a) Vị trí âm thanh và màu âm của nguyên âm tiếng Việt trong ca hát:
Năm yếu tố tạo thành âm tiết: âm đầu, âm đệm (bán nguyên âm), nguyên
âm, âm cuối và thanh điệu, trong đó nguyên âm giữ vai trò vang của từ, được hát
Mới lấy làm âm chính để khuếch đại âm thanh.
Nguyên âm: có 3 dạng cấu trúc:
- Nguyên âm đơn: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư, i/y.
- Nguyên âm đôi (còn gọi là nhị hợp âm): iê, ươ, uô
- Nguyên âm 3 (còn gọi là tam hợp âm): iêu, oai, oay, uây, uya, uyê
Nguyên âm đôi và nguyên âm 3 đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc vần
- phần sau của âm tiết, song độ vang chính của từ là đỉnh từ - nguyên âm đơn.Ví
dụ: chữ Chiều: 3 nguyên âm hợp thành vần (iêu). Hai nguyên âm i và u ở vị trí
bán nguyên âm. Bán nguyên âm i có tính chất âm lướt, bán nguyên âm u làm
nhiệm vụ khép từ. Nguyên âm ê giữ vai trò âm thanh, vì vậy khi hát bán nguyên
âm i chuyển nhanh sang nguyên âm ê được mở rộng rồi thu về nguyên âm u.
Như vậy nguyên âm đôi hoặc nguyên âm 3 thực chất âm tiết (từ) của tiếng Việt
chỉ có một nguyên âm đỉnh chữ (tạo vang).
Tương tự trong nhiều bài dân ca, khi gặp từ chuyền, hay thuyền người hát
có thể mở rộng đỉnh chữ (nguyên âm ê) nhưng không được lạm dụng mà phải kết
thúc từ sớm bảo đảm tròn vành rõ chữ vì chuyền, thuyền là từ khép chứ không
phải từ mở.
166 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2217 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đều coi thanh điệu là yếu tố cơ
bản của tiếng Việt. Với hai thanh dấu hỏi và ngã, ở nghệ thuật Tuồng rất đƣợc đề
cao, thầy Tuồng Nguyễn Nho Tuý cho rằng: “ thanh dấu hỏi... Tuồng đã ấn định
từ xƣa là khi phát âm ra thì xuất phát từ giọng không dấu (thanh ngang) rồi dẫn
lên thanh dấu sắc rồi rảy giọng gọn gàng...
Nói Lối / Đào Tam Xuân
Thanh dấu ngã khi phát âm ra thì nhấn giọng xuống gần hƣớng dấu nặng
rồi dẫn giọng lên hƣớng dấu sắc rồi ngắt giọng trọn vẹn...” [40, tr.3].
“Rảy” đƣợc hiểu là kỹ thuật vuốt giọng lên khi đạt độ cao cần thiết của
thanh dấu hỏi thì vuốt xuống, khép chữ, đóng tiếng đúng quy luật phát âm tiếng
Việt.
Khái niệm Hƣớt, Chát dùng để chỉ những khiếm khuyết khi phát âm
(nguyên âm, phụ âm). Thí dụ: vô duyên > dô duyên. Tƣơi cƣời > tƣ cừ. Thôi thối
> thui thúi. Quất > guất. Tƣơi > tơi. Nó > noá...
70
- Trại, Bẹ, Hƣớt, Chát là 4 điều cấm kỵ liên quan đến phát âm tiếng Việt
giúp ngƣời hát tránh bệnh ngọng và đạt đƣợc yêu cầu của nghệ thuật ca hát
Tuồng đòi hỏi.
- Đực: hát đờ đẫn, vô hồn, “… nói, hát không đúng với ngữ ngôn và âm
luật sân khấu gọi là Đực.”
- Đếm: hát nói nhƣ đếm, đều đều.
- Cấn và Điệp: hai từ chỉ hai khái niệm giống nhau giúp ngƣời hát xử lý ca
từ chuẩn xác và tinh tế.
Khi nhắc lại - Điệp cùng một từ không đƣợc giống nhau (nhắc lại đơn
điệu). Với khái niệm Cấn (hay mắc), ngƣời hát Tuồng tạo cho câu hát rền, tạo
cảm giác hài hoà trong giai điệu của làn điệu Hát Khách: Ngƣời xƣa đâu…
Hát Khách
Mặc dù không dùng từ đệm (ƣ hƣ hay i hi) song khi nhả chữ, ngƣời hát
biết tạo giai điệu cho câu hát, tránh đƣợc Cấn hoặc mắc, hát không đơn điệu, hát
nhƣ đếm - gọi là Đực.
Để tránh Đực, Điệp, Cấn nghệ thuật biến thanh của hát Tuồng là nghệ
thuật khá đặc trƣng trong nghệ thuật nhả chữ tiếng Việt. Chẳng hạn hai từ mai
ngày một từ ở thanh ngang (thanh không dấu), một từ ở thanh dấu huyền nhƣng
khi hát thƣờng đƣợc bắt đầu từ cao xuống (thƣờng quãng 3, 4)
Nghệ nhân Tuồng hát Dứt (ngắt) với cƣờng độ lớn và dứt khoát thƣờng
dứt trƣớc nhẹ hơn ngắt sau, tuân theo luật Tiền bần hậu phú (trƣớc nhẹ sau
71
mạnh) để tránh lỗi Điệp - nhắc lại đơn điệu. Kỹ thuật này khiến diễn viên dễ
dàng thể hiện tâm trạng, địa vị, tƣ thế, tính cách của nhân vật.
Trải trên dƣới 700 năm hình thành và phát triển, hƣng thịnh nhất vào TK
18, 19, Tuồng đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu kịch hát cách điệu. Để
đạt đỉnh cao đó không chỉ có vũ điệu, hóa trang, phục trang, đạo cụ, động tác
diễn, mà nghệ thuật hát Tuồng có những chuẩn mực khá khắt khe về phát âm nhả
chữ. Cùng những phƣơng pháp luyện cho tròn vành, rõ chữ thì các kỹ thuật gọi
là luyến, láy, rung, ngắt... cũng đã đƣợc đúc kết, phân loại.
Nhƣ vậy muốn hát cho ra Tuồng trƣớc tiên phải luyện tập kỹ tiếng Việt,
phải nắm đƣợc quy luật của thanh điệu, của âm tiết, của nguyên âm, phụ âm. Từ
thanh điệu ngƣời hát sử dụng các kỹ thuật nhả chữ, láy, luyến giúp câu hát không
bị gẫy gọi là Cấn. Không Cấn mới đạt đƣợc độ vang, rền của câu hát. Tuồng
cũng nhƣ các loại hình ca hát truyền thống khác đều không lấy vang của chính từ
đó, có nghĩa là không mở rộng nguyên âm chính của từ, mà tạo vang bằng
nguyên âm đồng dạng hoặc tƣơng xứng dƣới hình thức âm đệm lót (ƣ, hƣ, i,
hi…). Đóng mở âm dựa trên nguyên lý cấu âm tiếng Việt đã đƣợc quy định chặt
chẽ trong Tuồng bằng các điều cấm kỵ: Trại - Bẹ - Hƣớt - Chát, giúp cho diễn
viên Tuồng hát rõ, tròn chữ. Những điều này trở thành mực thƣớc chung khi hát
các làn điệu và bài bản Tuồng.
Để đẩy tính Bi - Hùng và tính hài hƣớc lên mức cao nhất, nghệ nhân sân
khấu Tuồng đã tìm và đặt vị trí âm thanh vào sâu phía trong cổ họng và ngực.
Cũng âm ƣ, hƣ, i Ca Trù gằn trong cổ họng, còn Tuồng nén sâu, tạo màu sắc tối
và thêm kỹ thuật rung giọng chậm. Kỹ thuật thanh nhạc đặc trƣng của nghệ thuật
Tuồng khiến nó trở thành sân khấu kịch hát truyền thống vừa mang tính dân gian
vừa mang tính bác học với những quy định khá chặt chẽ của nghệ thuật ca hát,
dựa trên cách xử lý tiếng Việt một cách tế nhị, tinh tế.
72
Tìm hiểu những qui định kỹ thuật trong phát âm nhả chữ của nghệ thuật
hát Tuồng với mong muốn qua đó học tập và vận dụng vào nghệ thuật hát Mới
để xử lý tốt ngôn ngữ tiếng Việt trong các tác phẩm thanh nhạc Việt Nam. (Cần
tránh một số nhƣợc điểm của lối hát Tuồng khi áp dụng vào cách hát mới: gằn
tiếng, gào thét…).
1.3 Tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới:
Ca hát ở dân tộc nào trên thế giới cũng phải xử lý tốt ngôn ngữ của dân tộc
ấy, cách phát âm đều kết hợp chặt chẽ, khéo léo đặc điểm của dân tộc ấy. Để
đảm bảo đƣợc rõ lời, phƣơng pháp ca hát của mỗi dân tộc đều phải gắn liền với
tiếng nói dân tộc mình. Tròn vành rõ chữ là sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật
âm nhạc với tiếng nói dân tộc và mọi đặc điểm ngữ âm dân tộc trong nghệ thuật
âm thanh của giọng hát.
Hát Mới ra đời cùng phong trào Tân Nhạc từ cuối những năm 30 và sớm
phát triển thành trào lƣu ở những năm trƣớc Cách mạng tháng Tám.
Tân Nhạc ra đời đòi hỏi phải có lối ca hát thích hợp vì vậy hát Mới ra đời.
Hát Mới sử dụng giọng Bắc - giọng Hà Nội làm cơ sở và giọng Hà Nội trở thành
giọng chuẩn của nghệ thuật hát Mới. Sự công nhận không thành văn này đƣợc
tôn trọng giống nhƣ hát Cải lƣơng bằng giọng Nam Bộ; hát Chèo, Ca Trù, Quan
Họ hát giọng Bắc; ca Huế giọng Huế; Ví dặm giọng Nghệ An - Hà Tĩnh; Hò bài
Chòi giọng Quảng…
Phát âm, nói chuẩn sẽ giúp hát chuẩn. Hát là khuếch đại, cƣờng điệu một
cách nghệ thuật âm thanh lời nói. Nếu giọng nói rè, ngọng, ngắn lƣỡi, lắp, lẫn
lộn vần, lẫn lộn thanh điệu, khi cất tiếng hát, tức khuyếch đại những khuyết tật
ấy lên sẽ cho những âm thanh xấu, không hay. Không ít phát thanh viên, truyền
hình viên, những ngƣời dẫn chƣơng trình trên các sóng phát thanh truyền hình
hiện nay, do không qua các lớp đào tạo về ngữ âm, luyện nói nên thƣờng mắc
phải những khiếm khuyết rất sơ đẳng về phát âm tiếng Việt. Nhiều ca sĩ do
73
không chú ý, hoặc thiếu kiến thức về phát âm tiếng Việt phổ thông đã nhầm lẫn
phụ âm đầu, rõ nhất là hai phụ âm kép ch và tr (“...thế là chị ơi...” chữ chị thành
chữ trị - Chị tôi của Trọng Đài).
Hát Mới là bộ môn nghệ thuật thanh nhạc non trẻ gắn liền với tiếng Việt
phổ thông lấy kỹ thuật thanh nhạc của ngôn ngữ đa âm, đơn thanh (lối hát mở)
đối lập với ngôn ngữ Việt đơn âm, đa thanh (lối hát khép). Vì vậy để hát "tròn
vành rõ chữ” tiếng Việt cần bắt đầu từ luyện nói tiếng Việt phổ thông. Xử lý
đúng qui luật chuyển động, phối hợp các âm (nguyên âm, phụ âm) đóng mở của
các từ, xử lý phát âm cùng với thanh dấu. Luyện nói, luyện phát âm tiếng Việt là
những bài tập hỗ trợ cho quá trình học hát, giúp cho ngƣời hát nhả chữ đúng,
chuẩn, cách điệu mà không làm biến dạng, mất giọng, sai nghĩa của từ, mất bản
sắc dân tộc của ngôn ngữ.
Trong “Những cơ sở khoa học của một nền thanh nhạc dân tộc” của Văn
Cẩn cũng cho rằng: “các dòng ca hát Việt nam nói chung phải tuân thủ nguyên
lý cấu âm tiếng Việt (ngữ âm học) và phải chống sự lai căng, nô lệ trong phƣơng
pháp và trong cách phát âm ngôn ngữ (tiếng Việt)”[4].
Nhiều lớp học sinh thanh nhạc sau nhiều năm theo học tại các trung tâm
đào tạo âm nhạc và sinh sống ở Hà Nội, không ít ngƣời trong số họ trở thành ca
sĩ nổi tiếng, nhƣng khi hát họ vẫn bộc lộ nhiều nhƣợc điểm về phát âm tiếng Việt
phổ thông. Nguyên nhân có thể vì tiếng địa phƣơng mang tính vùng miền của họ,
cũng có thể do đào tạo chƣa thực sự chú ý đến phát âm tiếng Việt. Để nâng cao
chất lƣợng hát tiếng Việt ngƣời hát cần hiểu, nắm vững những kiến thức cơ bản
về cấu trúc âm thanh của tiếng Việt để giải quyết chúng.
1.3.1 Một số khó khăn của tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới:
a) Cấu âm tiếng Việt:
Tiếng Việt với cấu trúc 6 thanh và đơn âm tiết (chƣơng I). Đơn âm tiết tức
là mỗi âm tiết đứng độc lập, tƣơng ứng với một từ. Không có nối âm, không nuốt
74
âm nhƣ những ngôn ngữ đa âm tiết. Mỗi âm tiết, hay mỗi từ của tiếng Việt đƣợc
cấu tạo: Âm đầu, âm giữa (đỉnh âm) âm cuối và thanh điệu. Quá trình tạo thành
âm phải diễn ra đồng thời, các thành phần của âm tiết không đƣợc tách rời nhau
(chữ thanh không đƣợc tách rời thành th-a-nh). Để có âm thanh cần phải mở
rộng nguyên âm của từ. Nguyên âm a trong từ thanh nếu mở quá lớn, làm chậm
tiến trình đóng chữ ở phụ âm nh sẽ khiến từ thanh bị biến dạng, có thể đổi nghĩa
(tha--nh hoặc tha-a).
Đóng từ, đóng chữ có ƣu điểm rõ lời, rõ chữ, khi nói không có vấn đề gì,
nhƣng khi hát bị hạn chế, không khuyếch đại âm thanh, bởi nguyên âm quyết
định độ vang của từ, mà phải khép chữ tức phải đóng khẩu hình sớm, nên ảnh
hƣởng nhiều đến độ vang của chữ làm cộc và chết chữ. Đặc điểm nổi bật trong
tiếng Việt dễ nhận thấy nhất là từ đóng chiếm quá nửa. Có thể lấy bất cứ một ví
dụ trong ca từ của bất kỳ ca khúc nào cũng thấy rõ điều đó:
+) “Đêm nay trên đƣờng hành quân ra mặt trận…” (Bác đang cùng
chúng cháu hành quân - Huy Thục). Có 9 từ thì 8 từ đóng, chỉ có 1 từ mở (ra)
nhƣng lại diễn ra với trƣờng độ ngắn (nốt móc dật)
Bác đang cùng chúng cháu hành quân
+) “…Chân em bƣớc nhanh nhanh trên đƣờng làng…” (Em bé đi học
trƣờng làng - Trọng Bằng). Tất cả các từ trong câu đều là từ đóng.
Em bé đi học trƣờng làng
75
+) “Việt Nam trên đƣờng chúng ta đi…” (Đƣờng chúng ta đi - Huy Du).
Cả câu có 1 từ mở (ta), 1 từ kết bằng nguyên âm nhƣng là nguyên âm đóng thu
đuôi (đi) .
Đƣờng chúng ta đi
Sáu thanh của tiếng Việt tác động lên toàn bộ âm vị và có ý nghĩa quyết
định tới diện mạo cấu trúc và ý nghĩa của từ. Thanh điệu làm thay đổi độ cao
(cao độ) của âm tiết. Trong cùng một từ, nếu thay đổi dấu (thanh điệu) sẽ thay
đổi nghĩa của từ (ca: cá, cà, cả, cã, cạ). Âm chính cùng với thanh điệu là 2 yếu tố
cơ bản, là trục chính của âm tiết tiếng Việt, do vậy trong lời của bài hát nếu đặt
lời ở cao độ không thích hợp sẽ xảy ra tình trạng gọi là trái dấu,“ngô thành
khoai” vì khi hát lên từ bị biến dạng đổi nghĩa.Ví dụ:
+) “Có hàng tre ru khỉ (khi) chiều về…” (Về quê - Phó Đức Phƣơng)
Về quê
+) “Năm anh em trên một chiệc (chiếc) xe tăng…” (Năm anh em trên một
chiếc xe tăng - Doãn Nho)
Năm anh em trên một chiếc xe tăng
+) Đập tan ngay bao đau khố (khổ) và chia ly… (Tình ca - Hoàng Việt)
Tình ca
76
+) “Dâng cá (cả) bao ngƣời…” (Tình ca - Hoàng Việt)
Tình ca
+) Tiếng ai hò khoan vắng (vẳng) đƣa những câu tình ca… (con kênh xanh
xanh – Ngô Huỳnh)
Con kênh xanh xanh
+) Le bay, tiêu đoàn le báy (Lẻ bảy, tiểu đoàn lẻ bảy)… (Tiểu đoàn 307 -
Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Bính)
Tiểu đoàn 307
* Gây khó khăn cho ngƣời hát:
+) Buổi sáng em làm rẫy… (Bóng cây K’ nia - Phan Huỳnh Điểu)
Bóng cây K’nia
+) Đoàn giải phóng quân một lần ra đi… (Giải phóng quân - Phan Huỳnh
Điểu)
Giải phóng quân
77
b) Phƣơng ngữ:
Nghệ thuật hát Mới gắn liền với tiếng Việt phổ thông (trừ một số trƣờng
hợp cần nhấn vào yếu tố phƣơng ngữ để làm tăng chất vùng miền do tác phẩm
đòi hỏi). Tiếng Việt phổ thông có nhiều điểm khác biệt với phƣơng ngữ miền
Trung và miền Nam… nhƣ các phụ âm nặng (tr, gi, s) dấu giọng, phụ âm đầu,
phụ âm cuối, nguyên âm chính. Không nắm vững tiếng Việt phổ thông sẽ dẫn tới
lỗi lẫn lộn phụ âm, biến âm, làm ảnh hƣởng đến việc chuyển tải thông tin chính
xác, đầy đủ ý nghĩa, nội dung của tác phẩm:
* Một số phụ âm đƣợc làm nhẹ hoá: S = X, TR = CH, GI - R = D
- “Sao (xao) anh lại ngỏ lời, vào một đêm trăng (chăng) khuyết, để bây
giờ (dờ) thầm tiếc một vầng trăng (chăng) không tròn (chòn)…” (Trăng khuyết -
Huy Thục)
Trăng khuyết
* Phát âm bị lẫn giữa i và y: Lai = Lay; Khay = Khai; Lạy = Lại…
+ “Nào bên nhau cầm tay (tai) ta lên đƣờng hạnh phúc...” (Bài ca hạnh phúc
- Văn An)
+ “Ai (Ay) về Thủ đô tôi gửi vài (vày) lời…” (Sẽ về Thủ đô - Huy Du)
78
Sẽ về Thủ Đô
*Biến thể phụ âm đầu:
- V = D: Vài = Dài; Vay = Day;…
- H = Gu: Hoạ hoằn = Goạ guằn; Hoe = Guoe; …
- Qu = Gu: Quyền = Guyền; Quê hƣơng = Guê hƣơn;…
+ “Quê hƣơng (Guê hƣơn) là chùm khế ngọt…” (Quê hƣơng - Giáp Văn
Thạch)
Quê hƣơng
+ “Vƣợt (Dƣợt) Trƣờng Sơn bay vọng ra…” ( Miền am ơi! Chúng tôi đã
sẵn sàng – Lƣu Cầu)
Miền Nam ơi! Chúng tôi đã sẵn sàng
+ “Qua (Gua) bao gian (dzan) nguy xe vẫn (dzẫng) vƣợt (đzƣợc) lªn…”
(Tôi ngƣời lái xe – An Chung)
Tôi ngƣời lái xe
* Âm cuối bị biến âm:
Âm cuối là nguyên âm hoặc bán nguyên âm:
- Ao thành Ô: Gạo = Gộ …
79
- U thành Âu: Đu đủ = Đâu đẩu…
- A thành E: Má = Mé ; Ghi-ta = Ghi-te…
- Oa thành Oe: Loá = Loé; Khoá = Khoé…
- Ô thành U: Tôi = Tui…
- E thành IE, EƠ: Mẹ = Mịe = Mẹơ; Sẽ = Sĩe = Sẽơ…
- EO thành IEO: Theo = Thieo…
+ “Tôi (Tui) lại nhìn nhƣ đôi mắt trẻ thơ…” (Tổ quốc tôi chƣa đẹp thế bao
giờ - Nguyễn Văn Thƣơng)
Tổ quốc tôi chƣa đẹp thế bao giờ
+ “Nắng (Néng) vẫn đỏ mận, hồng, đào cuối vụ…” (Gửi nắng cho em - Phạm
Tuyên)
Gửi nắng cho em
+ “Mẹ (mịe) thƣơng con có hay chăng…” (Mẹ yêu con - Nguyễn Văn Tý)
Mẹ yêu con
+ “Đêm đêm trăng lên theo (thieo) dòng buồm căng gió xuôi…” (Con kênh
xanh xanh - Ngô Huỳnh)
Con kênh xanh xanh
80
Âm cuối là phụ âm:
- T thành C : Đất = Đấc ; Phất = Phấc…
- Ng thành N: Hƣơng = Hƣơn…
- N thành Ng: Lƣơn = Lƣơng; Nhân dân = Nhâng dâng…
- N thành Nh: Mênh mông = mên mông…
+ “Đất (đấc) nƣớc tôi thon thả giọt đàn bầu…” (Đất nƣớc - Phạm Minh Tuấn)
Đất nƣớc
+ “Vì nhân dân (nhâng dâng) quên mình…” (Vì nhân dân quên mình -Doãn
Quang Khải)
Vì nhân dân quên mình
+ “Ơi mênh mông (mên mông) sóng xô du thuyền ta xa bờ…” ( Xa khơi -
Nguyễn Tài Tuệ)
Xa khơi
* Biến thể cả âm đầu và âm cuối: Vẫn = Dẫng ; Vƣợt = Dƣợc…
+ “Vui (Dui) hát ca hoà vui (dui) hát ca …” (Sông Lô - Văn Cao)
Sông Lô
81
* Biến thể thanh điệu:
- Dấu hỏi ( ? ) thành dấu ngã ( ~ ) : Những = Nhửng…
- Dấu hỏi (? ) thành dấu nặng ( . ): Ngủ = Ngụ…
- Dấu ngã ( ~ ) thành dấu nặng ( . ): Ngã = ngạ…
- Dấu sắc (’) thành dấu nặng ( . ): Rứa = Rửa…
- Dấu sắc (’) thành dấu hỏi ( ? ): Đó = Đỏ…
+ “Con kênh xanh xanh những (nhửng) chiều êm ả (ã) lƣớt trôi…” (Con
kênh xanh xanh - Ngô Huỳnh)
Con kênh xanh xanh
+ “Ngủ (ngụ) ngoan a kay ơi! Ngủ (ngụ) là ngoan a kay ơi!...” (Lời ru trên
nƣơng - Trần Hoàn)
Lời ru trên nƣơng
+ “Khi hát (hảt) lên tiếng (tiểng) ca gửi (gựi) về ngƣời yêu quê ta…” (Tình
ca - Hoàng Việt)
Tình ca
Chính những điểm khác biệt về phát âm nhƣ vậy nên trong giảng dạy cũng
nhƣ biểu diễn, giảng viên cũng nhƣ ca sĩ khi dạy, khi hát phải sửa tiếng địa
phƣơng, phát âm theo tiếng Việt phổ thông (tiếng Bắc - tiếng Hà Nội) nhằm
nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt.
82
d) Nhƣợc điểm trong sáng tác cho thanh nhạc:
Tác phẩm thanh nhạc (âm nhạc có lời) gồm âm nhạc và lời ca. Giai điệu
hay, lời ca đẹp kết quả sáng tạo của tác giả lời và tác giả nhạc - thƣờng gọi chung
là ngƣời sáng tạo số một. Song âm nhạc cần phải đƣợc vang lên. Để âm nhạc
vang lên cần đến những ngƣời sáng tạo kế tiếp - Ca sĩ đóng vai trò quan trọng và
đƣợc coi là ngƣời sáng tạo thứ hai.
Vì âm nhạc gắn liền với lời ca nên nội dung và giá trị nghệ thuật của tiếng
hát là sự thống nhất giữa nhạc và lời. Một bài hát hay phụ thuộc vào âm nhạc và
ca từ, phần âm nhạc hay mà phần lời đặt ở những vị trí làm sai dấu giọng, những
từ khó, từ đóng (âm cuối là phụ âm) đặt ở nốt cao, ngƣời hát không phân đƣợc
câu để lấy hơi… gây khó khăn, cản trở cho ngƣời hát, làm sai nghĩa của từ, làm
cho hát ngọng… là giảm giá trị nội dung văn học, ý nghĩa nghệ thuật của tác
phẩm. Ví dụ:
* Trái dấu:
+ “Chiến sĩ ta dầm mƣa dải (dãi) nắng…”(Bài ca may áo - Xuân Hồng)
Bài ca may áo
+ “…Lời hát mến yêu muồn (muôn) đơi (đời)…” (Nắng ấm về trên Tổ quốc -
Trần Khánh)
Nắng ấm về trên Tổ quốc
* Một hơi dài không phân đƣợc câu để lấy hơi:
+ “Làn gió thơm hƣơng đêm về quanh khu nhà tôi mới cất xong chiều qua…”
(Những ánh sao đêm - Phan Huỳnh Điểu)
83
Những ánh sao đêm
* Từ đặt ở nốt cao làm sai dấu giọng:
+…Xây cho nhà cao cao mái (mãi)… (Những ánh sao đêm - Phan Huỳnh
Điểu)
Những ánh sao đêm
* Từ đóng đặt ở nốt cao
+…Lo nƣớc ấy phải đắp bờ (tình tình ơi này) lo nƣớc ấy phải đắp bờ… (Bài
ca năm tấn - Nguyễn Văn Tý)
Bài ca năm tấn
Nguyên nhân thì có nhiều nhƣng một phần không nhỏ cũng do tác giả
(nhạc và lời) chƣa thật sự lƣu tâm đến tiếng Việt, đến những đặc trƣng cơ bản
của tiến trình đóng, mở âm, cấu trúc âm (Khởi - mở - đóng từ, thanh điệu) cũng
nhƣ một số đặc điểm khác của tiếng Việt nhƣ đóng, khép, bẹt, nhiều âm mũi, vị
trí âm thanh mỏng do phát âm ở ngoài (Chèo gọi là hát hơi ngoài)... Và đó cũng
chính là những khó khăn của nghệ thuật hát Mới. Khi hát, ngƣời hát phải làm sao
khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của ca từ với giàng buộc của phát âm tiếng
Việt, của những lỗi khó sửa trong nguyên bản tác phẩm để hát tròn vành, rõ chữ
chuyển tải đƣợc cả tình cảm, nội dung mà vẫn đảm bảo âm thanh vang, sáng.
Muốn có đƣợc một tác phẩm hoàn thiện từ sáng tác đến biểu diễn nhƣ vậy, theo
nhạc sĩ Hoàng Kiều, ở Trung Quốc ngƣời học sáng tác (thanh nhạc) phải học cả
84
hát. Trong trƣờng hợp những tác phẩm có lỗi nhƣ trên thì ngƣời hát cần học
những kinh nghiệm của nghệ nhân cũng nhƣ những kinh nghiệm của bản thân đã
đúc kết đƣợc từ thực tiễn để xử lý.
Nghệ thuật hát Mới (hát Mở), nghệ thuật của khuyếch đại âm thanh, đồng
nhất âm thanh nguyên âm nhằm đạt tới độ vang, khoẻ dễ dàng thể hiện những ca
khúc, những tác phẩm mang tính hùng tráng, ngợi ca. Với những ca khúc nghệ
thuật trữ tình ngƣời hát có thể pha trộn cách phát âm nhả chữ của nghệ thuật ca
hát truyền thống và nghệ thuật hát Mở - phát âm mềm mại, uyển chuyển nhƣng
vẫn thể hiện đƣợc độ vang thích hợp. Những ca khúc mang âm hƣởng dân ca,
mang tính vùng miền ngƣời hát phải tìm hiểu ca khúc đó viết theo thể loại, âm
hƣởng gì để phát âm, nhả chữ, luyến láy, rung, nhấn… theo thể loại và lối phát
âm nhả chữ của địa phƣơng đó để thể hiện ra đƣợc “chất” hay “màu sắc” vùng
miền và tinh thần của tác phẩm.
1.3.2 So sánh kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật ca hát truyền
thống và nghệ thuật hát Mới:
a) Kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật ca hát truyền thống:
Dân ca, sân khấu kịch hát truyền thống nói chung là sản phẩm của tiếng
Việt. Từ chức năng giao tiếp, chuyển tải thông tin, phản ảnh tƣ duy và cảm xúc,
tiếng Việt đƣợc nhào nặn, tái tạo, cách điệu trở thành ngôn ngữ nghệ thuật mang
những đặc trƣng, tƣ tƣởng, ý tƣởng thẩm mỹ cao. Tiếng Việt trong nghệ thuật ca
hát và tiếng Việt trong đời sống song song tồn tại, bổ sung cho nhau làm cho
tiếng Việt ngày càng phong phú. Cũng từ đó bản sắc văn hoá dân tộc không
ngừng đƣợc nâng cao. Vì vậy với bất kỳ dòng ca hát truyền thống nào từ hát
Xoan, hát Ghẹo, Quan Họ Bắc Ninh, hát Dặm, hát Đúm, hát Ví... đến Ca Trù,
hát Chèo, hát Tuồng, Cải lƣơng... ca từ và diễn đạt ca từ đều đƣợc đặc biệt chú ý,
quan tâm. Để hát tốt tiếng Việt nghệ nhân đặt ra tiêu chí: Tròn vành, rõ chữ. Để
85
nghệ thuật hoá tiếng nói - ngôn ngữ Việt trong nghệ thuật ca hát, nghệ nhân nói
chung đều dựa trên tiêu chí vang, rền, nền, nảy…
Sáu thanh điệu của tiếng Việt đem lại cho tiếng Việt khả năng tự nhiên tạo
thành giai điệu vì vậy ngƣời nƣớc ngoài thƣờng nói ngƣời Việt “nói nhƣ hát”.
Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của thanh điệu, nghệ nhân Tuồng đã đề ra các
quy định chặt chẽ để xử lý, sáng tạo và biến hoá nó, tạo những nét đặc trƣng
không bị trộn lẫn các loại hình nghệ thuật với nhau…
Ngoài kỹ năng xử lý, sáng tạo, biến hoá thanh điệu, còn có kỹ năng bật từ,
khởi thanh, nhả chữ, đóng chữ:
Khởi từ là bƣớc tạo âm thanh ban đầu, với nghệ nhân khởi thanh, nhả chữ,
đóng chữ (khép từ) có một ý nghĩa đặc biệt. Để có âm thanh ngọt ngào theo lối
hát hơi ngoài của Chèo, âm nén gừ gừ trong cổ họng của Ca Trù, âm bật lớn
nuốt trong lồng ngực tạo chất bi hùng của Tuồng, âm nhấn thô xơ, tự nhiên của
Xẩm, nghệ nhân đã tạo ra những phƣơng thức khởi thanh khác nhau. Phụ âm và
nguyên âm làm nhiệm vụ khởi thanh và xác định đƣợc vị trí âm thanh của từ.
Tuy nhiên để tạo cảm xúc nghệ thuật, nghệ nhân có thể nhấn, có thể bóp méo
chữ ngay từ bƣớc bật hơi khởi thanh. Có thể thấy điều này trong cách nhả chữ
của Xẩm khi áp dụng cho các vai hề trong các vở Chèo.
Mở thanh bƣớc thứ hai của nghệ thuật nhả chữ. Mở thanh đòi hỏi phải biết
vị trí, màu sắc âm thanh của nguyên âm tiếng Việt. Mỗi ngôn ngữ có một màu
sắc riêng. Nguyên âm A, O, I, U... của tiếng Việt không giống với âm A, O, I,
U... trong tiếng Pháp, tiếng Italia... Độ mở của nguyên âm trong tiếng Việt còn
liên quan đến “tròn vành rõ chữ”. Mở thanh tạo vang cho câu hát, nghệ nhân hát
dân ca, Ca Trù, kịch hát truyền thống... nói chung luôn tìm cách giữ trƣờng độ
vang phù hợp với quy luật tạo âm của tiếng Việt. Và để vang rền cho chữ, cho
câu hát, các nghệ nhân đã tìm cách thay thế, bổ sung bằng các âm đệm lót tƣơng
ứng đứng sau từ chính nhƣ a, i, ƣ, u, ơi,...
86
Ngoài ra nghệ nhân còn tạo ra nhiều kỹ thuật hát đặc biệt nhƣ hát nảy
(Vang, rền, nền, nảy) những kỹ thuật này không chỉ trong Quan Họ, Ca Trù,
Chèo và Tuồng tuy nhiên mức độ, vị trí sử dụng của chúng khác nhau đem lại
những giá trị nghệ thuật và xúc cảm, thẩm mỹ khác nhau của từng loại hình.
Kỹ thuật hát thẳng và rung giọng của nghệ thuật ca hát truyền thống không
bao giờ kết hợp giữa rung giọng với nhả chữ, từ chính của ca từ (kể cả từ đệm lót
nhƣ: tình bằng, này a, phú lý...). Rung giọng trong khi nhả chữ làm cho chữ đó bị
nhoè, không tròn trịa, tròn vành, rõ chữ. Rung giọng xuất hiện và mang màu sắc
khác nhau ở mỗi dòng nghệ thuật ca hát truyền thống nhƣ lối rung giọng chậm
trong Tuồng, rung giọng nhẹ, lăn tăn trong Chèo... Trong hát Quan Họ (cổ) hầu
nhƣ không rung giọng, chỉ có dứt và nảy (nảy hạt) - lối hát cổ truyền hợp với
tiếng Việt và giữ đƣợc chất tự nhiên của giọng hát.
Khép chữ hay đóng tiếng là bƣớc cuối của nhả chữ tiếng Việt. Hầu hết các
nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc và nghệ nhân đều cho rằng khép chữ, kín miệng
là lối hát truyền thống. Khép chữ, đóng tiếng có ƣu điểm rõ chữ, rõ lời, hát tiếng
nào ra tiếng nấy song âm thanh, cƣờng độ vang bị hạn chế, tầm cữ giọng không
đƣợc mở rộng. Âm nhạc truyền thống không có khái niệm mở rộng tầm cữ
giọng, phân loại giọng nhƣ hát Mới. Hát giọng thật và nghe giọng hát thật trở
thành thói quen thƣởng thức nghệ thuật ca hát của ngƣời Việt từ bao đời nay. Từ
nhu cầu tròn vành, rõ chữ, khép chữ, đóng tiếng nên có các quan niệm khác nhau
trong ca hát.
Nghệ thuật ca hát truyền thống có những điểm chính:
* Tròn vành rõ chữ:
- Đóng chữ, kín miệng. Hát tiếng một, khép (đóng) chữ để tròn vành, rõ
chữ nhƣng không lộ miệng.
- Hát thẳng, rung giọng sau nhả chữ.
87
- Nhịp độ và trƣờng độ (khởi - mở - kết) chữ gần với quy luật của phát âm
lời nói.
- Đặt vị trí âm thanh theo quy định của từng dòng ca hát (hát hơi ngoài của
Chèo, hát hơi gằn trong cổ họng của Ca Trù...)
* Phân loại giọng:
- Hát giọng thật.
- Không mở rộng tầm cữ giọng (vì không có thói quen nghe giọng giả)
- Phân loại giọng theo chất giọng: giọng Kim (vang sáng), giọng Thổ
(trầm ấm...)
* Kỹ thuật (Vang, rền, nền, nẩy):
- Không lạm dụng mở vang ở nguyên âm của mỗi từ.
- Dùng từ đệm lót tƣơng ứng tạo vang sau chữ (i, hi, a, ƣ, hƣ...)
- Hát liền hơi.
- Sử dụng các kỹ thuật phụ trợ nhƣ luyến, láy, nảy hạt (láy rúc - Tuồng), dứt
(ngắt, ngứt tiếng - Quan Họ) tăng độ vang và liền cho câu hát.
- Sử dụng âm khu vang tùy theo đặc điểm cấu trúc hình tƣợng nghệ thuật,
quan niệm thẩm mỹ của từng dòng ca hát dân gian (Chèo thiên về hộp vang trán,
khoang mũi, gọi là hát hơi ngoài. Ca Trù thiên về hộp vang má, vòm họng...).
- Cách điệu, mở rộng âm nhƣng không làm tổn hại đến từ gốc và mầu chữ.
*Hơi:
- Sử dụng hơi bụng và hơi ngực.
- Vận cơ hoành để có hơi thở sâu.
- Lấy hơi nhẹ, không đƣợc thô.
- Không chứa hơi nhiều.
- Nén giữ hơi phù hợp với câu hát.
88
- Điều khiển hơi hợp lý để cho câu hát đƣợc đầy đặn, tròn căng, câu hát vang,
đẹp, dễ dàng xử lý âm thanh “Tiền bần hậu phú” (trƣớc nhỏ, sau to) theo quan
niệm của nghệ thuật thanh nhạc Tuồng.
b) Kỹ thuật phát âm - nhả chữ của nghệ thuật hát Mới:
Nghệ thuật hát Mới - nghệ thuật hát Mở gắn liền với tiếng Việt phổ thông,
lấy nghệ thuật hát Bel canto làm nền tảng đào tạo cũng nhƣ biểu diễn trong suốt
hơn 50 năm qua.
Nghệ thuật hát Bel canto ra đời ở Italia và một số nƣớc Tây Âu nhƣ Áo,
Đức, Pháp từ TK.XVII nhằm đáp ứng cho nghệ thuật sân khấu kịch hát Opera.
Việc đƣa kỹ thuật hát của một ngôn ngữ hoàn toàn khác vào hát ngôn ngữ nƣớc
mình - tiếng Việt (nghệ thuật hát của ngôn ngữ đơn âm, đa âm tiết) là một quá
trình đòi hỏi nhiều công phu, say mê và sáng tạo.
Nghệ thuật hát Bel canto - Nghệ thuật hát Mở là nghệ thuật hát của ngôn
ngữ đa âm, khi phát âm, nhả chữ quan tâm nhiều hơn đến trọng âm, các thành
phần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TranThiNgocLan_LuananTiensi2010.pdf