Luận văn Nâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong tình hình hiện nay

Hàng năm tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 luôn đạt trên 97%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học vào lớp 6 Trung học cơ sở luôn đạt trên 99%. Điều này đã làm cho Thanh Chương là huyện đứng đầu toàn tỉnh về công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, là huyện sớm đạt tiêu chuẩn phổ cập Trung học cơ sở, đó chính là thành tựu nổi bật trong phát triển giáo dục và đào tạo của huyện. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương II khoá VIII của Đảng về công tác giáo dục và đào tạo, trong những năm qua mạng lưới trường lớp ở Thanh Chương được phát triển đúng hướng đáp ứng nhu cầu học tập của con em trên địa bàn. Ở các xã vùng sâu, vùng xa của huyện các em đều được đến trường và đảm bảo đủ lớp, đủ điều kiện cho con em học tập, xoá được các “điểm trắng” về giáo dục.

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3837 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong tình hình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyện có phong trào văn hóa, thể dục thể thao mạnh. Thực hiện Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị và cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đến nay đã có 464/464 làng xây dựng được hương ước nơi cư trú. Tính đến nay có 15 xã được công nhận xã văn hóa. - Về dân tộc, tôn giáo Trước đây Thanh chương không có dân tộc thiểu số, nay do khu vực tái định cư công trình thuỷ điện Bản Vẽ (Tương Dương) chuyển về nên Thanh Chương đã có 1231 hộ với 3654 nhân khẩu đồng bào dân tộc Thái. Về tôn giáo chỉ có một đạo giáo đó là Thiên chúa giáo với qui mô dân số: 1.281 hộ với 7.487 khẩu được phân bố trên địa bàn 21 xã thuộc 3 xứ (xứ Trung Hòa, xứ Mô Vĩnh, xứ Bàn Thạch). Đồng bào theo giáo cơ bản chấp hành tốt mọi chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, sống tốt đời đẹp đạo, cùng nhau đoàn kết đồng bào lương, giáo xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư và giúp nhau phát triển kinh tế. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2009 chiếm 12%, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày được nâng lên, chính trị ổn định. - Điều kiện tự nhiên, xã hội có tác động đến sự phát triển kinh tế + Thuận lợi: - Tài nguyên thiên nhiên (đất, rừng, khoáng sản) rất thuận lợi cho việc trồng cây lâm nghiệp, xây dựng và phát triển công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng, xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển du lịch sinh thái, nhất là dọc tuyến đường Hồ Chí Minh, đường vào cựa khẩu Thanh Thủy nhằm giải quyết việc làm, phát triển kinh tế - xã hội góp phần xóa đói giảm nghèo. - Nguồn nhân lực dồi dào tạo điều kiện phát triển ngành nghề, dịch vụ, xuất khẩu lao động trong khu vực và trên thế giới. + Khó khăn: - Do địa hình phức tạp, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, bão lụt thường xuyên xảy ra, diện tích đất canh tác/đầu người quá ít, nên khó khăn trong sản xuất nông nghiệp và phát triển chăn nuôi. - Cơ cấu dân số trong các ngành mất cân đối, lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, số người có trình độ tay nghề và kiến thức trong làm ăn còn thấp, do đó chưa khai thác hết tiềm năng săn có về tài nguyên thiên nhiên, làm hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế. - Lao động thất nghiệp, thiếu việc làm đang là vấn đề bức bách cần phải tập trung giải quyết. - Cơ sở hạ tầng chưa tốt, không thuận lợi trong việc giao lưu trao đổi hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm. - Tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển chậm. Nền sản xuất còn mang tính tự cung, tự cấp chưa trở thành nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường. 2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN THANH CHƯƠNG TỪ 2005 ĐẾN 2010 2.2.1. Tình hình chất lượng giáo dục Trung học cơ sở Quy mô mạng lưới trường lớp: Trong những năm trước đây, quy mô, mạng lưới các trường Trung học cơ sở trên địa bàn huyện ổn định, giữ vững 40 trường. Riêng năm học 2006-2007 cho đến nay. Do huyện Thanh Chương tiếp nhận thêm 2 xã Kim Đa và Kim Tiến thuộc vùng lòng hồ của thuỷ điện bản Vẽ huyện Tương Dương về tái định cư nên số trường tăng thêm 02 trường. Bảng 1: Quy mô mạng lưới trường lớp học sinh THCS Năm học TS trường TS lớp TS học sinh Bình quân hs/lớp Tỷ lệ huy động vào lớp 6. 2005-2006 40 610 25 327 41,5 99,2% 2006-2007 42 613 24 306 39,6 99,6% 2007-2008 42 611 24 746 40,5 99,8% 2008-2009 42 609 24 227 39,7 99,7% 2009-2010 42 596 19 854 33,3 100% Qua bảng số liệu trên ta thấy số lượng học sinh giảm tương đối nhanh (trong vòng 5 năm đã giảm 5473 em, trung bình mỗi năm giảm hơn 1000 em). Tuy vậy số lớp toàn huyện giảm không nhiều do phân chia số học sinh bình quân/lớp ngày một giảm, điều này phù hợp với một huyện miền núi như Thanh Chương. Mặt khác, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học được tuyển sinh vào lớp 6 luôn luôn đạt ở mức cao (trên 99%). Nguyên nhân của số học sinh giảm là do chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình ngày càng phát huy có hiệu quả, một phần nữa là do tình trạng dân số trong độ tuổi sinh đẻ di cư ra thành phố, các khu công nghiệp ngày một tăng. Chất lượng giáo dục học sinh Trung học cơ sở . Xác định chất lượng giáo dục là yếu tố quan trọng bậc nhất , được đặt lên hàng đầu và là yếu tố làm nên thành công hay thất bại của một nhà trường. Kể từ năm học 2002-2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đồng loạt đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa trên toàn quốc. Đồng thời Bộ GD&ĐT cùng ban hành tiêu chuẩn, đánh giá xếp loại học sinh trung học theo tiêu chí mới do đó công tác đánh giá xếp loại học sinh được tiến hành khá nghiêm túc, đúng thực chất. Đặc biệt bước vào năm học 2006-2007 cho đến nay, hưởng ứng cuộc vận động “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” nên công tác đánh giá xếp loại học sinh được toàn ngành đánh giá chặt chẽ hơn, sát với trình độ và năng lực của học sinh hơn. Bảng 2: Xếp loại đạo đức học sinh THCS Năm học TS học sinh Tốt Khá Trung bình Yếu SL Tỷ lệ % SL Tỷ lệ % SL Tỷ lệ % SL Tỷ lệ % 2005-2006 25327 15038 59,4 7897 31,2 1823 7,2 569 2,2 2006-2007 24306 14807 60,9 7805 32,1 1265 5,2 429 1,8 2007-2008 24746 15784 63,8 7476 30,2 1141 4,6 345 1,4 2008-2009 24227 15334 63,3 7535 31,1 1126 4,6 232 1,0 2009-2010 19854 12755 64,2 6214 31,3 728 3,7 157 0,8 Nhìn chung, học sinh Trung học cơ sở ở Thanh Chương có ý thức tập thể, chăm ngoan, lễ phép, biết vâng lời thầy cô, ông bà và cha mẹ, biết quan tâm giúp đỡ mọi người, say mê với các hoạt động tập thể và các hoạt động xã hội. Các hiện tượng vi phạm kỷ luật, vi phạm các tệ nạn xã hội giảm nhiều. Tỷ lệ học sinh có đạo đức tốt ngày càng tăng so với những năm học trước. Đây là tiền đề để chất lượng giáo dục và các hoạt động khác được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn có một bộ phận học sinh có tình trạng sút kém về đạo đức, có lối sống thực dụng, đua đòi vi phạm các tệ nạn xã hội, có học sinh xếp loại đạo đức trung bình và yếu. Bảng 3: Xếp loại văn hoá học sinh THCS Năm học TS học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ 2005-2006 25327 228 0,9 5673 22,4 18033 71,2 1292 5,1 101 0,4 2006-2007 24306 389 1,6 5274 21,7 14632 60,2 3257 13,4 753 3,1 2007-2008 24746 737 3,0 6558 26,5 16231 65,59 1213 4,9 7 0,03 2008-2009 24227 799 3,3 7583 31,3 14655 60,49 1180 4,9 10 0,04 2009-2010 19854 665 3,4 6115 30,8 11158 56,2 1914 9,64 2 0,01 Bảng 4: Chất lượng mũi nhọn học sinh THCS Năm học TS học sinh HSG cấp huyện HSG cấp tỉnh Ghi chú 2005-2006 25327 1375 52 2006-2007 24306 1591 63 2007-2008 24746 956 82 Chỉ thi khối 9 2008-2009 24227 1008 95 Chỉ thi khối 9 2009-2010 19854 828 83 Chỉ thi khối 9 Qua bảng thống kê cho thấy: Chất lượng giáo dục văn hoá đã được nâng dần lên. Nhờ thực hiện tốt kỷ cương nề nếp trong giảng dạy mà chất lượng học tập tiếp tục được tăng cường và giữ vững. Việc thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy đã đem lại những hiệu quả đáng phấn khởi. Cho nên chất lượng đại trà đạt khá, chất lượng mũi nhọn với số lượng và chất lượng học sinh giỏi ngày càng tăng. Tuy vậy, tỷ lệ học sinh yếu kém vẫn còn cao, đặc biệt là năm học 2006-2007 tỷ lệ học sinh yếu lên đến 13,4%, học sinh kém xấp xỉ 3,1%, đây là vấn đề cần quan tâm cho những năm học tiếp theo. Bên cạnh đó chất lượng văn hoá giữa các vùng chưa đồng đều. Tỷ lệ học sinh yếu, kém ở một số trường vùng sâu còn cao như: Số con em đồng bào dân tộc Thái ở huyện Tương Dương về định cư tại Thanh Chương chưa hoà nhập kịp với cuộc sống và học tập của con em vùng xuôi, chưa nắm được phương pháp học tập trên lớp cùng như ở nhà. Sự quan tâm của đồng bào dân tộc Thái đến vấn đề học tập của các cháu chưa cao, phó mặc công việc học tập cho nhà trường. Những tồn tại trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách ở trẻ, nhất là việc xác định động cơ, thái độ học tập và việc định hướng nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp THCS. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của toàn ngành giáo dục và đào tạo, đội ngũ cán bộ quản lý các trường mầm non, tiểu học, Trung học cơ sở đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, chất lượng cán bộ ngành càng được nâng cao, năng lực quản lý ngày càng được củng cố và phát huy hiệu quả công tác. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ, chính quyền cơ sở và các chi bộ Đảng tại các nhà trường được phát huy hiệu quả, có tác dụng tích cực trong công tác cán bộ ở các nhà trường. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn hiện nay đặc biệt là năng lực quản lý. Qua bảng số liệu sau ta sẽ thấy rõ điều đó: Bảng 5: Đội ngũ cán bộ quản lý THCS Năm học TS trường TS CBQL Trình độ đào tạo Xếp loại hàng năm ĐH CĐ Chưa đạt chuẩn Tốt Khá Đạt y/c Chưa đạt y/c 2005-2006 40 80 54 21 5 25 44 8 3 2006-2007 42 82 57 24 1 32 38 10 2 2007-2008 42 83 54 29 0 36 40 6 1 2008-2009 42 83 60 23 0 38 34 9 2 2009-2010 42 85 69 16 0 35 33 17 1 Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý các trường Trung học cơ sở ngày một nâng cao. Đến năm học 2007-2008 không còn cán bộ quản lý chưa đạt chuẩn đào tạo. Bên cạnh đó công tác đánh giá xếp loại cán bộ quản lý được tiến hành nghiêm túc. Hàng năm, Phòng giáo dục kiên quyết sàng lọc số cán bộ quản lý không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, điều này có tác dụng tích cực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nói chung và đội ngũ cán bộ quản lý Trung học cơ sở nói riêng. Chất lượng đội ngũ giáo viên THCS Giáo viên là nhân tố tiên quyết làm nên chất lượng giáo dục. Hiện nay, chất lượng của một bộ phận giáo viên rất đáng lo ngại. Bởi một trong những nguyên nhân quan trọng là: Qua nhiều năm giảng dạy có những kiến thức cũ không sử dụng đã bị quên đi, những kiến thức mới không được bổ sung củng cố và tích luỹ, việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng không đạt hiệu quả. Bên cạnh đó, sự tác động của cơ chế thị trường, đời sống của một bộ phận không nhỏ giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. Lương của giáo viên chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút số sinh viên giỏi, xuất sắc vào các trường sư phạm mặc dù nhà nước đã có chính sách miễn học phí cho sinh viên các trường sư phạm Bởi vậy, muốn nâng cao chất lượng giáo dục yêu cầu quan tâm đầu tiên là chất lượng đội ngũ giáo viên. Bảng 6: Đội ngũ giáo viên THCS Năm học TS lớp TS giáo viên Trình độ đào tạo Xếp loại hàng năm GV dạy giỏi các cấp ĐH CĐ Tr cấp Tốt Khá TB Yếu Tỉnh Huyện 2005-2006 25327 890 291 520 79 17 369 479 25 17 153 2006-2007 24306 971 302 611 58 22 349 589 11 17 177 2007-2008 24746 1012 350 619 43 15 406 592 13 19 196 2008-2009 24227 1036 387 632 17 15 420 592 0 21 214 2009-2010 19854 1047 431 616 0 23 463 561 0 14 162 Qua bảng số liệu trên cho thấy, số lượng giáo viên cơ bản đáp ứng được nhu cầu giảng dạy của huyện. Số giáo viên chuẩn và trên chuẩn đào tạo đạt tỷ lệ cao 97,6%, điều này có tác dụng lớn đến nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại ở giáo viên Trung học cơ sở huyện Thanh Chưong là số giáo viên giỏi quá ít. Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh chỉ chiếm 0,013%; giáo viên dạy giỏi cấp huyện chiếm 15,4%; tỷ lệ giáo viên xếp loại trung bình và yếu hàng năm vẫn duy trì ở mức cao trên 53,6%. Điều này chứng tỏ đang còn nhiều giáo viên có “bằng cấp thật” nhưng “kiến thức dởm” mà nguyên nhân của tình trạng này là cơ chế tuyển dụng giáo viên không căn cứ vào năng lực giảng dạy thực tế của người được tuyển dụng mà chỉ căn cứ vào hồ sơ, bằng cấp. Từ năm học 2002-2003 đến nay, do triển khai đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa đồng loạt trong cả nước mà yêu cầu bắt buộc là phải dạy đủ tất cả các môn học theo quy định nên số giáo viên phải dạy chéo môn rất nhiều. Đặc biệt là các môn âm nhạc, mỹ thuật do không có giáo viên chuyên ngành, điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học của các bộ môn đó. Tình hình cơ sở vật chất trường học. Trong những năm qua nhờ thực hiện nhiều chủ trường của Đảng và nhà nước về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các nhà trường bằng nhiều chương trình mục tiêu như chương trình kiên cố hoá trường lớp học của chính phủ, chương trình hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn (chương trình 135) và bằng các nguồn vốn vay của các tổ chức nước ngoài như WB, ADB; sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm trong và ngoài nước và sự chỉ đạo quyết liệt của Huyện uỷ, UBND huyện trong việc thực hiện đề án xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia cộng với sự vận dụng đúng đắn, có hiệu quả của các xã, thị trấn, toàn huyện đã đầu tư xây dựng với tổng kinh phí hơn 35 tỷ đồng. Đến nay toàn huyện đã có 36 trường đạt chuẩn quốc gia trong đó: Mầm non: 7 trường, Tiểu học: 19 trường, THCS: 08 trường, THPT 02 trường. Hiện nay tính riêng cấp Trung học cơ sở , toàn huyện có 110 phòng học cao tầng và phòng kiên cố, số còn lại là phòng học cấp 4. Do thực hiện đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa được Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai trong cả nước bắt đầu từ năm học 2002-2003 nên số lượng các phòng thí nghiệm, thực hành, phòng học bộ môn … còn thiếu nhiều. Tính đến năm học 2009-2010 toàn huyện còn thiếu 41 phòng thí nghiệm, phòng thực hành bộ môn, 17 kho chứa. 2.2.2. Đánh giá chất lượng giáo dục Trung học cơ sở 2.2.2.1. Những thành tựu đã đạt được - Về quy mô phát triển Hàng năm tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 luôn đạt trên 97%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học vào lớp 6 Trung học cơ sở luôn đạt trên 99%. Điều này đã làm cho Thanh Chương là huyện đứng đầu toàn tỉnh về công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, là huyện sớm đạt tiêu chuẩn phổ cập Trung học cơ sở, đó chính là thành tựu nổi bật trong phát triển giáo dục và đào tạo của huyện. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương II khoá VIII của Đảng về công tác giáo dục và đào tạo, trong những năm qua mạng lưới trường lớp ở Thanh Chương được phát triển đúng hướng đáp ứng nhu cầu học tập của con em trên địa bàn. Ở các xã vùng sâu, vùng xa của huyện các em đều được đến trường và đảm bảo đủ lớp, đủ điều kiện cho con em học tập, xoá được các “điểm trắng” về giáo dục. - Về chất lượng giáo dục Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng các điều kiện đảm bảo cho công tác dạy và học, nhưng nhờ sự cố gắng của thầy và trò, sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp uỷ đảng, Chính quyền từ huyện đến xã nên chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục Trung học cơ sở nói riêng nhìn chung có những ưu điểm nổi bật sau đây: Số học sinh được xếp loại văn hoá giỏi hằng năm tăng dần (năm học 2005-2006 là 0,9% đến năm học 2009-2010 đạt 3,4%) số học sinh xếp loại yếu giảm dần. Tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu ban chỉ còn lại dưới 0,4% Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS hàng năm luôn luôn đạt trên 96% 100% các trường dạy đúng, đủ theo chương trình và sách giáo khoa mới. Chất lượng mũi nhọn hàng năm tăng, số học sinh đạt học sinh giỏi huyện tăng nhanh. Đặc biệt số học sinh đạt học sinh giỏi cấp tỉnh và đạt giải cao trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh tăng liên tục. Từ chỗ chỉ có 52 em trong năm học 2005-2006 đến năm học 2009-2010 có 83 em đạt học sinh giỏi cấp tỉnh. Trong đó có 6 em đạt giải nhất, 13 em đạt giải nhì và 14 em đạt giải 3. Năm học 2009-2010, cấp Trung học cơ sở được xếp là huyện đứng đầu trong các huyện miền núi và đứng thứ 3 toàn tỉnh về học sinh giỏi cấp tỉnh. Chất lượng giáo dục đạo đức được các nhà trường quan tâm đúng mức. Đây là tiêu chuẩn đặt ra cùng với việc nâng cao chất lượng các bộ môn văn hoá. Trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh, các nhà trường đã đưa giáo dục đạo đức lồng ghép với các môn học khác. Ngoài việc giáo dục trên lớp, các giáo viên chủ nhiệm rất coi trọng việc giáo dục học sinh qua các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt đội viên và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Thực hiện tốt việc xây dựng nếp sống văn minh, cuộc vận động dân chủ, kỷ cương, tình thương trách nhiệm trong ngành giáo dục đã có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Hoạt động giáo dục đạo đức còn được thể hiện bằng nhiều hình thức nêu gương người tốt, việc tốt. Thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy, phong trào thi đua giữa các lớp hàng tuần, góp phần xây dựng ý thức tập thể phấn đấu nỗ lực vì tập thể đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Các tiết sinh hoạt chào cờ đầu tuần ở các trường học thực sự thu hút được sự quan tâm của nhiều học sinh từ những nội dung, hình thức phong phú gắn liền với thực tế cuộc sống đã tác động đến việc hình thành nhân cách cho học sinh. Việc dạy nghề cho học sinh đã đi vào ổn định và trở thành nễn nếp. 100% học sinh lớp 9 được học một trong các nghề phổ thông như: Lâm sinh, Trồng lúa, Điện dân dụng, Tin học Công tác giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ đã được quan tâm đúng mức. Các trường đã tổ chức cho các em được học các môn âm nhạc, mỹ thuật theo nội dung chương trình mới. Sức khoẻ của học sinh ngày càng tốt hơn, các năng khiếu âm nhạc, hội hoạ ngày càng phát triển. 2.2.2.2. Những tồn tại cần khắc phục Bên cạnh những thành tích đã đạt được, giáo dục Trung học cơ sở huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An trong những năm qua vẫn còn một số hạn chế sau: - Về quy mô phát triển: Chưa cân đối giữa các vùng, tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng ở một số xã vùng sâu như xã Thanh Phong, Thanh Xuân, Thanh Đức, Thanh Thuỷ còn cao do vậy, ít nhiều ảnh hưởng đến công tác quản lý và việc nâng cao chất lượng dạy và học. - Về chất lượng giáo dục: Mặc dù trong những năm qua, chất lượng giáo dục đã được nâng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội. Đặc biệt chất lượng giáo dục chưa đồng đều giữa các vùng trong huyện, số lượng học sinh khá, giỏi chưa cao. + Mặc dù huyện đã được công nhận phổ cập giáo dục Trung học cơ sở nhưng có một số địa phương kết quả đạt chưa vững chắc như: Thanh Sơn và Kim Tiến. - Về đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên: Trình độ chuyên môn của giáo viên chưa đồng bộ, mặc dù về bằng cấp đa số giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn nhưng thực tế năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của giáo viên còn hạn chế, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục chung của toàn huyện. Một số cán bộ quản lý trường học đôi khi chưa thực hiện nghiêm túc những quy định về quản lý chuyên môn, quản lý hồ sơ, sổ sách trong các nhà trường. + Việc cải tiến phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đã được chú ý, song ở một số trường vùng sâu, vùng xa thực hiện chưa triệt để. - Về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học: Tuy đã có sự đầu tư, song một số trường còn thiếu phòng thiết bị đồ dùng dạy học và sân chơi, bãi tập chưa đúng quy cách. - Số Đảng viên là giáo viên toàn ngành còn ít, nên chưa phát huy hết vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các hoạt động trong nhà trường. Công tác phát triển Đảng còn chậm. - Hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục còn hạn chế: Công tác xã hội hoá giáo dục chưa thực chất đi vào chiều sâu. Việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác xã hội hoá giáo dục còn chậm. 2.2.2.3. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế - Nguyên nhân của những thành tựu đạt được Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện Thanh Chương trong những năm qua đã đạt nhiều thành tích đáng phấn khởi, có được nhữmg thành công đó trước tiên là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Huyện uỷ, HĐND, uỷ ban nhân dân huyện . Trên cơ sở các nghị quyết của ban chấp hành trung ương Đảng về công tác giáo dục đào tạo, Đảng bộ huyện đã có nhiều chuyên đề bàn về vấn đề giáo dục . Hội đồng nhân dân huyện khoá XVI đã ra nghị quyết số 10 về định hướng phát triển giáo dục đào tạo và xây dựng cơ sở vật chất trường học đến năm 2010. Sự chỉ đạo sát sao của UBND huyện và ngành Giáo dục trong việc thực hiện nghị quyết của Huyện uỷ, HĐND đã giúp cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của huyện phát triển bền vững . Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trong huyện là động lực cơ bản trong quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục, từ khâu chỉ đạo đến khâu thực hiện, tất cả đều như một guồng máy làm việc có tính sáng tạo, thực tế phù hợp với từng địa phương, đơn vị, các trường đã có phong trào xây dựng “ kỷ cương, tình thương, trách nhiệm ”, phong trào thi đua thầy dạy tốt, trò học tốt nở rộ khắp nơi, các hoạt động của thầy, của trò đã diễn ra sôi nổi, tạo không khí phấn khởi trong học tập ở các trường. Sự đầu tư về cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học, đặc biệt phục vụ cho đổi mới phương pháp dạy học được quan tâm đúng mức, ngoài kinh phí của ngân sách cấp cho thiết bị đồ dùng, phụ huynh học sinh còn đóng góp hàng tỷ đồng cho việc xây dựng, sửa chữa và mua sắm thiết bị học tập như đầu tư đàn organ để học âm nhạc, thiết bị học thể dục. Công tác xã hội hoá phát triển mạnh và hoạt động có chất lượng cao. Hội đồng giáo dục từ huyện đến cơ sở xã đã tiến hành đại hội định kỳ và xác định việc đầu tư cho giáo dục là đầu tư có lợi nhất . Hội đồng giáo dục các cấp đã tập hợp các lực lượng, các nguồn lực để đầu tư cho giáo dục ở địa phương mình đặc biệt rất quan tâm đến công tác khuyến học. Hội khuyến học được thành lập ở các địa phương đã phát huy được vai trò động viên, khuyến khích phong trào học tập Tăng cường mối quan hệ trong công tác giáo dục toàn diện giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Đây là một việc làm thường xuyên đem lại hiệu quả giáo dục cao. Học sinh của Thanh Chương đã chăm ngoan hơn, có ý thức rèn luyện và tu dưỡng đạo đức tốt hơn. - Nguyên nhân của những tồn tại: Do những khó khăn của điều kiện tự nhiên vùng núi cao và thực trạng kinh tế - xã hội còn chậm phát triển. Nền kinh tế của huyện chủ yếu dựa vào nông - lâm nghiệp, trình độ dân trí thấp, dân cư sống phân tán, giao thông đi lại khó khăn... Do đó, khó tạo được sự chuyển biến về nhận thức trong nhân dân đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo của huyện. Mặc dù Đảng và nhà nước đã có Nghị quyết coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhưng thực tế ở một chừng mực nhất định nào đó, giáo dục chưa phải là hàng đầu trong các chương trình hành động của các cấp chính quyền ở địa phương và trong suy nghĩ của nhiều người, dẫn đến việc đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống còn chậm, nhất là ở các xã vùng sâu. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều hạn chế, nhất là công tác thanh tra, kiểm tra còn nể nang, đội ngũ cán bộ thanh tra chưa đủ mạnh để tiến hành đồng bộ các công việc. Đội ngũ giáo viên chưa được chuẩn hoá, làm ảnh hưởng đến việc đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp dạy học. - Phần lớn học sinh THCS của huyện Thanh Chương là con em nông dân, đời sống khó khăn, ngoài giờ học ở trường, các em phải giúp gia đình lo kiếm sống, ít có thời gian và công sức tập trung cho việc học tập. Điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của học sinh. 2.2.2.4. Bài học kinh nghiệm và vấn đề đặt ra Từ thực tiễn kết quả hoạt động của giáo dục và đào tạo huyện Thanh Chương trong những năm vừa qua, rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đó là: Là huyện miền núi, kinh tế chậm phát triển, nhưng vẫn phát triển được sự nghiệp giáo dục và đào tạo là nhờ có sự chỉ đạo sát sao của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và sự quan tâm chỉ đạo của Sở giáo dục và đào tạo đưa giáo dục và đào tạo đi đúng hướng, dám nghĩ, dám làm, sáng tạo, có những giải pháp phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của địa phương. Để nâng cao chất lượng giáo dục, trước hết phải xắp xếp lại đội ngũ giáo viên sao cho phù hợp, đúng người, đúng việc, có tình, có lý, riêng chung hài hoà. Thực hiện đồng bộ các chính sách của Đảng, Nhà nước, của địa phương đối với giáo viên, tổ chức bồi dưỡng chuẩn hoá, thường xuyên tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên và cán bộ quản lý bằng nhiều hình thức như: Tập trung, tại chức, chuyên tu, bồi dưỡng theo nội dung do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Mặt khác tổng kết rút kinh nghiệm, động viên khen thưởng kịp thời, tổ chức thăm quan học tập đối với các tỉnh bạn có mô hình giáo dục tiên tiến. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm để huy động mọi nguồn lực còn tiềm ẩn trong nhân dân, nhằm tăng cường vốn và quỹ đầu tư phát triển giáo dục một cách toàn diện, vững chắc cả về số lượng và chất lượng, tăng cường cơ sở vật chất thiết bị trường học, đầu tư xây dựng phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện tạo điều kiện cho học sinh có đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, chống dạy chay, học chay đây là yếu tố tích cực đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục ở bậc THCS. Luôn luôn phấn đấu giữ vững kết quả và những thành tựu đã đạt được, xác định những bước đi tiếp theo phù hợp với khả năng và xu thế phát triển chung của cả nước và cùng thời đại, tránh " nguy cơ tụt hậu " về chất lượng giáo dục. Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN THANH CHƯƠNG TỈNH NGHỆ AN TRONG THỢI GIAN TỚI 3.1. PHƯƠNG HƯỚNG CHUNG 3.1.1. Phương hướng của Đảng và Nhà nước Đảng ta khẳng định vai trò giáo dục và đào tạo là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong phát triển lực lượng sản xuất, con ngưòi là yếu tố năng động nhất, là mục đích của sự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Thanh Chương trong tình hình hiện nay.doc