MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I: Những vấn đề cơ bản về tín dụng chứng từ và chất lượng
của việc thực hiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ . . 3
I> Những vấn đề cơ bản về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 3
I. Khái niệm, tính chất và vai trò của tín dụng chứng từ. 3
1.1 KHÁI NIỆM 3 1.2 TÍNH CHẤT CỦA TÍN DỤNG CHỨNG TỪ . . . .3
1.3 VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 5
2. Nội dung của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 6
2.1 Các bên tham gia và quy trình thanh toán 6
a) Các bên tham gia 6
b) Quy trình thanh toán 7
2.2 NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN TRONG PHƯƠNG THỨC TDCT 8
2.3 Các loại thư tín dụng thương mại 11
II> Chất lượng của việc thực hiện phương thức thanh toán TDCT.16
1. Khái niệm về chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ 16
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thanh toán TDCT. 16
2.1 Về phía ngân hàng 17
2.2 Về phía các doanh nghiệp.17
III> Nhận xét chung về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ .18
1. Ưu điểm 19
2. Nhược điểm 20
CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng NHCT Hai Bà Trưng 21
I> Khái quát chung về ngân hàng NHCT Hai Bà Trưng 21
1. Quá trình hình thành và phát triển 21
2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng NHCT Hai Bà Trưng 22
3. Tóm lược hoạt động kinh doanh của ngân hàng 24
3.1 VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2002 24
3.2 Kết quả hoạt động kinh doanh tại chi nhánh 27
a) Về công tác huy động vốn 27
b) Về công tác sử dụng vốn 29
c) Kết quả hoạt động TTQT 31
II> THỰC TRẠNG SỬ DỤNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG NHCT HAI BÀ TRƯNG 34
1. VỊ TRÍ CỦA TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NHCT HAI BÀ TRƯNG .34
2. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG MỞ VÀ THANH TOÁN L/C NHẬP KHẨU 36
3. Kết quả hoạt động thông báo và thanh toán L/C xuất khẩu 38
4. Đánh giá về. Đánh giá chất lượng việc thực hiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưnng.41
4.1 Những mặt đạt được 41
a) Về quy trình nghiệp vụ thanh toán 41
b) Sự tín nhiệm của khách hàng trong thanh toán L/C 41
c) Công tác tham mưu cho ban lãnh đạo 41
d) Phí dịch vụ thu từ phương thức TDCT.42
4.2 Những tồn tại và nguyên nhân 43
a) Những khó khăn tồn tại. .43
b) Nguyên nhân 45
Chương III: Một số giải phát nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức TDCT tại NHCT Hai Bà Trưng 50
I> Định hướng phát triển hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ trong thời gian tới của ngân hàng . 50
1. Định hướng chung 50
1.1 Mục tiêu.50
1.2 Những nhiệm vụ chủ yếu.51
2. Định hướng phát triển cụ thể đối với thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 51
II> Một số giải pháp và kiến nghị 53
1. Giải pháp đối với NHCT Hai Bà Trưng 53
1.1 Nâng cao chất lượng quy trình nghiệp vụ thanh toán 53
1.2 Phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng để hỗ trợ cho phương thức thanh toán tín dụng chúng từ 54
1.3 Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật 56
1.4 Đảm bảo an toàn trong thanh toán L/C 56
1.5 Chiến lược Marketing nhằm thu hút khách hàng 57
1.6 Không ngừng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ TTQT 61
2 Một số kiến nghị 62
2.1 Kiến nghị đối với cơ quan quản lý vĩ mô Nhà nước 62 a) Cần có những văn bản pháp lý trong giao dịch 62
b) Cải thiện cán cân thương mại quốc tế 65
c) Hoàn thiện và phát triển thị trường hối đoái 66 2.2 Kiến nghị đối với NHCT Việt Nam 67
a) Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ 67
b) Củng cố và phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý 67
c) Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nhằm nâng cao trình độ cho các cán bô ngân hàng 68
2.3 Kiến nghị đối với doanh nghiệp kinh doanh TMQT 70
Kết luận .72
Tài liệu tham khảo 73
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
02)
Khu vực kinh tế quốc doanh được ghi nhận ở mức tăng trưởng cao, nếu như năm 2001 cho vay đối với kinh tế quốc doanh đạt 553 tỷ đồng chiếm 91,5% tổng dư nợ cho vay đối với các thành phần kinh tế thì đến năm 2002, con số này đã tăng lên 735 tỷ đồng, tốc độ tăng 32,9%. Trong khi đó dư nợ của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tốc độ tăng trưởng còn chậm chỉ chiếm 18,7%. Khoảng cách chênh lệch quá lớn giữa hai con số cho thấy ngân hàng vẫn chưa thu hút được thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đây chính là sự mất cân đối mà Ban lãnh đạo ngân hàng cần có biện pháp khắc phục.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế thì cơ cấu vốn cho vay của ngân hàng cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Mặc dù có nhiều chuyển biến vậy nhưng không thể phủ nhận là tỷ trọng cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn ở các NHTM còn nhiều bất hợp lý nên nguồn vốn này chưa phát huy được hết vai trò của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Cho đến nay, tỷ trọng cho vay vốn trung và dài hạn còn quá thấp mà đây lại là nguồn vốn quan trọng để xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Do đó giải pháp quan trọng để khơi tăng nguồn vốn này là Chi nhánh cần chú trọng đến những dự án có quy mô vốn lớn, những công trình trọng điểm đồng thời kết hợp với chính sách cho vay với lãi suất hấp dẫn nhằm thu hút khách hàng... có như vậy mới rút ngắn được khoảng cách chênh lệch giữa hai nguồn vốn này.
Dư nợ phân theo thời hạn cho vay
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2001-2002)
c) Kết quả hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh trong những năm gần đây.
Năm 1996, phòng Kinh doanh đối ngoại của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng được thành lập với hai chức năng chính là kinh doanh đối ngoại và thực hiện các nghiệp vụ về TTQT. Do còn những khó khăn trong những năm đầu như đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm, trình độ đào tạo chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường, trình độ công nghệ ngân hàng còn thấp kém, uy tín của NHCT Việt Nam nói chung và Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng nói riêng chưa cao trên thị trường thêm vào đó là thị trường thanh toán quốc tế đã hình thành với vị trí độc tôn của NHNT, thời điểm ra đời hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh cũng là lúc mà tất cả các ngân hàng thương mại quốc doanh khác, các ngân hàng cổ phần, ngân hàng nước ngoài cũng bắt đầu đẩy mạnh cung cấp dịch vụ TTQT ra thị trường với những lợi thế và cách tiếp cận khác nhau nên việc tìm kiếm và giữ khách hàng hết sức khó khăn. Hoàn cảnh đó càng thấy được sự nỗ lực của tập thể cán bộ làm công tác TTQT tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. Từ khi thành lập đến nay, hoạt động TTQT của Chi nhánh đã không ngừng tăng lên cả về số lượng cũng như chất lượng.
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động KDĐN năm 1999 - 2002)
Hoạt động TTQT tại NHCT Hai Bà Trưng được thực hiện thông qua các phương thức sau:
- Phương thức chuyển tiền
- Phương thức thanh toán nhờ thu
- Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Đơn vị: USD
Bảng 4: Kết quả hoạt động TTQT tại NHCT Hai Bà Trưng
Năm
Tổng kim ngạch thanh toán TTR
Tổng kim ngạch thanh toán
Nhờ thu
Tổng kim ngạch L/C
Tổng kim ngạch TTQT
2000
12.540.324
4.128.874
39.150.533
55.819.731
2001
17.040.214
2.516.000
40.621.972
60.178.186
2002
43.998.684
1.171.688
55.002.504
100.172.576
Tổng
73.579.222
7.816.562
134.775.009
216.170.493
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động KDĐN năm 2000 - 2002)
* Phương thức chuyển tiền
Kể từ ngày 6/3/1995 hoạt động TTQT của NHCT Việt Nam thực sự đã biến đổi về chất với quy mô lớn trên lĩnh vực xử lý thông tin truyền thông. Thông tin được truyền đi thông qua mạng viễn thông của Hiệp hội viễn thông tài chính liên hàng thế giới (SWIFT). Là Chi nhánh loại một của NHCT Việt Nam, chính vì vậy dịch vụ chuyển tiền tại NHCT Hai Bà Trưng trong năm qua tăng rõ rệt đáp ứng được nhu cầu, đảm bảo thanh toán an toàn và thuận lợi cho khách hàng. Cụ thể: Tổng số tiền chuyển qua ngân hàng nếu như năm 2000 là 12.540.324USD chiếm 22,5% trong tổng kim ngạch TTQT thì đến năm 2001 tăng lên 17.040.214USD và năm 2002 con số này đã tăng lên gấp nhiều lần 43.998.684USD.
* Phương thức thanh toán nhờ thu
Phương thức thanh toán nhờ thu có nhược điểm là không đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho người bán (người xuất khẩu) chẳng hạn như:
- Người bán thông qua ngân hàng mới khống chế được quyền định đoạt hàng hoá của người mua chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua. Do đó, người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc có thể không trả tiền cũng được khi tình hình thị trường bất lợi đối với họ.
- Thứ hai, việc trả tiền còn quá chập chạp từ lúc giao hàng đến lúc nhận được tiền có thể kéo dài vài tháng hoặc nửa năm.
- Thứ ba, trong phương thức này, ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian thu tiền hộ còn không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua.
Với những bất lợi như vậy nên phương thức này không được áp dụng nhiều trong thanh toán. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thực hiện thanh toán nhờ thu qua ngân hàng nhưng số lượng ngày càng giảm chỉ chiếm khoảng 3,4% trong tổng số khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Năm 2002, số tiền thanh toán nhờ thu qua ngân hàng đạt 1.171.688USD giảm 1.344.312USD so với cùng kỳ năm ngoái.
* Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
So với hai phương thức thanh toán trên thì phương thức tín dụng chứng từ là phương thức có nhiều ưu điểm nhất, do đó thường chiếm tỷ tọng lớn trong các nghiệp vụ TTQT. Tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động TTQT phần lớn là thu từ phương thức này. Vì sử dụng phương thức thanh toán L/C thì quyền lợi của các bên được bảo đảm nhất là đối với người xuất khẩu khi sử dụng phương thức này, họ sẽ được ngân hàng đảm bảo nhận được tiền hàng đầy đủ, đúng hạn. Việt Nam chủ yếu là nước nhập khẩu (kim ngạch nhập khẩu chiếm trên 80%) do vậy, phía nước ngoài họ thường yêu cầu phía nhập khẩu mở L/C để đảm bảo quyền lợi cho họ. Chính vì vậy, không chỉ có NHCT Hai Bà Trưng mà hầu hết các NHTM khác đều hết sức chú trọng vào nghiệp vụ này và coi đó là nghiệp vụ nền tảng của hoạt động TTQT.
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDĐN năm 2000 - 2002)
Qua bảng biểu ta thấy trong những năm gần đây, nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ có sự biến động nhưng nhìn chung hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu vẫn chiếm ưu thế nhiều hơn so hàng xuất khẩu. Cụ thể, tỷ trọng thanh toán hàng nhập khẩu của 3 năm cộng lại đạt 108.898.506USD trong khi đó tỷ trọng thanh toán hàng xuất khẩu chỉ đạt 25.876.503USD. Ta thấy rằng tỷ trọng giữa thanh toán L/C xuất khẩu và L/C nhập khẩu có sự chênh lệch rất với nhau. Để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này, ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn ở phần sau.
II> Thực trạng sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế tại NHCT Hai Bà Trưng
1 Vị trí của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ trong hoạt động thanh toán quốc tế tại NHCT Hai Bà Trưng
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán có độ an toàn cao nhất. Nó bảo đảm quyền lợi và hạn chế đến mức tối đa những rủi ro có thể xảy ra cho các bên tham gia. Chính vì tính ưu việt của phương thức này mà nó được sử dụng ưa chuộng trong công tác thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong phuơng thức này đối với thanh toán hàng hoá xuất khẩu, Chi nhánh đóng vai trò là ngân hàng thông báo, ngân hàng xuất trình. Còn đối với thanh toán hàng hoá nhập khẩu, Chi nhánh đóng vai trò là ngân hàng mở L/C.
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDĐN năm 2002)
Qua biểu đồ trên ta thấy rằng, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được sử dụng nhiều nhất tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. Kim ngạch thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu bằng phương thức này chiếm khoảng 63% tổng giá trị TTQT. Do đó hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ đã đóng góp một phần không nhỏ cho hoạt động kinh doanh đối ngoại của Chi nhánh. Để phù hợp với xu hướng phát triển của hoạt động thương mại quốc tế cũng như dựa vào tính ưu việt của nó, thanh toán theo tín dụng chứng từ sẽ không ngừng được nâng cao về giá trị cũng như tỷ trọng. Một thực tế là cho đến nay tuy NHNT không còn nắm giữ vị trí độc quyền trong TTQT nhưng vẫn đang là ngân hàng có uy tín nhất trong lĩnh vực hoạt động TTQT ở Việt Nam.
2 Kết quả hoạt động mở và thanh toán L/C nhập khẩu
Hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, chính sách mở cửa của Chính phủ đã tạo ra một luồng sinh khí mới làm thay đổi bộ mặt kinh tế đất nước. Việt Nam đã trở nên quen thuộc với nhiều thị trường lớn như: ASEAN, Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc...Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam hàng năm tăng trưởng đáng kể kéo theo đó hoạt TTQT ngày càng được mở rộng. Tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng, khối lượng hàng hoá nhập khẩu cũng tăng dần lên cụ thể qua bảng sau:
Bảng 5: Tình hình hoạt động L/C nhập khẩu
Năm
Phát hành
Thanh toán
Số lượng (món)
Giá trị
(USD)
Số lượng (món)
Giá trị
(USD)
2000
341
28.043.454
357
31.150.533
2001
256
29.263.936
218
36.205.000
2002
337
20.500.000
400
41.542.973
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDĐN năm 2000-2002)
Sau hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển sôi động mạnh mẽ. Bắt đầu từ tháng 2/1994 Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, năm 1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, năm 1996 tham gia AFTA và trong năm đó Việt Nam đã ký hiệp định khung về kinh tế với EU, tháng 3/1996 trở thành thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác á- Âu. Nền kinh tế nước ta không những đã thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập mà còn mở rộng, phát triển đáng mừng. Điều này đã tác động tốt đến tình hình hoạt động của Chi nhánh. Trong năm 2000, Chi nhánh đã mở 341 món, thanh toán 357 món với giá trị thanh toán là 31.150.533USD đạt 359,7%.
Năm 2001, nước ta chuyển mình khá mạnh trước những tác động tích cực của quá trình thực hiện nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cả nước đạt 17,4 tỷ USD tăng 3,3% so với năm 2000. Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị đã phát triển trở lại cho thấy không khí đầu tư vẫn tiếp tục sôi động. Năm nay tình hình hoạt động L/C nhập khẩu vẫn tiếp tục rạng rỡ, số tiền thanh toán L/C đạt 36.205.000USD tăng 23,7% so với năm 2000.
Tiếp tục đà phát triển năm 2002, tại Chi nhánh có 337 món L/C được phát hành trị giá 20.500.000USD. Số lượng L/C thanh toán tăng lên so với năm trước là 34 món với giá trị thanh toán 41.542.973USD.
Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu thanh toán qua Chi nhánh chủ yếu là máy móc công nghiệp, nguyên vật liệu (cho ngành hoá chất, dệt may,...)
Tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng, đối tượng mở L/C chủ yếu tập trung vào khối doanh nghiệp nhà nước. Điều này cũng là dễ hiểu bởi quận Hai Bà Trưng là một quận đông dân cư tập trung nhiều khối sản xuất công nông nghiệp Trung ương và địa phương như Tổng công ty Giấy Việt Nam, Tổng công ty Lâm Sản Việt Nam, Tổng công ty Dệt Việt Nam, Công ty Giầy Thăng Long, nhà máy May Thăng Long, Nhà máy đóng tàu Hà Nội....Do đó ngay khi mới thành lập, ngân hàng đã mang trọng trách phục vụ kinh tế quận là chính. Lịch sử hình thành và địa bàn hoạt động đã đặt ra mục tiêu của ngân hàng là phục vụ kinh tế quốc doanh. Vì vậy qua quá trình hoạt động nhu cầu mở L/C chủ yếu tập trung vào khối doanh nghiệp nhà nước này. Đây đều là những doanh nghiệp lớn hoạt động dưới sự bảo hộ của nhà nước và có uy tín do đó để có thể giữ chân khách hàng, NHCT Hai Bà Trưng đã không ngừng thay đổi tỷ lệ ký quỹ như ký quỹ với tỷ lệ thấp từ 20% đến 80% tuỳ thuộc vào mức độ tin cậy của ngân hàng với khách hàng. Đồng thời, Chi nhánh luôn chủ động tìm kiếm khách hàng mới nhằm gia tăng thị phần TTQT cho ngân hàng. Để khuyến khích được nhiều người tham gia mở L/C qua Ngân hàng, Chi nhánh đã rất cố gắng trong việc mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài.
Hiện nay, Chi nhánh đã duy trì quan hệ với các ngân hàng sau:
bảng 6 : quan hệ của Chi nhánh với ngân hàng quốc tế
Đặc điểm
Ngân hàng giao dịch
Đồng tiền giao dịch
1. úc
COMMON W alth bank (sydney)
Aud
2. Nhật
Tokai sank (tokyo)
Jpy
3. Đức
Kreis ag frankfurt
Dem, usd
4. Pháp
Banque indosez (pari)
Frf
5. Mĩ
Corestates - bank (new york)
Usd và các đồng tiền khác
6. China
BANH OF CHINA
HKG
7. Singapore
Dbs bank
SDG
(Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động KDĐN năm 2002)
Toàn bộ số lượng thư tín dụng được mở tại Chi nhánh là loại thư tín dụng không hủy ngang. Đây là loại L/C cơ bản nhất đảm bảo an toàn cho cả người mở lẫn người hưởng lợi nên được khách hàng sử dụng ưa chuộng. Thêm nữa, hệ thống NHCT Việt Nam là một trong bốn NHTM lớn có mạng lưới giao dịch rộng khắp, có uy tín trên thị trường và với các doanh nghiệp bạn hàng. Do vậy khi thực hiện việc phát hành L/C, Chi nhánh đóng vai trò là ngân hàng phát hành đồng thời là ngân hàng xác nhận mà không cần đến vai trò của ngân hàng khác. Tức là với vai trò này, Chi nhánh sẽ thực hiện yêu cầu và chỉ thị của khách hàng (người yêu cầu phát hành thư tín dụng) hoặc nhân danh chính mình tến hành trả tiền theo lệnh của một người thứ ba (người hưởng lợi).
3 Kết quả hoạt động thông báo và thanh toán L/C xuất khẩu
So với hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu thì hoạt động thanh toán L/C xuất có phần phát triển muộn hơn, điều này do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan đó là do hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chưa phát triển do đó tỷ lệ hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu quá chênh lệch nhau, tỷ lệ nhập siêu kéo dài trong nhiều năm làm cho cán cân thanh toán nước ta luôn trong tình trạng thâm hụt. Bên cạnh đó nguyên nhân chủ quan là do
tâm lý của khách hàng. Các doanh nghiệp tham gia thanh toán hàng xuất bằng phương thức L/C vẫn tập trung chủ yếu ở NHNT Việt Nam. Thanh toán L/C xuất khẩu của Chi nhánh trong thời gian qua được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7: Kết quả Hoạt động thanh toán L/C xuất khẩu
Đơn vị:USD
Năm
Thông báo L/C
Thanh toán L/C
Số lượng (món)
Giá trị
(USD)
Số lượng (món)
Giá trị (USD)
2000
184
6.605.300
259
8.000.000
2001
97
3.658.120
48
4.416.972
2002
311
9.700.000
286
13.459.531
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDĐN năm 2000-2002)
Năm 2000 nhờ có những chính sách vĩ mô thích hợp, tình trạng xuất khẩu nước ta đã có những bước tiến khá mạnh. Đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam đã có sự khởi sắc trở lại. Chính vì vậy năm 2000, kết quả hoạt động L/C xuất khẩu tại NHCT Hai Bà Trưng đã tăng lên một cách đáng mừng cụ thể Chi nhánh đã thông báo được 184 món trị giá 6 triệu USD đạt 136,9% so với năm 1999. Đặc biệt trong năm nay đã thanh toán được 259 món L/C xuất khẩu tương đương với 8 triệu USD.
Tuy nhiên bước sang năm 2001, tình hình thế giới đã có nhiều biến động như sự giảm cầu và hạ giá của nhiều mặt hàng xuất khẩu do nền kinh tế thế giới suy thoái, tác động của sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ lại là những khó khăn trở ngại không nhỏ gây kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển của lưu thông hàng hoá trong nước cũng như hoạt động xuất khẩu.
Năm 2001, tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta đạt 17,5 tỷ USD thấp hơn so với mục tiêu đặt ra từ đầu năm. Kết quả này là do tình hình kinh tế thương mại thế giới diễn biến không thuận lợi nhất là vào những tháng cuối năm. Trở lại với hoạt động thanh toán L/C hàng xuất của NHCT Hai Bà Trưng, năm qua trước tình hình như vậy giá trị thanh toán L/C hàng xuất chỉ đạt 4.416.944USD giảm 20,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đứng trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Chi nhánh đã phân tích nhằm tìm ra nguyên nhân đồng thời đưa ra phương hướng, biện pháp khắc phục trong những năm tới. Bằng hướng đi đúng đắn và thích hợp, năm 2002 hoạt động xuất khẩu tại Chi nhánh đã có sự khởi sắc trở lại. Năm qua đã có 286 món L/C thông báo với giá trị thanh toán hàng xuất đạt 13.459.531USD tăng 38,7% so với năm 2001. Đây là sự tiến bộ rất lớn trong công tác thanh toán L/C vì tất cả các bộ xuất đều đã đòi được tiền từ ngân hàng nước ngoài chính xác, kịp thời không để xảy ra sai sót.
Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thanh toán qua Chi nhánh chủ yếu là hàng may mặc, đồ gỗ ngoài ra còn có thiết bị điện tử và một số mặt hàng khác. Và thị trường xuất khẩu chủ yếu là Singapore, Trung Quốc,...
Tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng, hoạt động thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu đều được thực hiện theo phương thức trả ngay (L/C trả ngay - L/C at sight). Nhu cầu thanh toán theo phương thức trả chậm của khách hàng hầu như không có. Sở dĩ có điều này là vì phương thức thanh toán L/C trả chậm luôn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro như rủi ro về tình hình thị trường thay đổi, rủi ro về tỷ giá... Hình thức thanh toán L/C trả chậm thực chất là hình thức cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu. Như vậy khi đến kỳ hạn trả nợ, họ phải thực hiện Chi trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Từ nhược điểm ấy mà không khuyến khích được khách hàng đến giao dịch theo phương thức trả chậm. Vì nó không đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia nhà xuất khẩu, nhập khẩu và cả ngân hàng mà tâm lý khách hàng luôn mong muốn thực hiện giao dịch với độ an toàn tối đa. Do vậy, L/C trả ngay được sử dụng hầu hết trong các giao dịch tại Chi nhánh. Nhờ đó mà Chi nhánh luôn giữ được uy tín của mình trong các giao dịch với khách hàng tạo được niềm tin và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng đặc biệt là với khách hàng truyền thống.
4. Đánh giá chất lượng việc thực hiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng
4.1 Những mặt đã đạt được
a) Về quy trình nghiệp vụ thanh toán
Trong những năm qua, Chi nhánh đã đạt được một quy trình nghiệp vụ tương đối phù hợp từ khâu cấp mẫu đơn xin mở L/C cho đến khâu hoàn tất thủ tục hoàn tất tài khoản. Khách hàng khi có yêu cầu mở L/C đều được thanh toán viên cấp mẫu đơn với những hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể trong từng điều khoản do đó mà khách hàng đều thấy yên tâm khi đến giao dịch tại Chi nhánh. Đồng thời thì chứng từ mỗi lần chuyển giao đều được lưu lại trong hồ sơ để tránh nhầm lẫn. Do đội ngũ cán bộ thanh toán với thái độ làm việc nhiệt tình nên việc tra soát cũng như sửa đổi L/C được thực hiện đúng thủ tục, quy trình cũng như độ chính xác cao và nhanh chóng.
b) Sự tín nhiệm của khách hàng trong thanh toán L/C
Thông qua việc không ngừng đổi mới công nghệ ngân hàng đặc biệt là công nghệ thanh toán trong hệ thống NHCT Việt Nam, việc tham gia vào mạng SWIFT với nhiều ưu điểm như nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm Chi phí đã giúp Chi nhánh tạo được niềm tin cho khách hàng vì thế đã thu hút được nhiều khách hàng đến với Chi nhánh qua đó khẳng định được vị thế vững chắc của mình trên địa bàn, ngày càng chiếm được niềm tin của khách hàng - phần thưởng vô giá của một quá trình phấn đấu bền bỉ, lâu dài không mệt mỏi của toàn thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng
c) Công tác tham mưu cho ban lãnh đạo và phòng tín dụng
Sự phát triển của TTQT đã góp phần thúc đẩy sự liên kết, hỗ trợ các nghiệp vụ khác của NHCT Hai Bà Trưng, đặc biệt với nghiệp vụ tín dụng. Trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi chính sách thương mại đã tạo ra hàng rào bảo hộ khá phức tạp làm cho giá cả nội địa chênh lệch trung bình khoảng 30-50% so với giá quốc tế (giá CIF). Với cơ cấu cho vay ngắn hạn cao, chiếm khoảng gần 63% tổng dư nợ cho vay, nhiều dự án vay vốn ngắn hạn chỉ có hiệu quả khi thực hiện xuất nhập khẩu. Với chức năng đem các doanh nghiệp đến thị trường quốc tế - đặt thị trường quốc tế trong tầm tay doanh nghiệp, TTQT đã mở ra nhiều cơ hội, dự án đầu tư cho doanh nghiệp, xây dựng hình ảnh của NHCT Hai Bà Trưng thực sự là một đối tác, một địa chỉ tin cậy của các doanh nghiệp.
d) Phí dịch vụ từ phương thức tín dụng chứng từ
Trong những năm qua khoản phí dịch vụ theo phương thức tín dụng chứng từ chiếm một tỷ trọng tương đối lớn khoảng 70-75% góp phần đàng kể vào tổng lãi kinh doanh đối ngoại của Chi nhánh.
Bảng 8: Kết quả Thu lãi kinh doanh
Đơn vị: triệu VNĐ
Năm
2000
2001
2002
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
±D
Tỷ trọng (%)
Số tiền
±D
Tỷ trọng (%)
Lãi thu từ KDĐN
3.431
100
4.625
+1194
100
4.634
+9
100
1.Thu phí dịch vụ L/C
2.644.
77,06
3.197
+553
69,1
3.718
+521
80,23
2. Thu lãi KDNT
787
22,94
1.428
641
30,9
916
-512
19,77
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDĐN năm 2000- 2002)
Trên đây là những thành tựu mà NHCT Hai Bà Trưng đã đạt được trong bảy năm qua. Trải qua hơn bảy năm trưởng thành cùng NHCT Hai Bà Trưng, TTQT đã tìm được chỗ đứng trên thị trường, đã tích luỹ cho mình một năng lực nội sinh, một nội lực cho phát triển bền vững. Xử lý được các thách thức, tận dụng được cơ hội, TTQT chắc chắn sẽ gặt hái được những thành tựu to lớn hơn bởi sự phát triển luôn bắt nguồn từ những quyết sách của Ban lãnh đạo và nỗ lực của cán bộ TTQT, những nhân tố chính đã làm nên thành tựu TTQT trong bảy năm qua.
4.2 Những tồn tại và nguyên nhân
a) Những khó khăn tồn tại
Với sự cố gắng và nỗ lực của tập thể cán bộ làm công tác kế toán ngoại tệ và TTQT, trong những năm qua hoạt động TTQT tại Chi nhánh tuy đã đạt một số kết quả nhất định song bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại mà Chi nhánh cần phải khắc phục:
- Thứ nhất, trình độ cán bộ TTQT tại Chi nhánh còn hạn chế không đồng đều.
Sự hiểu biết của thanh toán viên về các lĩnh vực khác như tập quán thương mại của các quốc gia, các điều luật, công ước quốc tế liên quan đến hoạt động TTQT chưa rộng, chưa sâu. Việc nắm bắt thông tin về khách hàng đôi khi còn chưa chắc chắn mà nghiệp vụ TTQT lại là nghiệp vụ rất phức tạp đòi hỏi cán bộ TTQT phải có chuyên môn vững vàng và dày dặn kinh nghiệm. Hơn nữa, đây cũng là hoạt động khá mới mẻ đối với Chi nhánh nên các cán bộ thanh toán thường gặp phải khó khăn trong việc học tập, tìm tòi tài liệu, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho bản thân.
- Thứ hai, hiệu quả đóng góp từ phí thu nhập dịch vụ L/C so với tổng thu nhập chung của ngân hàng còn thấp.
Bảng 11 : phí Thu từ dịch vụ L/C so với tổng thu nhập
(Đơn vị : Triệu đồng)
Năm
Thu từ dịch vụ L/C
Tổng thu nhập
Tỷ trọng thu từ
dịch vụ/tổng thu nhập
2000
2.644
93.350
2,83%
2001
3.197
101.037
3,16%
2002
3.718
111.466
3,34%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDĐN năm 2000- 2002)
Số liệu ở bảng trên cho thấy, mặc dù phí thu từ dịch vụ L/C tại Chi nhánh có tăng lên song so với tổng thu nhập của ngân hàng thì con số này còn quá thấp.
Những loại dịch vụ mà ngân hàng cung cấp chủ yếu chỉ dựa vào nền tảng các nghiệp vụ có sẵn chứ ngân hàng chưa đưa ra được những loại hình dịch vụ mới vừa phù hợp với khả năng thực tế tại ngân hàng, lại vừa tận dụng được tiềm lực của ngân hàng. Những hình thức quảng cáo như khuyến mại, giới thiệu trên các phương tiện thông tin như đài báo, gửi thư, tiếp thị trực tiếp đến các doanh nghiệp, cá nhân, chính sách chăm sóc khách hàng... chưa được khai thác một cách triệt để. Các hình thức thư tín dụng như thư tín dụng tuần hoàn, thư tín dụng giáp lưng, cho vay chiết khấu nợ chứng từ, bảo lãnh tiền đặt cọc, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hải quan, nhận hàng không có vận tải đơn... chưa được sử dụng phong phú vì thế dẫn đến còn một số khó khăn nhất định trong vấn đề thu hút khách hàng.
- Thứ ba, về chất lượng cơ cấu khách hàng
Hiện tại, cơ cấu khách hàng TTQT chưa có chuyển biến mạnh. Với một mẫu điều tra 100 L/C nhập ngẫu nhiên, số doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 85%, trị giá mở L/C chiếm 87,25%, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn ở con số còn khá khiêm tốn. Hai mảng số liệu trên tuy không hoàn toàn tương thích nhưng cũng đã cho thấy cơ cấu khách hàng TTQT của NHCT Hai Bà Trưng còn phụ thuộc nặng nề vào các tổng công ty, công ty nhà nước. Các doanh nghiệp nước ngoài và phi nhà nước chưa được khai thác và mở rộng. ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều các ngân hàng tham gia vào thanh toán xuất nhập khẩu đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh cho nên cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng trở nên gay gắt. Do vậy, nếu NHCT Hai Bà Trưng chỉ ưu tiên đối với doanh nghiệp quốc doanh thì ngân hàng có thể sẽ gặp rủi ro trong đa dạng hoá cơ cấu khách hàng từ đó phần nào hạn chế khả năng mở rộng thị phần TTQT của ngân hàng. Bởi không phải cứ là doanh nghiệp nhà nước là kinh doanh có hiệu quả. Thực tế đã chứng minh rằng có nhiều doanh nghiệp thuộc sự quản lý nhà nước nhưng vẫn làm ăn không hiệu quả.
- Thứ tư, vai trò của ngân hàng trong việc tư vấn, cung cấp thông tin cho khách hàng còn nhiều hạn chế.
Không chỉ riêng Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng mà tại các NHTM khác, việc tìm hiểu thông tin qua mạng Internet, qua phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), qua Trung tâm thông tin tín dụng thuộc NHNN Việt Nam của các thanh toán viên vẫn chưa trở thành một thói quen hàng ngày. Việc tra cứu thông tin trên mạng còn rất hạn chế. Họ chỉ tìm hiểu thông tin khi thực sự cần thiết. Điều này đã phần nào hạn chế khả năng tư vấn đối với khách hàng dẫn đến gây bất lợi cho họ bởi hoạt động kinh tế diễn ra thay đổi từng giờ, từng phút. Việc thiếu thông tin đặc biệt thông tin về đối tác làm ăn sẽ đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào thế bị động trong cuộc đàm phán. Thực tế đã chứng minh có nhiều doanh nghiệp Việt Nam do thiếu thông tin nên không mua được hàng hoá trực tiếp từ người sản xuất mà phải ký hợp đồng qua trung gian, mua bán vòng vèo làm cho giá cả hàng hoá bị đẩy lên cao trong kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100884.doc