Đối với nguồn lực lao động thì trình độ học vấn là một trong những tiêu chí cơ bản, là cơ sở quan trọng để đánh giá chất lượng, khả năng và hiệu quả làm việc của nguồn lực lao động. Nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng nguồn lực lao động, Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Thái Bình đã phát triển mạnh hệ thống giáo dục đào tạo của tỉnh về quy mô đào tạo đa dạng, phong phú về hình thức để đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Tháng 12 - 1991, Thái Bình được công nhân đạt tiêu chuẩn quốc gia về giáo dục tiểu học - chống mù chữ, tháng 7 - 1999, đạt chuẩn quốc gia về giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tháng 3 - 2002, được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Mạng lưới trường, lớp cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân.
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1789 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động dồi dào, thị trường sức lao động rẻ, đây là nguồn lực quý để phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm, nước sạch ở nông thôn Thái Bình phát triển khá đồng bộ, cảng Diêm Điền, các tuyến quốc lộ 10, 39 được nâng cấp... đã tạo cho Thái Bình có bước nhảy vọt về chất, phá vỡ được thế “ốc đảo”, trở thành tỉnh có mạng lưới giao thông thuỷ bộ khá phát triển. Đây là cơ sở thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp và dịch vụ tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng nguồn lực lao động.
Là tỉnh có nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm: nguồn khí đốt ở Tiền Hải là cơ sở để phát triển công nghiệp dầu khí, phục vụ cho các ngành công nghiệp địa phương phát triển; đất đai phì nhiêu, màu mỡ là cơ sở thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp hiện đại...Tỉnh có chính sách đúng để phát triển và sử dụng nguồn lực này sẽ thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng nguồn lực lao động.
* Khó khăn:
Cơ cấu kinh tế lạc hậu, chuyển dịch chậm (tỷ trọng nông nghiệp lớn trong khi đó tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ thấp) ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu lao động.
Nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng thấp, chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Việc làm và thu nhập của dân cư vẫn là vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội.
Là tỉnh nghèo tài nguyên thiên nhiên.
Mặc dù tỉnh đã có nhiều chính sách thông thoáng để thu hút đầu tư nhưng đến nay nhiều nhà đầu tư vẫn có tâm lý ngại về đầu tư ở Thái Bình. Cho nên, vốn đầu tư phát triển còn khó khăn, cơ sở sản xuất mới còn chưa ra đời nhiều. Máy móc thiết bị công nghệ sản xuất chậm đổi mới, chưa tân tiến, chưa hiện đại.
Hệ thống thị trường phát triển còn nhiều bất cập, thị trường ngoài tỉnh còn rất hạn hẹp, thị trường thông tin, vốn, lao động,... chưa hình thành một cách rõ nét, thị trường hàng hoá tiêu dùng đáng chú ý là thị trường thực phẩm có liên quan trực tiếp đến sức khoẻ của nhân dân chưa có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ thường xuyên.
Những thuận lợi và khó khăn trên đã có tác động lớn tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng nguồn lực lao động của tỉnh.
2.1.2. Đặc điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình và yêu cầu đặt ra đối với nâng cao chất lượng nguồn lực lao động
Hiện nay công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình biểu hiện đầy đủ các đặc điểm chung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn quốc. Những yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lực lao động của tỉnh cũng không nằm ngoài những yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lực lao động của cả nước. Phần này luận văn chỉ đi phân tích những mặt hạn chế trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh. Từ đó thấy được công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn muốn thành công thì cần phải nâng cao chất lượng nguồn lực lao động.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVII tiếp tục khẳng định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình là phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nhưng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn những thiếu sót sau:
Kinh tế nông nghiệp nông thôn chuyển dịch chậm, sản xuất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, chủ yếu vẫn độc canh cây lúa mang nặng tính tự cấp, tự túc chưa tạo được khối lượng hàng hoá lớn và tập trung. Phương thức chăn nuôi gia súc, gia cầm còn lạc hậu, quy mô nhỏ. Số hộ chăn nuôi công nghiệp gia trại, trang trại còn ít. Nuôi trồng thuỷ, hải sản chủ yếu vẫn là quảng canh, năng suất thấp. Một số vùng nuôi thuỷ, hải sản ven biển chưa được quy hoạch lại. Phương tiện đánh bắt xa bờ kỹ thuật kém, hiệu quả thấp.
Việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn hạn chế. Công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ hải sản phát triển chậm, quy mô nhỏ và phần lớn công nghệ, thiết bị lạc hậu, nên năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thấp.
Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật ở nông thôn còn ít, trình độ hạn chế, thiếu nhiều kỹ sư giỏi và thợ lành nghề. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp thiếu nhiều kĩ sư nông nghiệp giỏi. Lao động ở nông thôn dư thừa nhiều, chủ yếu là lao động thủ công, trình độ thấp, phần lớn chưa qua đào tạo.
Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng chưa hoàn chỉnh, một số đã xuống cấp nghiêm trọng, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hoá gắn với thị trường và xây dựng nông thôn mới.
* Nguyên nhân của những hạn chế trên
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp, đất chật người đông, tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, điểm xuất phát đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở mức thấp.
Một số cơ chế, chính sách của Đảng, của Nhà nước chưa phù hợp thiếu đồng bộ, nhất là chính sách về đất đai, đầu tư tín dụng, khoa học - công nghệ, thị trường…
Các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Tập quán sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc của người sản xuất tạo ra sức ỳ cao, thiếu năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường.
Hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất đời sống. Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, đổi mới máy móc, thiết bị, đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề còn hạn chế.
Như vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Thái Bình có thực hiện được hay không là phải phụ thuộc vào chất lượng nguồn lực lao động ở tỉnh. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn lực lao động là một đòi hỏi cấp thiết trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh.
2.2. Thực trạng việc nâng cao chất lượng nguồn lực lao động ở Thái Bình
2.2.1. Đặc điểm cơ bản của nguồn lực lao động ở Thái Bình
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình đòi hỏi phải phân tích, đánh giá đúng đầy đủ những đặc điểm của nguồn lực lao động để xác định phương hướng giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao thể lực, trí lực và phẩm chất đạo đức. Với mục tiêu sử dụng nguồn lực lao động của tỉnh có hiệu quả ngày một cao hơn. Dưới đây là một số đặc điểm cơ bản của nguồn lực lao động ở Thái Bình.
* Quy mô lực lượng lao động lớn.
Thái Bình là một tỉnh có diện tích nhỏ nhưng quy mô dân số lớn, mật độ dân số quá cao (118 người/km2) ). Cao gấp 5,7 lần so với mật độ dân số của cả nước, gấp 10 lần so với mật dộ dân số của Trung Quốc và gấp 29 lần so với mật độ dân số thế giới.
Năm 2004, lực lượng lao động toàn tỉnh có 1.072,3 nghìn người, tăng 2,1% so với năm 2003 với quy mô tăng thêm là 21,1 nghìn người, so với năm 2001 tăng 9,68%, bình quân tăng hàng năm (2001-2004) là 2,95% và tương đương với số tăng bình quân 31,56 ngàn người/năm [2, 4]. Số liệu này cho thấy lực lượng lao động của tỉnh trong 3 năm đã tăng ở mức cao.
Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động của tỉnh qua các năm 2001- 2004 lần lượt là 73,23%; 75,83% và 77,96%. Năm 2004 tỷ lệ tham gia của những người làm việc và thất nghiệp so với dân số từ 15 tuổi trở lên tăng so với 2001 là 4,73% và tăng lên liên tục qua các năm từ 2001- 2004. Điều này nói lên mức độ hoạt động của thị trường lao động trong nền kinh tế Thái Bình nói riêng và cả nhà nước nói chung có xu thế tăng đáng kể.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của tỉnh khá cao phù hợp với cơ cấu dân số theo nhóm tuổi của những năm trước đây. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động năm 2001 là 913,9 ngàn người, năm 2003 là 970,8 ngàn người và năm 2004 là 990,5 ngàn. Năm 2004 so với năm 2001, lực lượng lao động trong độ tuổi tăng 8,38%, bình quân hàng năm tăng trên 2,7% với quy mô tăng bình quân là 25,5 ngàn người/năm. Như vậy, lực lượng lao động trong độ tuổi có tốc độ và quy mô tăng bình quân hàng năm thấp hơn lực lượng lao động nói chung.
Tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi của nguồn lực lao động cao: năm 2004, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong độ tuổi lao động so với tổng lực lượng lao động là 92,37%, giảm so với năm 2003 là 0,06%. Tiếp đến, các năm 2002 và 2001 có tỷ lệ tương ứng là: 90,33% và 93,5%. Bình quân 4 năm 2001-2004, tỷ lệ ở mức trên 92%. Những người trong độ tuổi lao động là những người có quyền và nghĩa vụ tham gia hoạt động kinh tế do pháp luật quy định. Tỷ lệ trên cho thấy đối tượng mà chính sách lao động - việc làm trực tiếp tác động của Thái Bình là rất lớn.
* Lao động ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động toàn tỉnh.
Dân số trong tỉnh phần lớn sống ở nông thôn (93%) nên lực lượng lao động ở khu vực nông thôn khá đông, có 723.166 người, chiếm 72% lực lượng lao động toàn tỉnh. Mặc dù chiếm số lượng đông nhưng chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, số lượng đào tạo nghề chỉ chiếm 8,17% [2, 6].
Trong 4 năm, từ năm 2001- 2004, tỷ lệ lực lượng lao động ở nông thôn trong tổng lực lượng lao động có xu hướng giảm: Năm 2002 chiếm 92,59% trong tổng lực lượng lao động của tỉnh giảm 0,28% so với năm 2001; con số này tương ứng với các năm như sau: năm 2003: 94,35% giảm 0,24% so với năm 2002; nhưng năm 2004 tỷ lệ này là 93,38% có xu hướng tăng so với năm 2003 là 0,03%. Mặc dù là tỷ lệ lao động trong khu vực nông thôn giảm nhưng số lao động vẫn tăng lên. Hàng năm khu vực này tăng lên khoảng 11 nghìn lao động.
Nguyên nhân của tình trạng chất lượng lao động thấp ở nông thôn Thái Bình.
- Phần lớn những gia đình nông dân sống ở nông thôn không có điều kiện cho con em học hành, trình độ văn hoá thấp, chưa qua đào tạo nghề nên rất khó tìm được việc làm, sức ép về lao động việc làm ở khu vực này rất bức xúc. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn lao động trong lĩnh vực này là rất khó khăn.
- Hệ số sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông nghiệp nông thôn rất thấp, năm 2001 đạt 74,69%; sau ba năm, đến năm 2004 hệ số này cũng chỉ đạt 79,19%.
- Giá trị bình quân lao động ngày càng thấp, chỉ đạt từ 12 - 15 ngàn đồng/ngày công nên đời sống của người lao động ở nông thôn gặp rất nhiều khó khăn.
- Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra chậm, quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán, trồng trọt chủ yếu vẫn là cây lúa nước, chăn nuôi chiếm tỷ trọng thấp, thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá còn gặp nhiều khó khăn, công nghiệp và dịch vụ phát triển chậm. Đầu tư thu hút lao động ở khu vực thành thị còn hạn chế, lao động ở nông thôn có đủ điều kiện về chuyên môn kỹ thuật để tìm kiếm việc làm ngoài khu vực còn ít. ở khu vực nông thôn chủ yếu vẫn là lao động thủ công, việc làm sử dụng nhiều lao động vẫn là thị trường lao động ở Thái Bình.
Những năm gần đây việc giải quyết việc làm cho người lao động đã được tổ chức Đảng và chính quyền các cấp hết sức quan tâm. Bằng nhiều chương trình chính sách cụ thể như: Chương trình xây dựng cánh đồng 50 triệu/ha/năm, chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình phát triển làng nghề, chương trình khuyến nông - lâm - ngư, chương trình phát triển kinh tế biển, chương trình nuôi trồng nấm xuất khẩu... Thông qua những chương trình, chính sách cụ thể đó, đến nay trên địa bàn tỉnh có 152 làng nghề thu hút 14,5 vạn lao động. Từ năm 2001 đến năm 2004, quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm của tỉnh đã cho vay 2.648 lượt dự án với số tiền là 79 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 2,5 vạn lao động. Công tác đào tạo dạy nghề cho người lao động được đẩy mạnh, đã đào tạo được 2.500 lao động nông thôn theo đề án dạy nghề cho khu công nghiệp; ngoài ra còn mở rộng hoạt động dạy nghề thông qua các tổ chức khuyến nông - lâm - ngư và truyền nghề của các nghệ nhân. Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn từ 74,69% năm 2001 lên 79,19% năm 2004; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 20% năm 2001 lên 25,6% năm 2004 [48, 5].
* Lao động ở khu vực thành thị ngày càng tăng nhưng diễn ra với tốc độ chậm.
Dân số ở khu vực đô thị Thái Bình có 146.022 người mật độ dân số rất cao 3.226 người/km2. Tốc độ người dân về cư trú tại khu vực thị xã ngày càng tăng. Năm 2002 chỉ có 6% nhưng đến năm 2004 đã chiếm 7,4% dân số của cả tỉnh.
Tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị có tăng nhưng diễn ra với tốc độ chậm. Năm 2001, tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị chiếm 5,13% tổng lao động toàn tỉnh. Năm 2002 là 5,41% tăng so với năm 2001 là 0,28%. Tỷ lệ này tương ứng diễn ra với các năm tiếp theo như sau: năm 2003: 5,65% tăng so với năm 2002 là 0,24%; năm 2004: 6,26% tăng so với năm 2003 là 0,61% [2, 6].
Tháng 6 năm 2004 thị xã Thái Bình được nhà nước công nhận là Thành phố loại III thì tốc độ đô thị hoá diễn ra rất nhanh. Dân số và lao động được cuốn hút vào khu vực này ngày càng đông. Ngoài lực lượng lao động tại chỗ còn có số lượng lao động đáng kể từ các vùng nông thôn vào đô thị tìm kiếm việc làm. Theo kết quả điều tra nhanh lao động, việc làm tại thời điểm ngày 1/7/2004, sau một năm nâng cấp từ thị xã lên cấp Thành phố tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này đã tăng lên một cách đột biến từ 5,52% năm 2003 lên 8,48% năm 2004, tương ứng với 8150 lao động [71, 3].
Sau khi khảo sát, nghiên cứu tình hình lao động ở khu vực thành phố Thái Bình chúng tôi thấy: số lao động thất nghiệp phần lớn tập trung ở thanh niên (từ 15 - 24 tuổi) chiếm 38,25% đây là lực lượng lao động trẻ, khoẻ có trình độ học vấn cao đã tốt nghiệp phổ thông trung học và đã từng tham dự kỳ thi đại học từ 1 - 2 lần nhưng không trúng tuyển. Hiện nay trong số đó có một bộ phận vẫn đang luyện thi đại học, một số khác đã học nghề với các khoá ngắn hạn với tâm lý chờ đợi để được đi xuất khẩu lao động sang các nước có nền kinh tế phát triển.
Một số đông thanh niên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp vẫn mang nặng tâm lý muốn tìm việc ở khu vực kinh tế nhà nước hoặc làm việc ở khu vực đô thị, ngại đi tìm việc và nhận công tác ở vùng nông thôn.
Cơ cấu kinh tế và lao động của tỉnh chuyển dịch chậm, các ngành công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển mạnh, chính sách đầu tư chưa thông thoáng, các thế mạnh và tiềm năng của tỉnh chưa được huy động và khai thác tối đa để thúc đẩy sản xuất phát triển, cho nên người lao động rất khó có thể tìm kiếm việc làm.
Trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước; có một số bộ phận lớn lao động bị đẩy ra ngoài xã hội không có việc làm nhưng tỉnh chưa có chính sách hữu hiệu để đào tạo lại và sử dụng số lao động này.
Để khắc phục tình trạng trên cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau: xây dựng và thực hiện tốt chương trình việc làm của khu vực đô thị, đẩy mạnh công tác đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động.
* Tỷ lệ lao động làm việc trong thành phần kinh tế nhà nước có xu hướng giảm.
Sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến sự chuyển biến nhận thức mới của xã hội về lao động và việc làm. Trước đây, chỗ làm việc duy nhất của người lao động là khu vực kinh tế nhà nước. Còn ngày nay, lao động từ khu vực kinh tế nhà nước chuyển sang lao động ở các thành phần kinh tế khác. Toàn tỉnh có 87 doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh ở các lĩnh vực khác nhau. Nhưng những năm qua, các doanh nghiệp này đều hoạt động không có hiệu quả, thua lỗ kéo dài, mất vốn, thu nhập thấp, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, khả năng thu hút lao động hạn chế; tại thời điểm 31/12/2004 thành phần kinh tế nhà nước chỉ có 51.511 người, chiếm 5,42% tổng lực lượng lao động xã hội đang làm việc trên địa bàn tỉnh.
* Tỷ lệ lao động làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài nhà nứốc có xu hướng tăng.
Những năm qua thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh đều phát triển. ở các ngành, các lĩnh vực, các loại hình doanh nghiệp tư nhân, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể phát triển mạnh mẽ đã góp phần quan trọng vào huy động tiềm năng, nội lực, công sức, kinh nghiệm, trí tuệ và các nguồn vốn của nhân dân đầu tư cho sản xuất kinh doanh, giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Lao động trong các thành phần kinh tế liên tục tăng trong các năm. Bình quân mỗi năm tăng gần 7 nghìn người.
Bảng 2.4: So sánh lao động làm việc theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: Người
Năm
Thành phần kinh tế
2000
2001
2002
2003
Tổng số lao động đang làm việc
938.000
939.000
942.000
961.000
Thành phần kinh tế nhà nước
49.000
48.000
51.000
52.000
Các thành phần kinh tế ngoài
nhà nước
889.000
891.000
89.000
909.000
Nguồn: Cục thống kê Thái Bình 2004 [10, 3].
So sánh cơ cấu lao động làm việc theo các thành phần kinh tế ta thấy khu vực kinh tế ngoài nhà nước sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng lao động trong tỉnh. Tỷ lệ lao động đang làm việc có xu hướng tăng dần ở khu vực kinh tế nhà nước nhưng tốc độ tăng diễn ra còn rất chậm, quy mô số lượng không lớn. Điều đó cho thấy chiến lược nâng cao nguồn lực lao động xã hội tỉnh Thái Bình chịu ảnh hưởng lớn và có ý nghĩa kinh tế - xã hội đối với khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Điều này có liên quan đến quan điểm nhận thức trong việc hoạch định, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật cho người lao động ở tỉnh Thái Bình.
* Cơ cấu lao động theo phân ngành kinh tế chuyển dịch chậm, lao động làm việc trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn.
Theo số liệu thống kê của Cục thống kê tỉnh Thái Bình, lực lượng lao động trong các ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh như sau:
Bảng 2.5: Lao động đang làm việc phân theo nhóm ngành kinh tế.
Đơn vị tính : %
Năm
Ngành kinh tế
2001
2002
2003
2004
Lĩnh vực nông- lâm - ngư nghiệp
75,10
73,19
72,19
72,00
Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng
16,44
16,96
14,92
15,00
Lĩnh vực thương mại - dịch vụ
8,70
9,70
12,89
13,00
Nguồn: Cục thống kê Thái Bình 2004 [11, 26].
Qua số liệu ta thấy lao động làm việc trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động đang làm việc ở tỉnh Thái Bình. Tốc độ tăng và tỷ trọng lao động trong lĩnh vực này đang có xu hướng giảm nhưng chậm và không đáng kể (về tốc độ tăng, năm 2002 giảm so với năm 2001 gần 1,91%; năm 2003 giảm so với năm 2002 gần 1%; năm 2004 giảm so với năm 2003 gần 0,19%. Trong 4 năm từ năm 2000 đến 2004 tốc độ giảm 6,10%).
Đặc điểm lao động làm việc trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp là ruộng đất canh tác có hạn, lao động thủ công là chủ yếu, năng suất lao động thấp, sản xuất nông nghiệp lại mang tính thời vụ. Nhưng những năm gần đây và trong tương lai tỉnh đã tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tích cực áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất. Vì vậy, mười năm qua (1994 - 2004) sản xuất nông nghiệp của tỉnh phát triển khá toàn diện tổng giá trị sản xuất tăng bình quân 4,26%/năm cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; giá trị sản xuất ngành trồng trọt từ 84,6% giảm xuống còn 72,8% chăn nuôi tăng từ 12,8% lên 24% thuỷ sản từ 2,6% lên 6,4% [62, 24].
Sản xuất nông nghiệp của tỉnh đã chuyển dần sang sản xuất hàng hoá, hàng năm có từ 30 - 40 vạn tấn lương thực hàng hoá và một số sản phẩm khác. Năm 2004 giá trị xuất khẩu hàng hoá nông sản, thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Qua những kết quả của ngành nông nghiệp chứng minh rằng lực lượng lao động ở nông thôn đã có việc làm nhiều hơn. Do đó, “tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng dần từ 74,69% năm 2001 lên 76,27% năm 2002; 77,69% năm 2003 và 77,19% năm 2004 ” [48, 3].
Lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ lệ thấp 15%. Tỷ trọng trong tổng lao động làm việc trong lĩnh vực này tăng không đáng kể gần như ổn định. Nhận thức được vai trò của công nghiệp, những năm qua tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh phát triển công nghiệp. Vì vậy, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được hình thành như: khu công nghiệp Tiền Hải, Phúc Khánh, Diêm Điền - Thái Thuỵ, Nguyễn Đức Cảnh, Tiền Phong. Thực tế cho thấy, các khu công nghiệp này đã thu hút được hàng ngàn lao động. Bên cạnh đó, tỉnh cũng có những chủ trương, chính sách khôi phục ngành nghề truyền thống, du nhập và phát triển một số ngành nghề mới. Đến nay, toàn tỉnh có 152 làng nghề thu hút 154 ngàn lao động, chiếm 16,1% tổng số lao động trong toàn tỉnh.
Lao động làm việc trong lĩnh vực thương mại dịch vụ có tỷ trọng nhỏ bé, chiếm 13% tổng lực lượng lao động đang làm việc trên địa bàn tỉnh.Trong vòng 4 năm từ năm 2000 đến năm 2004 tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh vực này đã tăng lên đáng kể từ 7,2% năm 2000 tăng lên 13% năm 2004. Đây là một dấu hiệu đáng mừng. Trên thực tế những năm gần đây thương mại - dịch vụ đã có những bước phát triển. Về thương mại, tỉnh đã có mối quan hệ kinh tế xuất - nhập khẩu hàng hoá với 20 nước. Về dịch vụ, tỉnh đã mở rộng nhiều loại hình dịch vụ phát triển rộng khắp thành thị và nông thôn. Từ đây đã góp phần tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giảm dần tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lao động trong ngành thương mại - dịch vụ.
Qua phân tích cơ cấu lao động làm việc trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ - thương mại. Vấn đề đặt ra là cần phải bồi dưỡng nâng cao kiến thức khoa học - công nghệ mới cho lực lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Đồng thời phải chuẩn bị lực lượng lao động có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu lao động cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề truyền thống. Hơn nữa, phải chuẩn bị đào tạo, bồi dưỡng lao động, để mở rộng mạng lưới dịch vụ sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
2.2.2. Thực trạng nâng cao chất lượng nguồn lực lao động ở Thái Bình: ưu điểm và hạn chế
Chất lượng nguồn lực lao động thể hiện trạng thái nhất định của nguồn lực lao động với tư cách là một khách thể đặc biệt, là chủ thể của mọi hoạt động lao động và các quan hệ xã hội. Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động ở Thái Bình được thể hiện qua các yếu tố:
Một là thực trạng nâng cao thể lực của nguồn lực lao động Thái Bình
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu chúng tôi thấy chưa có một cuộc điều tra nào nghiên cứu mang tính toàn diện về thể lực và sự biến đổi trạng thái sức khoẻ của nguồn lực lao động Thái Bình. Cho nên chỉ có thể đánh giá thực trạng nâng cao thể lực của nguồn lực lao động Thái Bình thông qua việc phân tích một số mặt sau đây:
* Về độ tuổi: Thực tế cho thấy độ tuổi của con người phản ánh một cách tương đối khái quát tình trạng thể lực của bản thân con người. Sức khoẻ cơ bắp của con người thay đổi theo độ tuổi. Sự sung sức thường tập trung vào khoảng thời gian sau và trước độ tuổi lao động từ 3 - 5 năm.
- Theo số liệu thống kê của Sở lao động thương binh và xã hội Thái Bình (2004), cơ cấu độ tuổi của nguồn lực lao động Thái Bình được thể hiện như sau:
Bảng 2.7: Cơ cấu độ tuổi của nguồn lực lao động Thái Bình.
Nhóm tuổi
Số lượng (người)
Tỷ lệ %
15 - 24
318.585
29,95
25 - 34
269.649
21,12
35 - 44
267.391
20,94
45 - 54
158.911
12,44
55 - 59
49.438
3,87
³ 60
213.073
16,68
Tổng số
12.770.047
100,00
Nguồn: Điều tra dân số việc làm và nhà ở Thái Bình [1, 39].
Nghiên cứu cơ cấu độ tuổi của nguồn lực lao động tỉnh Thái Bình cho thấy:
Nhóm lao động sung sức ở độ tuổi 25 - 44 tuổi chiếm 22,06% trong tổng số lực lượng lao động. Đây là độ tuổi ổn định về tâm sinh lý, năng động và tích luỹ được kinh nghiệm trong nghề nghiệp.
Nhóm lao động 45 - 54 tuổi chiếm 16,28% lao động ở độ tuổi này có nhiều kinh nghiệm, bản lĩnh vững vàng, sâu sắc, chín chắn trong công việc, cuộc sống. Nhưng về trạng thái tâm sinh lý thì ở độ tuổi lao động này đã có sự thay đổi, đặc biệt là đối với lao động nữ.
Nhóm lao động 15 - 24 tuổi chiếm tỷ trọng cao 24,95% đây là độ tuổi đang phát triển về thể lực chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, công việc.Thậm chí còn thay đổi, ổn định chưa cao trong công việc, cuộc sống. Trong công việc nhóm lao động này đa số đang ở thời kỳ tập sự, thử việc.
Nhóm lao động 55 - 59 tuổi chiếm tỷ lệ thấp 3,87% sức khoẻ đã bắt đầu có sự giảm xuống, đặc biệt đối với số lao động làm việc trong điều kiện lao động thủ công nặng nhọc.
Nhóm lao động trên độ tuổi 60 lại chiếm tỷ lệ cao 16,68%, cao hơn nhóm lao động ở độ tuổi 45 - 54; 55 - 59 tuổi. Điều này cho thấy nhu cầu lao động của những người ở độ tuổi ngoài tuổi lao động còn rất cao.
Căn cứ vào bảng trên có thể chia nguồn lực lao động thành ba nhóm tuổi: nhóm lao động trẻ tuổi từ 15 – 34 ( chiếm 51,07% ), nhóm lao động tuổi trung niên từ 34 – 54 (chiếm 33,38% ), nhóm lao động cao tuổi từ 55 tuổi trở lên (chiếm 20,55% ).
Như vậy, nhóm lao động trẻ tuổi của nguồn lực lao động Thái Bình chiếm tỷ lệ cao nhất. Nguồn lực lao động Thái Bình thuộc nhóm lao động trẻ. Đây là tiềm năng và thế mạnh của tỉnh có thể khai thác để thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế. Đồng thời tỉnh cũng phải có những chủ trương, chính sách phù hợp để khai thác thế mạnh này.
* Về mức sống: Những năm gần đây đời s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20222.doc