Chất lượng của một sản phẩm được đánh giá qua một hệthống chỉtiêu chất
lượng. Hệthống đó được doanh nghiệp xây dựng theo tiêu chuẩn đặt ra của từng
ngành và được trung tâm đo lường sản phẩm Nhà nước phê duyệt và cho phép sản
xuất. Để đánh giá chất lượng sản phẩm có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không
người ta phải dựa vào hệthống chỉtiêu chất lượng sản phẩm đã đăng ký đó.
Đối với bánh kẹo là hàng thực phẩm tiêu dùng ngay nên đánh giá chất lượng
phải dựa trên các chỉtiêu lý, hoá, chỉtiêu vi sinh. Ngoài ra còn dựa vào chỉtiêu
cảm quan để đánh giá. Nếu tất cảcác chỉtiêu đó đều đạt yêu cầu thì bánh kẹo mới
được coi là đạt yêu cầu chất lượng.
Công ty Cổphần Tràng An dựa trên tình hình nghiên cứu thịtrường, nghiên
cứu sởthích của người tiêu dùng đồng thời dựa vào tình hình sản xuất kinh doanh
của Công ty, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, trình độcông nhân và đặc biệt dựa
vào chỉtiêu chất lượng Nhà nước đểxây dựng hệthống chỉtiêu chất lượng cho
Công ty mình. Chỉtiêu chung cho các loại bánh, kẹo (Bảng 8, 9 trang bên).
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2947 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty cổ phần Tràng An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nguồn vốn còn hạn hẹp nên
việc đầu tư vào máy móc thiết bị của Công ty chưa được đồng bộ. Công ty vẫn còn
sử dụng một số máy móc đã cũ kỹ, lạc hậu như:
- Máy trộn nguyên liệu máy quật kẹo, máy cán của Trung Quốc được nhập
vào từ năm 1960.
- Nồi sấy WKA4, nồi hoà đường CK22, máy tạo tinh… của Ba Lan từ những
năm 1966, 1977, 1978…
Và một số máy móc khác được nhập của Đức, Hà Lan cũng rất lạc hậu.
Đây có thể nói là một khó khăn lớn cho quá trình nâng cao chất lượng sản
phẩm của công. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần tập trung vay vốn từ nhiều
nguồn để mua sắm, trang bị lại dây chuyền sản xuất, đó là vấn đề mang tính chiến
lược của Công ty.
Một vấn đề nữa công ty phải quan tâm là hiệu suất sử dụng máy móc, thiết
bị của công ty chưa cao, thời gian ngừng máy còn nhiều. Điều này dẫn đến giá trị
khấu hao phân bổ của công ty còn cao, làm đội giá thành lên. Đây là tình trạng
chung của các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo nói chung, của Công ty bánh kẹo
Tràng An nói riêng. Trong thời gian tới, Công ty phải chú ý bảo đảm khai thác tốt
nhất công suất máy móc thiết bị, giảm chi phí, hạn giá thành sản phẩm hơn nữa
nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
7. Quá trình sản xuất Kẹo hương cốm truyền thống:
7.1/ Sơ đồ quá trình sản xuất :
Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ sản xuất kẹo hương cốm.
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
15
Sơ đồ 3: Quy trình công nghệ SX bánh quế trên dây chuyền Indonesia.
7.2/ Mô tả quá trình:
- Cốm tươi: Cốm đã được bào chế thu mua trước khi đưa vào sử dụng đều được
kiểm tra theo các tiêu chuẩn kỹ thuật cơ sở.
- Cho cốm, đường, các sản phẩm khác vào máy nhào trộn và cô quấy. Sau đó thu
được sản phẩm thạch nha đã qua chế biến sau đó để nguội cho vào máy cắt thành
từng viên. Tiến hành cuộn kẹo, đóng túi.
Qua sơ đồ ta thấy quy trình sản xuất mỗi mặt hàng là khác nhau nhưng luôn
theo một trình tự nhất định. Để dây chuyền sản xuất thực hiện liên tục, có hiệu quả,
ở mỗi công đoạn đều được bố trí số lượng công nhân hợp lý, thực hiện đúng nhiệm
vụ được giao rõ ràng. Sau mỗi ca làm việc, công nhân công nghệ, công nhân phụ
trợ đều phải kiểm tra lại quá trình hoạt động của máy móc thiết bị và vệ sinh công
nghiệp trong phạm vi đảm nhiệm. Vì vậy, những yêu cầu đặt ra đối với công nhân
rất khắt khe, không những đảm nhiệm công việc được giao mà còn có khả năng
Xay đường, đỗ xanh,
thắng dịch Caramen
Cân, sản
xuất dịch vỏ
Nhân kem chuyển đến
lò nướng, bơm nhân
Cân kiểm tra sản
phẩm bánh trần
Đóng gói
bánh quế
Đóng
hộp
Vào
thùng
Thành
phẩm
Sơ chế
phụ liệu
Hoà trộn
đường
Cô, khuâý
trộn
Làm
nguội
Cuộn
kẹo
Thành
phẩm
Vào
thùng
Đóng
túi
Vận
chuyển
Định hình
và gói
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
16
tính toán, phát hiện và xử lý kịp thời những trục trặc của máy móc thiết bị. Có như
vậy thì sự kết hợp giữa con người và máy móc mới đem lại hiệu quả cao trong quá
trình tạo ra sản phẩm.
II. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNG GIÁ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TẠI
CÔNG TY.
Chất lượng của một sản phẩm được đánh giá qua một hệ thống chỉ tiêu chất
lượng. Hệ thống đó được doanh nghiệp xây dựng theo tiêu chuẩn đặt ra của từng
ngành và được trung tâm đo lường sản phẩm Nhà nước phê duyệt và cho phép sản
xuất. Để đánh giá chất lượng sản phẩm có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không
người ta phải dựa vào hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm đã đăng ký đó.
Đối với bánh kẹo là hàng thực phẩm tiêu dùng ngay nên đánh giá chất lượng
phải dựa trên các chỉ tiêu lý, hoá, chỉ tiêu vi sinh. Ngoài ra còn dựa vào chỉ tiêu
cảm quan để đánh giá. Nếu tất cả các chỉ tiêu đó đều đạt yêu cầu thì bánh kẹo mới
được coi là đạt yêu cầu chất lượng.
Công ty Cổ phần Tràng An dựa trên tình hình nghiên cứu thị trường, nghiên
cứu sở thích của người tiêu dùng đồng thời dựa vào tình hình sản xuất kinh doanh
của Công ty, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, trình độ công nhân và đặc biệt dựa
vào chỉ tiêu chất lượng Nhà nước để xây dựng hệ thống chỉ tiêu chất lượng cho
Công ty mình. Chỉ tiêu chung cho các loại bánh, kẹo (Bảng 8, 9 trang bên).
Ngoài ra để đánh giá phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ
phận Công ty còn đưa ra cá chỉ tiêu so sánh chủ yếu sau:
- Tỷ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất.
Tỷ lệ sai hỏng Số lượng sản phẩm sai hỏng
(theo hiện vật) = x 100
Tổng số sản phẩm sản xuất
Tỷ lệ sai hỏng Chi phí sản xuất sản phẩm hỏng
(theo giá trị) = x 100
Tổng giá thành công xưởng của SPSX
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
17
Trong quản lý chất lượng sản phẩm, còn dùng chỉ tiêu:
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
18
Tỷ lệ đạt chất Số sản phẩm đạt chất lượng
lượng =
Tổng số sản phẩm
Nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn tới tăng lợi nhuận (Sơ đồ biểu diễn chất
lượng làm tăng lợi nhuận –Trang bên)
III. TÌNH HÌNH CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TẠI
CÔNG TY.
* Tổ chức quản lý chất lượng sản phẩm.
1. Phân công chức danh và nhiệm vụ:
Để đạt được chất lượng sản phẩm cao và quản lý chất lượng một cách toàn
diện thì vấn đề chất lượng phải được cán bộ công nhân viên của Công ty hiểu một
cách rõ ràng, ý thức trách nhiệm về chất lượng phải được mọi người thấm nhuần.
Vì vậy trách nhiệm phải được xác định rõ ràng cho từng phòng ban cá nhân như:
giám đốc, các phòng ban chức năng, nhiệm vụ của tổ trưởng sản xuất, công nhân,
hay của từng đại lý như sau:
- Giám đốc Công ty: Có trách nhiệm xác định thị trường của Công ty sẽ tham
gia và loại sản phẩm mà Công ty cần tham gia thị trường thông qua việc xác định
mục tiêu kinh doanh và chiến lược phát triển. Giám đốc là người quyết định cuối
cùng về mức chất lượng cần đạt trong thiết kế sản phẩm và mức độ cam kết về
quản lý chất lượng cần thiết để đạt được chất lượng đó. Sau đó lãnh đạo các bộ
phận chức năng trong toàn Công ty cùng nhau cam kết thực hiện quản lý chất
lượng.
- Các phòng ban chức năng: Có nhiệm vụ thực hiện các kế hoạch do giám đốc
đặt ra. Cán bộ quản lý ở cấp này cần tập trung vào việc thiết kế và kiểm tra quá
trình sản xuất sao cho phù hợp với các đặc tính kỹ thuật của việc thiết kế. Như vậy
các phòng ban chức năng có trách nhiệm thiết kế và thực hiện hiệu quả chương
trình quản lý chất lượng, nhằm đáp ứng các đặc tính sử dụng của sản phẩm.
- Nhiệm vụ của tổ trưởng sản xuất: Điều khiển và kiểm tra các công nhân
trong quá trình sản xuất. Tổ trưởng sản xuất cũng là người có trách nhiệm nhận
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
19
dạng và tìm giải pháp cho vấn đề chất lượng, phối hợp các phòng ban khác để sửa
chữa và cải tiến quá trình sản xuất.
- Công nhân: Có vai trò trực tiếp trong việc tham gia thực hiện chất lượng sản
phẩm. Công ty nên tạo điều kiện cho công nhân phát huy ý thức tự giác, tránh tình
trạng căng thẳng về trách nhiệm, vì tiền lương của mình mà cứ phải cố gắng hoàn
thiện tốt công việc và kết quả có thể dẫn đến tình trạng buông xuôi, chán nản mà
ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
- Trách nhiệm của đại lý: Có nhiều trường hợp khách hàng khiếu nại về sự
xuống cấp của chất lượng sản phẩm mà nguyên nhân là do các đại lý, người bán
buôn không có chế độ bảo quản theo yêu cầu khi mua bánh kẹo của Công ty để
bán buôn và bán lẻ. Vì vậy, Công ty cần có biện pháp bảo quản đối với sản phẩm
của mình khi giao cho khách hàng là đại lý, cửa hàng… để đảm bảo chất lượng.
Khi ký kết hợp đồng mua bán Công ty cần bổ sung các điều khoản về trách nhiệm
đối với khiếu nại của khách hàng về chất lượng sản phẩm do các đơn vị đó bán ra.
2. Chính sách về chất lượng của Công ty:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ Công ty nào cũng đều có những
ý đồ, xu hướng theo nguyên tắc nào đó để tiến hành công việc của mình. Ý đồ và
định hướng chung về chất lượng của một số tổ chức do lãnh đạo cao nhất đề ra
chính là chính sách chất lượng. Có được chính sách chất lượng đúng đắn, lãnh đạo
Công ty có thể xây dựng được chính sách chất lượng thích hợp, thực hiện các
phương pháp quản lý tiên tiến, nhất quán trong Công ty, tạo lập phong trào quần
chúng làm chất lượng, sáng tạo tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm của mình. Nên nội dung chính sách chất lượng của Công ty
đã được đề ra như sau:
Mục tiêu chính sách:
+ Chính sách mô tả thực trạng của công ty về công nghệ, nhân lực, vốn,
nguyên liệu, thực trạng chất lượng sản phẩm của Công ty. Từ đó phân tích, đánh
giá và đưa ra chỉ tiêu phấn đấu 100% sản phẩm đạt tiêu chuẩn.
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
20
+ Chính sách chất lượng dự đoán tình hình thị trường và tính cấp bách của
công tác chất lượng đối với sự sống còn của Công ty.
+ Đảm bảo chất lượng là nhiệm vụ của từng cá nhân đơn vị, phòng ban.
Nội dung của chính sách chất lượng mà Công ty có thể áp dụng:
+ Công ty cam kết thi hành một chính sách chất lượng đảm bảo cho sản xuất
của mình luôn đáp ứng được với nhu cầu của khách hàng.
+ Công ty có ý định sẽ trở thành người dẫn đầu về chất lượng sản phẩm trên
thị trường trong nước và tiếp tục duy trì nó.
+ Công ty tán thành quan điểm hợp tác với khách hàng và bên cung ứng để
thực hiện chính sách đó và không ngừng phấn đấu để cải tiến chất lượng.
+ Toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty có sự cam kết tích cực về mặt
chất lượng đặc biệt là sự cam kết của ban lãnh đạo cao nhất, có sự đáp ứng nhanh
chóng và hiệu quả để đạt được những tiêu chuẩn công tác mà Công ty mong chờ ở họ.
3. Các bước tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng sản phẩm của Công ty:
Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố giúp các doanh nghiệp đứng
vững trong cạnh tranh. Nhận thức được tầm quan trọng của chiến lược sản phẩm
Công ty luôn đề cao công tác quản lý chiến lược sản phẩm trong mọi hoạt động
của mình.
Để đảm bảo chất lượng Công ty đã tổ chức một mạng lưới kiểm tra thống
nhất từ Công ty cho đến xí nghiệp cơ sở theo chế độ 5 kiểm tra:
- Cá nhân tự kiểm tra
- Tổ sản xuất tự kiểm tra
- Ca sản xuất tự kiểm tra
- Phân xưởng tự kiểm tra
- Công ty kiểm tra và cho xuất xưởng.
Nguyên tắc kiểm tra của Công ty được thực hiện dựa trên việc lấy xác suất
các mẫu trên dây chuyền của từng lô sản phẩm hay nguyên liệu trước khi mua về
hoặc chuẩn bị nhập kho. Tuỳ thuộc vào độ lớn của từng lô sản phẩm hay khối
lượng nguyên vật liệu để lấy mẫu. Sau đó các mẫu này được chuyển đến phòng
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
21
kiểm tra chất lượng để phân tích đánh giá. Cán bộ kiểm tra chất lượng ghi rõ ngày
sản xuất, ngày nhập, ca sản xuất trên mỗi mẫu để tiện theo dõi, đối chiếu và quy
trách nhiệm cho bộ phận thực hiện.
Kiểm tra chất lượng sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, nhất
là sản phẩm thực phẩm của Công ty. Nếu chỉ phát hiện ra sản phẩm cuối cùng bị
hỏng thì thiệt hại rất lớn. Vì vậy Công ty đã xây dựng kế hoạch theo dõi, kiểm tra
ngay từ khâu đầu tiên của quá trình sản xuất, theo dõi từng công đoạn của quá trình
sản xuất. Vì vậy, quá trình kiểm tra được thực hiện qua các khâu:
3.1. Kiểm tra chất lượng trong khâu thiết kế sản phẩm
Khâu thiết kế sản phẩm được điều hành theo các bước:
- Công ty có đội ngũ nhân viên làm công tác thị trường rất năng động, được
đào tạo bài bản, yêu nghề: Nhóm nhân viên này có trách nhiệm thu thập thông tin
trên thị trường nhằm nắm bắt điểm mạnh, điểm yếu của Công ty và đối thủ cạnh
tranh đồng thời nghiên cứu thị hiếu, đặc điểm tiêu dùng của khách hàng.
- Nghiên cứu thiết kế sản phẩm: Chế thử từ quy mô nhỏ đến quy mô trung
bình sau đó đến sản xuất ở quy mô lớn. Chế thử bằng nhiều phương pháp dựa trên
các tiêu chuẩn mà Công ty đã áp dụng.
3.2. Kiểm tra chất lượng trong khâu cung ứng
Những thông tin về số lượng và chủng loại nguyên vật liệu sẽ được cung cấp
cho phòng kinh doanh. Phòng kinh doanh có trách nhiệm tìm đối tác, thoả thuận và
ký hợp đồng mua nguyên liệu theo đúng thành phần số lượng và chỉ tiêu chất
lượng.
Bộ phận kiểm tra chất lượng có trách nhiệm ghi sõ ngày sản xuất, ngày nhập
ca sản xuất trên mỗi mẫu để tiện theo dõi, đối chiếu và quy trách nhiệm cho bộ
phận thực hiện, kiểm tra khâu cung ứng.
Để đảm bảo cho nhập hàng đúng yêu cầu chất lượng, bộ phận kiểm tra chất
lượng sản phẩm và bộ phận nghiên cứu sản phẩm đều kiểm tra qua bước phân tích
nguyên liệu và nấu thử sản phẩm trước khi nhập lô hàng. Công ty có biện pháp kết
hợp với nhà cung ứng như sau:
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
22
- Công ty yêu cầu bên cung ứng gửi mẫu giới thiệu sản phẩm và các thông tin
về đặc tính sản phẩm kèm theo.
- Bộ phận thí nghiệm thử mẫu trên sản phẩm của bánh kẹo.
- Bộ phận kiểm tra chất lượng nhận xét, đánh giá.
- Nếu NVL đạt yêu cầu cả hai về chỉ tiêu lý hoá và sản phẩm nấu thử, bộ phận
kiểm tra sẽ chuyển yêu cầu sang bộ phận kinh doanh.
- Phòng kinh doanh xem xét giá cả, các phương thức mua nhập và lựa chọn
nhà cung cấp.
Trong quá trình giao hàng bên cung ứng không giao đúng với chất lượng
nguyên vật liệu đã gửi mẫu, cán bộ kiểm tra chất lượng có quyền không cho phép
nhập kho lô hàng đó. Trong quá tình bảo quản lưu kho nguyên vật liệu cũng
thường xuyên được kiểm tra để tránh có sự xuống cấp về chất lượng, đồng thời
kiểm tra kho từng, thùng chứa… để đảm bảo chất lượng trước khi đưa vào sản
xuất.
3.3. Kiểm tra chất lượng khâu sản xuất
Để có được sản phẩm chất lượng cao, đòi hỏi người trực tiếp kiểm tra, nhân
viên kỹ thuật phải có kinh nghiệm vững chắc, thực hiện kiểm tra đúng yêu cầu,
đúng công thức.
Bộ phận kiểm tra chất lượng cử nhân viên xuống các phân xưởng sản xuất và
cùng cán bộ kỹ thuật theo dõi và kiểm tra chất lượng ở các công đoạn quá trình sản
xuất, phát hiện những trục trặc kỹ thuật nhằm hạn chế phế phẩm ở mức tối đa.
Mục tiêu của khâu kiểm tra trong sản xuất là: Phát hiện sớm ngăn ngừa những
sai sót và kịp thời xử lý ngay trên dây chuyền, sản phẩm sản xuất ra phải được tiến
hành nhập kho, dán mác đảm bảo đúng quy định.
3.4. Kiểm tra chất lượng sản phẩm
Nhận viên kiểm tra chất lượng lấy mẫu xác suất từng loại bánh kẹo theo ca
của từng ngày sản xuất để theo dõi chất lượng sản phẩm của Công ty. Các mẫu này
được kiểm tra theo các chỉ tiêu cảm quan, lý, hoá và vệ sinh thực phẩm. Các
chuyên gia đánh giá cảm quan dựa trên chỉ tiêu (kẹp có vuông không, bánh có rõ
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
23
hình không, trọng lượng viên kẹo, bánh có đúng không? trạng thái, mùi vị, màu
sắc…). Sau đó cho điểm và ghi vào sổ để theo dõi. Sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất
lượng và người thực hiện sản phẩm đó sẽ được thưởng hay ngược lại. Sau đó các
mẫu sẽ được phân tích theo các chỉ tiêu lý hoá, vệ sinh thực phẩm như quy định
trong tiêu chuẩn.
Sản phẩm sản xuất xong đủ tiêu chuẩn sẽ được bảo quản trong các thùng
cacton. Trước khi xuất xưởng, sản phẩm được kiểm tra lần nữa để đảm bảo sản
phẩm đến tay người tiêu dùng có chất lượng.
3.5. Kiểm tra chất lượng trong khâu bảo quản
Mặc dù trong những năm gần đây số lượng bánh kẹo tồn đọng ít, nhưng do
tính chất thời vụ nên khoảng thời gian trước tết nguyên đán, tết trung thu…cần có
nhiều bánh kẹo tiêu thụ phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Công ty phải
tập trung sản xuất nên khâu bảo quản, quản lý sản phẩm không kém phần quan
trọng. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu nhà kho thông thoáng, cách xa mặt đất, xa
tường thì công tác quản lý sản phẩm cần tìm biện pháp sắp xếp hợp lý, các hộp
bánh kẹo được xếp thành hàng nối không chồng chất lên nhau quá nhiều để đảm
bảo bánh kẹo không dập nát.
Để đảm bảo khâu này bộ phận kiểm tra chất lượng có nhiệm vụ:
- Thường xuyên xuống các kho chứa thành phẩm để kiểm tra độ thông
thoáng, cách sắp xếp thành phẩm trong kho đã đúng yêu cầu kỹ thuật hay chưa.
- Kịp thời xử lý ngay những vấn đề vi phạm kỹ thuật trong khâu bảo quản
nguyên liệu và thành phẩm.
Như vậy, với mục tiêu đảm bảo đúng tiêu chuẩu chất lượng đề ra trong đó bao
gồm:
- Đảm bảo sản phẩm đạt đầy đủ các tiêu chuẩn chất lượng như đã xây dựng và
đăng ký với tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (chỉ tiêu lý hoá và cảm quan).
- Đảm bảo sản phẩm đạt an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Sản phẩm được bao gói trong các bao bì thực phẩm, đảm bảo đẹp, bền, tiện
lợi và hấp dẫn người tiêu dùng.
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
24
- Sản phẩm đạt về thời gian bảo quản, bảo hành, theo quy định của từng loại
sản phẩm đăng ký.
IV. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY.
1. Những thành tựu đạt được:
Trong những năm qua nhờ có sự nỗ lực của ban lãnh đạo và các phòng ban xí
nghiệp đặc biệt là đội ngũ quản lý chất lượng của Công ty Cổ phần Tràng An, mặc
dù còn gặp nhiều khó khăn, những sản phẩm của Công ty được đánh giá là có chất
lượng cao thể hiện ở các cuộc bình chọn hàng Việt Nam chất lượng cao (giải hỗ
trợ được tổ chức hàng năm).
- Về chất lượng sản phẩm: Do có hệ thống kiểm tra chặt chẽ đầu vào và đầu
ra của các quá trình sản xuất, đã hạn chế nhiều những trục trặc từ nguyên vật liệu,
do quá trình sản xuất, giảm tỷ lệ sản phẩm sai hỏng, đồng thời có tác dụng lớn
trong việc đảm bảo sản phẩm đến tay người tiêu dùng có chất lượng cao, biểu hiện:
+ Các chỉ tiêu lý hoá và vệ sinh của sản phẩm bánh kẹo: nói chung đều đạt
các tiêu chuẩn đã đăng ký.
+ Giá trị dinh dưỡng: sản phẩm có độ dinh dưỡng cao, tiêu hoá tốt, đủ chất
đạm, không chứa độc tố ảnh hưởng đến đường tiêu hoá và sức khoẻ người tiêu
dùng.
- Sản phẩm của Công ty tương đối đa dạng về chủng loại, phong phú về mẫu
mã, bao bì… với trên 60 loại khác nhau, đáp ứng được nhu cầu khác nhau của thị
trường. Hơn nữa giá bán của sản phẩm nhìn chung thấp, phù hợp với khả năng
thanh toán của đại bộ phận thị trường.
- Trong công tác quản lý kiểm tra chất lượng sản phẩm: Việc kiểm tra chất
lượng trong Công ty từ lâu đã thành nề nếp, việc kiểm tra chất lượng sản phẩm
được thực hiện ở từng khâu trong quá trình sản xuất. Đây là một thuận lợi lớn
trong công tác bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty.
- Với Công ty, bảo đảm và nâng cao chất lượng không nằm ngoài mục đích
tiêu thụ tốt sản phẩm, làm tăng lợi nhuận, bảo đảm công ăn việc làm cho cán bộ
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
25
công nhân viên của Công ty. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty không
ngừng được nâng cao trên cơ sở thường xuyên quán triệt tư tưởng: không chạy
theo lợi nhuận trước mắt mà phải bằng mọi biện pháp thích hợp đảm bảo và nâng
cao chất lượng sản phẩm cũng như hiệu suất công tác.
2. Những hạn chế, tồn tại:
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác quản lý chất lượng, Công
ty còn gặp nhiều khó khăn. Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít tới chất
lượng hoạt động của Công ty nói riêng và sự phát triển Công ty nói chung.
Thứ nhất: cũng như nhiều doanh nghiệp khác hiện nay, Công ty Cổ phần
Tràng An vẫn thực hiện phương pháp quản lý cũ, đó là quản lý sản xuất. Công ty
đã đồng nhất quản lý chất lượng với kiểm tra chất lượng sản phẩm. Việc nhấn
mạnh kiểm tra chất lượng sản phẩm chỉ có ý nghĩa trong việc khắc phục chứ chưa
đảm bảo cho việc phòng ngừa những sai hỏng. Từ thực tế của Công ty cho thấy,
quản lý chất lượng đầu vào mới đơn thuần là kiểm tra nguyên vật liệu, trong đó
đầu vào bao gồm những yếu tố cũng quan trọng không kém như lao động, vốn,
công nghệ, thiết bị mặc dù cũng được quản lý nhưng chưa được coi là công việc
quản lý chất lượng. Sản phẩm kém chất lượng tuy chưa đến tay người tiêu dùng
nhưng hiệu quả sản xuất không cao, các loại bánh, kẹo hỏng lại mất thời gian công
sức nấu lại, quật lại… hoặc bỏ đi nếu cháy gây lãng phí cho việc khắc phục
những hư hỏng.
Thứ hai: Công tác quản lý chất lượng của Công ty Cổ phần Tràng An chỉ có
trách nhiệm của bộ phận kiểm tra chất lượng. Tổng số cán bộ công nhân viên bộ
phận kiểm tra chất lượng của Công ty chỉ có 7 người, phải gánh vác công việc
quản lý chất lượng của Công ty thì vất vả và không quán xuyến được hết. Cũng
chính vì lý do đó mà họ chỉ tập trung vào mỗi công việc kiểm tra. Việc tập trung
quản lý chất lượng vào bộ phận kiểm tra chất lượng vô hình chung đã cô lập bộ
phận này với các phân xưởng sản xuất. Cho nên công nhân chỉ thực hiện những
thao tác đã quy định, trong khi công nhân chính là người chủ của quá trình, quyết
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
26
định trực tiếp đến chất lượng của quá trình thì lại hiểu chất lượng một cách chung
chung rằng chất lượng là quan trọng. Còn để đạt đến chất lượng thì phải làm gì lại
do bộ phận khác quy định. Chính vì vậy ta có thể nói rằng công tác quản lý chất
lượng của Công ty vẫn mang tính cục bộ, chưa thu hút được toàn bộ các thành viên
tham gia để công tác đạt hiệu quả cao hơn.
Thứ ba: để kích thích tinh thần làm việc của công nhân, Công ty còn áp dụng
thưởng phạt thông qua việc chấm điểm chất lượng về các chỉ tiêu lý hoá, cảm
quan. Tuy nhiên việc đánh giá chấm điểm này là hoàn toàn do phòng quản lý chất
lượng. Đến cuối tháng thông qua thưởng phạt, công nhân mới biết chất lượng sản
phẩm của mình làm có đạt hay không. Như vậy không có sự phản hồi liên tục giữa
phòng quản lý xhất lượng và công nhân. Điều này không những không có tác dụng
cải tiến chất lượng mà còn gây bất bình cho người lao động do không được phản
ánh lại những sai sót của mình mà bị phạt.
Thứ tư: Bên cạnh đó, nhiệm vụ của các phòng ban còn rời rạc, chưa gắn kết
chặt chẽ trong công tác quản trị chất lượng mà cũng chưa coi quản trị chất lượng là
nhiệm vụ chung, thể hiện cách nhìn cục bộ về quản lý chất lượng. Thực ra mọi
hoạt động quản lý như quản lý nhân lực (phòng lao động tiền lương), quản lý tài
chính (phòng kế toán)… đều có chức năng quản lý chất lượng đầu vào cụ thể đó là
lao động và vốn… Chúng là một phần của công tác quản lý chất lượng, nhưng
Công ty lại chia chúng thành công việc của các phòng ban khác nhau. Điều đó
chứng tỏ Công ty chưa coi nhiệm vụ quản lý chất lượng cũng như thực hiện chất
lượng là công việc chung của mọi người, mọi phòng ban trong Công ty. Cũng
chính vì không liên kết trong quản lý chất lượng giữa các phòng ban, bộ phận,
Công ty đã vô tình cô lập ngay cả bộ phận quản lý chất lượng với các phân xưởng
sản xuất. Tuy chưa có hiện tượng nào công nhân chống lại sự kiểm tra của phòng
Quản lý chất lượng nhưng tâm lý chung họ không thích và sợ bị vạch lỗi. Vì vậy,
họ không có tinh thần hợp tác.
3. Nguyên nhân của những tồn tại trên:
Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Kế hoạch Nghiệp vụ Kinh doanh
Nguyễn Xuân Hưng
27
Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến những điều bất cập trong công tác quản lý
chất lượng của Công ty Cổ phần Tràng An là sự nhận thức chưa đúng về chất
lượng. Có thể nói đây là nguyên nhân dẫn đến những tồn tại kể trên.
Công ty mới đề cập đến chất lượng một cách đơn thuần là chất lượng của các
sản phẩm vật chất cụ thể như nguyên vật liệu hay sản phẩm bánh kẹo của Công ty.
Khách hàng chỉ là người tiêu dùng sản phẩm của mình mà chưa nhận thức được
rằng khái niệm khách hàng còn rộng hơn thì rất nhiều, bao gồm cả khách hàng bên
trong và khách hàng bên ngoài….khách hàng bên ngoài cũng không chỉ bao gồm
những người tiêu dùng mà còn là những đại lý, những người bán buôn, bán lẻ.
Chính điều đó lý giải vì sao công tác quản lý chất lượng của Công ty chỉ là kiểm
tra chất lượng nguyên liệu vào thành phẩm trong đó. Trong khi kiểm tra chỉ là một
phần của công tác quản lý chất lượng theo các cách tiếp cận mới hiện nay. Vì vậy
việc kiểm tra, thanh tra chất lượng chỉ tập trung vào bộ phận kiểm tra chất lượng
gồm 7 người. Công ty bảo đảm việc cải tiến chất lượng bằng cách kiểm tra thật
chặt chẽ. Nhưng việc kiểm tra này chỉ hạn chế được sản phẩm không đạt tiêu
chuẩn đến tay người tiêu dùng chứ không có tác dụng phòng ngừa sai hỏng.
Thị trường Việt Nam cũng bị chiếm một
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tốt nghiệp Chất lượng sản phẩm công ty cổ phần Tràng An.pdf