m2)
<1
1 - <3
3 - <6
6 - <10
>= 10
Trung ương
Công lập
%
18.75
37.50
12.50
31.25
Ngoài công lập
%
25.00
25.00
25.00
25.00
Tỉnh/ thành phố
Công lập
%
24.00
44.00
12.00
20.00
Ngoài công lập
%
71.43
9.52
4.76
4.76
9.52
Quận, huyện
Công lập
%
25.81
41.94
12.90
16.13
3.23
Ngoài công lập
%
80.00
20.00
Chung
Công lập
%
23.61
41.67
12.50
6.94
15.28
Ngoài công lập
%
66.67
6.67
6.67
6.67
13.33
Về qui mô các trung tâm theo diện tích mặt bằng có thể thấy sự khác biệt rất lớn giữa các trung tâm công lập và ngoài công lập. Đa số các trung tâm dạy nghề công lập có qui mô diện tích trong khoảng từ 1.000-3.000 m2 thì các trung tâm ngoài công lập lại chủ yếu có diện tích mặt bằng nhỏ hơn 1.000 m2. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu vì các trung tâm ngoài công lập chủ yếu sử dụng nhà riêng của mình làm cơ sở dạy nghề, còn các trung tâm công lập thì được thuê đất của nhà nước hoặc được nhà nước cấp.
2.2 Chất lượng nhà xưởng
Tỷ trọng nhà kiên cố của các trung tâm dạy nghề về phòng học, xưởng thực hành và nhà ở cho học viên đều cao hơn mức chung cho cả các loại trung tâm(51%). Tỷ lệ nhà bán kiên cố của các trung tâm dạy nghề bằng với mức chung(45%).
Theo hình thức sở hữu thì các trung tâm ngoài công lập lại có tỷ lệ nhà xưởng kiên cố cao hơn các trung tâm công lập kể cả đối với nhà xưởng, phòng học và nhà ở của học viên. Một lần nữa có thể khẳng định rằng các trung tâm ngoài công lập đã sử dụng những diện tích nhà ở còn trống của mình để sử dụng cho mục đích đào tạo nghề.
Nhìn chung phòng học có tỷ lệ phòng học là nhà kiên cố cao nhất còn nhà ở cho học viên thì nhà bán kiên cố có tỷ lệ cao nhất.
2.3 Về đầu tư xây dựng nhà xưởng
Riêng đối với trung tâm dạy nghề thì tổng mức đầu tư cho một đơn vị qua các năm từ 1997-2000 là: 228; 50; 90; và 104 triệu đồng. Trong đó tỷ lệ ngân sách cấp lần lượt chiếm: 43,6%; 54%; 45,3%; và 46,5%. Như vậy mức đầu tư cho các trung tâm dạy nghề nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức chung của các loại trung tâm. Đồng thời tỷ lệ ngân sách cấp trong tổng mức đầu tư cũng thấp hơn. Điều đó cho thấy rằng việc đầu tư cho các trung tâm dạy nghề vẫn chưa thực sự được chú trọng. Tuy nhiên mức đầu tư đang có xu hướng tăng lên.
B. Trang thiết bị
Trường dạy nghề
Mức đầu tư cho trang thiết bị qua các năm
Việc đầu tư cho trang thiết bị đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới trang thiết bị đáp ứng sự thay đổi công nghệ sản xuất.
Biểu 10: Vốn đầu tư cho trang, thiết bị theo hình thức sở hữu của các trường dạy nghề theo các năm
Hình thức
sở hữu
1997
1998
1999
2000
Tổng số (triệu đồng)
Ngân sách cấp
(%)
Tổng số (triệu đồng)
Ngân sách cấp
(%)
Tổng số (triệu đồng)
Ngân sách cấp (%)
Tổng số (triệu đồng)
Ngân sách cấp (%)
Công lập
204
70.88
179
74.92
249
76.40
472
68.13
Ngoài công lập
66
4.70
66
2.27
118
3.72
85
0.00
Chung
158
50.72
141
52.09
205
53.57
342
58.92
Mức đầu tư cho trang thiết bị bình quân của các trường dạy nghề qua các năm từ 1997-2000 là: 158; 141; 205; 342 triệu đồng trong đó ngân sách cấp chiếm từ 50-60%. Như vậy so với đầu tư xây dựng cơ bản thì mức đầu tư cho trang, thiết bị thấp hơn, đồng thời tỷ trọng kinh phí do ngân sách cấp cũng thấp hơn.
Mức đầu tư cho trang, thiết bị tính cho cả giai đoạn 1997-2000 của các trường trung ương cao gấp gần 4 lần các trường do địa phương quản lý (1,5 tỷ so với 400 triệu đồng). Một điều khá bất hợp lý là tỷ trọng ngân sách cấp cho các trường địa phương chỉ chiếm khoảng 35% trong khi đối với các trường trung ương thì tỷ trọng đó là khoảng 75%.
Đầu tư cho trang, thiết bị phục vụ cho thực hành trong 4 năm cao gấp 8 lần trang, thiết bị cho dạy lý thuyết nghề.
Tổng mức đầu tư bình quân cho trang thiết bị của một trường trong bốn năm từ 1997-2000 của các trường công lập cao gấp hơn ba lần các trường ngoài công lập.
1.2 Chất lượng trang thiết bị
1.2.1.Trang, thiết bị cho đào tạo các môn cơ sở
Trang, thiết bị cho đào tạo các môn cơ sở phân theo vùng
Theo thời gian sản xuất: Tính chung cho các trường thì 50% số trang, thiết bị được sản xuất trong giai đoạn từ 1996-2000, 34% được sản xuất trong giai đoạn từ 1986-1995 và vẫn còn 6% số thiết bị được sản xuất từ trước năm 1975.
Theo mức độ hiện đại, nếu tính chung cho tất cả các trường thì đa số trang thiết bị được đánh giá là ở mức trung bình (64,3%), chỉ có 21,8% được coi là hiện đại và 13,6% thuộc loại lạc hậu.
Theo nơi sản xuất có thể thấy: Có tới 65,5% số trang, thiết bị là được sản xuất ở nước ngoài và nhìn chung, số thiết bị được sản xuất ở nước ngoài đều chiếm tỷ trọng lớn nhất đối với tất cả các ngành. 24,8% được sản xuất trong nước và gần 9% là do các cơ sở tự sản xuất hoặc lắp ráp.
Vùng mà các trường có số trang, thiết bị mới cao nhất là Bắc Trung Bộ (81% số thiết bị được sản xuất sau 1995), tiếp đến là các trường thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Vùng Tây Bắc có tỷ lệ thiết bị sản xuất sau 1995 thấp nhất (16,6%). Vùng Đông Nam Bộ lại có tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất trước 1975 lớn nhất (gần 13%).
Theo mức độ hiện đại thì các trường thuộc vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ và Bắc Trung Bộ có tỷ lệ thiết bị được coi là hiện đại cao nhất (42,6% và 38,7%). Vùng Tây Bắc có tỷ lệ thiết bị hiện đại thấp nhất (10%) và đây cũng là vùng có tỷ lệ thiết bị lạc hậu cao nhất (41%).
Hầu như tất cả các vùng, chỉ trừ vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là đều có tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất ở nước ngoài cao nhất. Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có tỷ lệ thiết bị được sản xuất trong nước cao nhất (58%).
Theo cấp quản lý thì trang, thiết bị của các trường do trung ương quản lý có tỷ lệ sản xuất sau năm 1996, tỷ lệ được coi là hiện đại và tỷ trọng nhập khẩu đều cao hơn so với các trường do địa phương quản lý.
Tỷ trọng trang, thiết bị sản xuất trước năm 1975 của các trường ngoài công lập là 17,5%. Đây là một tỷ trọng khá lớn vì trong khi tỷ trọng này đối với các trường công lập chỉ là 2,8%.
1.2.2.Trang, thiết bị cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề
Trang, thiết bị cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề phân theo vùng
Theo thời gian sản xuất: Tính chung cho trường thì 35,8% số trang, thiết bị được sản xuất trong giai đoạn từ 1996-2000; 37,1% được sản xuất trong giai đoạn từ 1986-1995 và vẫn còn gần 11% số thiết bị được sản xuất từ trước năm 1975.
Theo mức độ hiện đại, nếu tính chung cho tất cả các trường thì cũng giống như trang, thiết bị đào tạo các môn cơ sở, đa số trang thiết bị dùng cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề được đánh giá là ở mức trung bình (64,4%), chỉ có 19,4% được coi là hiện đại và 15,2% thuộc loại lạc hậu.
Vùng mà các trường có số trang, thiết bị mới cao nhất là Bắc Trung Bộ (48,2% số thiết bị được sản xuất sau 1995), tiếp đến là các trường thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng (43,8%). Vùng Tây nguyên và Tây Bắc vẫn là vùng có tỷ lệ thiết bị sản xuất sau 1995 thấp nhất (8,2% và 9,6%). Vùng Tây nguyên có tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất trước 1975 lớn nhất (39,9%). Đây là một tỷ lệ quá lớn mà trong kế hoạch đầu tư cần được quan tâm đổi mới.
Theo nơi sản xuất thì đối với tất cả các vùng loại tỷ lệ trang, thiết bị được nhập từ nước ngoài về đều chiếm từ 67% trở lên. Tỷ trọng trang, thiết bị chia theo nơi sản xuất không khác nhau nhiều giữa các vùng. Tỷ lệ lắp ráp và tự sản xuất chiếm tỷ trọng rất thấp đối với tất cả các vùng.
Trang, thiết bị cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề phân theo nghề
Nếu nhìn dưới góc độ nghề đào tạo thì có sự khác nhau lớn về tình trạng trang, thiết bị phục vụ cho đầo tạo các nghề khác nhau. Cụ thể là có nhiều nghề mà tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất sau 1995 chiếm tới trên 60% như: sản xuất các chất vô cơ và phân bón; kỹ thuật điện; vận hành thiết bị điện; kỹ thuật xây dựng; vận hành máy nâng chuyển; vận chuyển đường sắt; khai thác bưu điện; kỹ thuật viễn thông; sản xuất rượu bia, nước giải khát; chế biến sản phẩm cây công nghiệp; tin học…Tuy nhiên cũng có nhiều nghề mà trang, thiết bị sử dụng cho thực hành nghề rất lạc hậu như nghề in; vận hành thiết bị hoá; luyện kim, sửa chữa thiết bị chính xác…Các nghề này có tỷ trọng trang, thiết bị thực hành chiếm tới trên 30% tổng số trang, thiết bị, thậm chí lên tới 83% như nghề vận hành thiết bị hoá.
Trung tâm dạy nghề
2.1 Mức đầu tư cho trang thiết bị qua các năm
Mức đầu tư bình quân cho trang thiết bị từ 1997-2000 là khoảng 100 triệu đồng /trung tâm/năm. trong đó tỷ trọng ngân sách cấp là 30% ;so với các trug tâm khác là 45% thi chứng tỏ các trung tâm dạy nghề chưa được ưu tiên đầu tư.
2.2 Về chất lượng trang thiết bị
-Tỉ trọng trang thiết bị được sản xuất sau năm 1995 là 38%, từ 1986-1995 là 49%, còn lại là sản xuất trước1985 (13%).
Xét theo vùng: Vùng có tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất sau 1995 cao nhất là vùng Đông Nam Bộ (41,6%) và thấp nhất là vùng Đông Bắc (18,9%). Các vùng khác không có sự khác nhau nhiều. Về mức độ hiện đại thì chỉ trừ vùng Bắc Trung Bộ chỉ có 1,3% số trang, thiết bị thuộc loại hiện đại, còn lại các vùng khác tỷ trọng này giao động trong khoảng 20%.
Nói chung, trong khi khoa học công nghệ thay đổi liên tục, xuất hiện nhiều nghề mới thì chất lượng trang thiết bị như trên là trung bình, mức độ đổi mới còn chậm.
IV. Chất lượng chương trình, giáo trình trong các cơ sở dạy nghề
Chương trình đào tạo.
Trong phạm vi phần này, sẽ xem xét các cơ sở dạy nghề có chương trình đào tạo hay không và các chương trình đào tạo có được cấp có thẩm quyền phê duyệt không.
Trong lĩnh vực dạy nghề, chương trình đào tạo gắn với loại nghề đào tạo. Không có chương trình đào tạo chung cho các nghề mà mỗi loại nghề đều có chương trình riêng. Do vậy, một cơ sở dạy nghề có thể có nhiều chương trình đào tạo nếu như cơ sở đó đào tạo nhiều nghề. Điều đó đòi hỏi việc nghiên cứu đánh giá thực trạng về chương trình đào tạo nghề xét ở mức độ có hay không có, không thể chỉ căn cứ vào cơ sở đào tạo nghề mà phải căn cứ vào các nghề mà cơ sở đó đào tạo.
Sau đây là thực trạng về vấn đề này của các khối cơ sở tham gia đào tạo nghề của cả nước qua kết quả khảo sát.
Khối các trường dạy nghề.
Trong tổng số 142 loại nghề mà các trường dạy nghề trong cả nước đang đào tạo có 13 loại nghề mà tất cả các trường dạy nghề đều có chương trình (chiếm 93,0%). Có 10 loại nghề mà trong đó có một số trường không có chương trình đào tạo. Trong số này loại nghề có tỷ lệ trường không có chương trình lớn nhất là: gò (100%); tiếp đến là vận hành quản lý đường dây (20%); Bê tông cốt thép(18,75%); các loại nghề: khảo sát địa hình; rèn; lắp đặt cầu; vận hành máy thi công nền; vận hành máy xúc, lái cẩu; ngoại ngữ; kế toán; cấp thoát nước tỷ lệ này dao động từ 10-17%; các loại nghề còn lại tỷ lệ dưới 10%.
Nhìn chung sau nghề gò và nghề quản lý đường dây, các loại nghề có tỷ lệ trường không có chương trình còn cao là các nghề thuộc vận hành máy xây dựng và thi công.
Khối các trung tâm dạy nghề.
Trong tổng số 67 loại nghề mà các trung tâm dạy nghề trong cả nước đang đào tạo có 19 loại nghề còn một số trường không có chương trình (chiếm 28,4%). Trong đó loại nghề "thêu ren" 100% các trung tâm dạy nghề không có chương trình; tiếp đến là "đúc kim loại"; “thuỷ thủ tàu sông"; "dệt"; "trồng khai thác rừng" 50% các trung tâm không có chương trình. Các loại nghề có tỷ lệ này từ 20 đến dưới 50% là mộc dân dụng; trồng cây lương thực, thực phẩm; thú y; chạm khắc và sản xuất đồ gốm mỹ nghệ. Các nghề còn lại tỷ lệ ở mức dưới 10%.
Khác với khối trường dạy nghề, ở khối các trung tâm dạy nghề, loại nghề có số lượng các trung tâm không có chương trình đào tạo tương đối cao thường tập trung ở các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và sản xuất lâm nghiệp.
Để đánh giá cụ thể hơn về mức độ "chương trình đào tạo nghề" của các nghề đang được đào tạo, chúng ta cần đi sâu phân tích cơ cấu của các loại nghề đã có chương trình đào tạo chia theo cấp ban hành và thời gian ban hành của các khối dạy nghề:
Khối các trường dạy nghề.
34,5% (tức 49/142) loại nghề đang đào tạo có 100% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành.
14,8% (tức 21/142) loại nghề đang được đào tạo có từ 70- <100% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành.
18,3% (tức 26/142) loại nghề đang được đào tạo có từ 50- <70% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành.
12% (tức 26/142) loại nghề đang đào tạo có <50% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành.
18,3% (tức 26/142) loại nghề đang đào tạo có 100% cơ sở đào tạo có chương trình đạo tạo nhưng chưa được cấp có thẩm quyền ban hành hay nói cách khác là tự xây dựng.
Khối các trung tâm dạy nghề.
Các chỉ số tương ứng là:
28,3% (tức 19/67)
6,0% (tức 4/67)
14,9% (tức 10/67)
19,4% (tức 13/67)
28,4% (tức 19/67)
Khu vực các trung tâm dạy nghề có tỷ lệ thấp về số loại nghề đang đào tạo mà ở đó 100% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành. Ngược lại, tỷ lệ số loại đào tạo nghề có 100% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo nhưng chưa được cấp có thẩm quyền ban hành hay nói cách khác là đều tự ban hành. ở khu vực các trường dạy nghề tuy có khá hơn so với khu vực các trung tâm dạy nghề nhưng vẫn thấp. Tình hình trên cho thấy việc quản lý chương trình đào tạo nghề ở hai khu vực là các trường dạy nghề và các trung tâm dạy nghề nói chung còn yếu và cần được quan tâm nhiều trong những năm tới.
Giáo trình giảng dạy.
Đi đôi với chương trình đào tạo, việc có hay không giáo trình dạy nghề cũng là cơ sở để đánh giá trình độ phát triển của cơ sở daỵ nghề nói chung và trình độ đào tạo của từng loại nghề trong cơ sở đào tạo nghề nói riêng.
Kết quả điều tra cho thấy:
Khối các trường dạy nghề:
59,1% (tức 84/142) loại nghề đang đào tạo có 100% sơ sở đào tạo có giáo trình giảng dạy.
22,5% (tức 32/142) loại nghề đang đào tạo có từ 70- <100% cơ sở đào tạo có giáo trình giảng dạy.
9.2% (tức 13/142) loại nghề đang đào tạo có từ 50- < 70% cơ sở đào tạo có giáo trình giảng dạy.
2,8% (tức 4/142) loại nghề đang đào tạo có dưới 50% cơ sở đào tạo có giáo trình giảng dạy.
6,3% (tức 9/142) loại nghề đang đào tạo có 100% cơ sở đào tạo không có giáo trình giảng dạy.
Khối các trung tâm dạy nghề.
Các chỉ số tương ứng là:
- 61,2% (tức 41/67)
- 23,9% (tức 16/67)
- 14,9% (tức 10/67)
0,0%
0,0%
Số liệu trên cho thấy tình trạng dạy nghề không có giáo trình hay nói cách khác dạy chay đáng lo ngại nhất là khối các trường dạy nghề. Tình hình ở khối các trung tâm dạy nghề có đỡ hơn nhưng vẫn rất cần được quan tâm. Bởi vì tuy đỡ trầm trọng hơn so với khối các trường dạy nghề nhưng cũng chỉ mới có khoảng 2/3 loại nghề đang đào tạo mà ở đó 100% cơ sở đào tạo nghề có giáo trình giảng dạy
V. thực trạng đội ngũ giáo viên trong các cơ sở dạy nghề
Đội ngũ giáo viên theo nhiệm vụ chính
Cán bộ giáo viên theo nhiệm vụ chính bao gồm: Cán bộ lãnh đạo – quản lý, cán bộ hành chính, giáo viên. Trong phần này chỉ xét tới đội ngũ giáo viên có nhiệm vụ chính là giảng dạy còn một số cán bộ cũng tham gia giảng dạy nhưng không phải là nhiệm vụ chính thì không được xét tới.
Biểu 11: Bình quân cán bộ,giáo viên theo nhiệm vụ chính theo vùng
Trường dạy nghề
trung tâm dạy nghề
Tổng số CB_GV
Cơ cấu GV(%)
Tổng số CB_GV
Cơ cấu GV(%)
Công lập
66.0
53.79
26.8
72.76
Ngoài công lập
22.7
64.32
16.8
67.26
Đồng bằng sông Hồng
56.4
53.90
28.5
77.19
Đông Bắc
90.5
52.82
14.4
64.58
Tây Bắc
35.0
31.43
0
0
Bắc Trung Bộ
45.6
54.82
14.4
59.72
Duyên Hải Nam Trung Bộ
81.9
48.23
13.1
64.89
Tây Nguyên
57.5
60.87
28.0
64.29
Đông nam Bộ
31.5
64.13
28.7
70.03
Đồng bằng sông Củu Long
45.8
53.49
14.0
52.14
Chung
51.3
55.36
23.8
71.85
1.1 Đối với trường dạy nghề
Bình quân mỗi trường dạy nghề có 51.3 cán bộ, giáo viên trong đó số giáo
viên chiếm 55,4%. Đối với các trường công lập, bình quân mỗi trường có 66 cán bộ, giáo viên, trong đó số giáo viên chiếm 53,8%. Tỉ lệ giáo viên như vậy là rất thấp, chứng tỏ bộ máy quản lý cồng kềnh. Tuy nhiên, một nguyên nhân khác là do nhiều trường có quy mô nhỏ nhưng không thể không có bộ máy hành chính.
Chỉ có vùng Đông Nam Bộ có số cán bộ giáo viên thấp nhất (31,5%) nhưng tỉ lệ giáo viên lại cao nhất (64,13%), có thể khẳng định trình độ quản lý của các trường ở vùng này là tốt nhất.
1.2 Đối với trung tâm dạy nghề
Bình quân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34273.doc