Mục lục 3
MỞ ĐẦU 8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI,
CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI 14
1. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội 14
1.1. Khái niệm giám sát 14
1.2. Khái niệm quyền giám sát tối cao của Quốc hội 16
1.3. Phân biệt hoạt động giám sát, kiểm tra, kiểm sát, thanh tra 23
2. Quyền giám sát của các cơ quan của Quốc hội 27
3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội 32
4. Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát 34
* Kết luận Chương 1 35
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI, CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI HIỆN NAY
38
1. Quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội 38
1.1. Sự kế thừa và phát triển các quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội qua các bản Hiến pháp của Việt Nam 38
1.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội 41
1.3. Quyền giám sát của các cơ quan của Quốc hội 42
2. Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, quyền giám sát của các cơ quan của Quốc hội 44
2.1. Xét báo cáo của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, VKSNDTC, các bộ, cơ quan ngang bộ hoặc các cơ quan, tổ chức hữu quan, thành lập Uỷ ban lâm thời của Quốc hội để điều tra về một vấn đề nhất định 45
2.2. Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật 46
2.3. Giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở cơ sở, địa phương của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Uỷ ban lâm thời của Quốc hội 47
2.4. Chất vấn của ĐBQH 48
2.5. Giám sát thông qua việc xét đơn thư khiếu nại, kiến nghị của nhân dân, qua các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng 49
3. Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội hiện nay 49
3.1. Hoạt động giám sát của Quốc hội 49
3.2. Hoạt động giám sát của UBTVQH 70
3.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội 78
4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 84
4.1. Về nguyên nhân khách quan 84
4.2. Nguyên nhân chủ quan 84
* Kết luận Chương 2 87
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI 90
1. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội 90
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội 90
1.2. Phương hướng nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội 92
2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội 94
2.1. Đối với hoạt động giám sát của Quốc hội 95
2.2. Đối với hoạt động giám sát của UBTVQH 105
2.3. Đối với hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 108
2.4. Bảo đảm các điều kiện để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội 110
2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội 112
* Kết luận Chương 3 114
KẾT LUẬN 116
Danh mục tài liệu tham khảo 119
122 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3529 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan của quốc hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và mới tập trung vào tiến độ ban hành, số lượng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết mà chưa đi sâu vào nội dung cụ thể của từng văn bản.
- Kể từ khi chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân các cấp được bãi bỏ, hoạt động giám sát thường xuyên đối với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được trao cho Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Thực tiễn đã chứng minh Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội không đủ lực để thực hiện việc giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật do tất cả các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Điều kiện về tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ (về nghiệp vụ kiểm tra, giám sát văn bản), cơ chế phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước chưa cho phép Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có thể giám sát việc ban hành cả hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành hàng năm là quá lớn.
Chính vì vậy, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chậm trễ so với yêu cầu đề ra; các văn bản dưới luật khi hướng dẫn thi hành đã quy định không phù hợp với nội dung văn bản gốc; một số văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có những quy định vi phạm quyền công dân... là những hiện tượng đã và đang xảy ra nhưng chưa được các cơ quan của Quốc hội kịp thời phát hiện, kiến nghị xử lý.
3.1.3. Việc thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội
Theo quy định tại Điều 98 Hiến pháp năm 1992, Điều 49 Luật tổ chức Quốc hội, khoản 4 Điều 7 và Điều 40 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội thì những người phải trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội bao gồm: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC.
Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn có những chuyển biến đáng kể, thu hút sự quan tâm theo dõi của đông đảo cử tri và nhân dân cả nước. Để tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của mình, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm bảo đảm cho ĐBQH thực hiện có hiệu quả hơn quyền chất vấn, tạo cơ sở pháp lý cho việc đề cao trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Bên cạnh đó, cơ cấu ĐBQH các khóa gần đây đã được đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng và tăng cường số lượng ĐBQH hoạt động chuyên trách. Một việc đổi mới nữa trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đó là tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa IX, UBTVQH đã cho phát thanh, truyền hình trực tiếp các phiên họp toàn thể của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn. Chính từ điều này đã tạo tiền đề cho sự thay đổi về diện mạo trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn thời gian sau này.
Để đảm bảo cho hoạt động giám sát tối cao, trực tiếp của Quốc hội có hiệu lực, hiệu quả thì quy trình chất vấn, trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội ngày càng có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng. Vai trò, ý nghĩa đó được thể hiện ở những điểm sau:
- Tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn được tiến hành theo một trình tự thống nhất, với những trình tự, thủ tục cụ thể. Tránh sự tùy tiện trong việc sử dụng nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tham gia và hình thức giám sát tối cao, trực tiếp của Quốc hội. Đặc biệt kể từ khi các phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn được phát thanh, truyền hình trực tiếp thì hoạt động này cũng được diễn ra công khai, trước sự chứng kiến của cử tri và nhân dân cả nước. Điều đó đòi hỏi động chất vấn, trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội phải được tuân thủ chặt chẽ bởi các khâu, các bước theo một quy trình nhất định, do chính Quốc hội đặt ra.
- Phản ánh tính nền nếp, kỷ cương, kỷ luật trong sinh hoạt của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Với việc quy định cụ thể trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, nội quy kỳ họp Quốc hội, các chủ thể tham gia hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn có những quyền hạn, nghĩa vụ tương xứng với địa vị pháp lý của mình.
- Tạo tiền đề cho việc xác định trách nhiệm cá nhân của người đúng đầu các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội; là sự khởi đầu, tiếp nối nay sự kết thúc một nội dung thuộc phạm vi hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Tùy vào tính chất, mức độ của vấn đề đang được chất vấn mà Quốc hội có thể quyết định tiếp tục làm rõ tại phiên họp của UBTVQH hoặc quyết định giao cho một cơ quan của Quốc hội giám sát hoặc kết thúc việc trả lời chất vấn bằng một Nghị quyết xác định trách nhiệm của người trả lời chất vấn.
- Tác động và phản ánh kỹ năng đối thoại, tranh luận giữa các chủ thể tham gia hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại diễn đàn Quốc hội hoặc tại phiên họp của UBTVQH. Chính các quy định về quy trình chất vấn và trả lời chất vấn sẽ tạo tiền đề cho các bên nâng cao kỹ năng đối thoại, tranh luận để cùng giải quyết những vấn đề mà Quốc hội và nhân dân quan tâm.
- Hoạt động chất vấn của Quốc hội luôn được đổi mới để nâng cao chất lượng như cải tiến cách thức tiến hành, điều hành phiên chất vấn (người trả lời không đọc văn bản, trả lời chất vấn theo nhóm vấn đề); giảm thời gian chất vấn và thời gian trả lời một cách phù hợp, mời Thủ tướng Chính phủ hoặc Phó Thủ tướng Chính phủ tham gia trả lời trực tiếp chất vấn của ĐBQH; triển khai tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp của UBTVQH; ra nghị quyết về hoạt động chất vấn…
- Việc tổng hợp chất vấn, theo dõi việc thực hiện lời hứa của người trả lời chất vấn, thông báo các nội dung có liên quan sau chất vấn… được thực hiện một cách thường xuyên, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn.
Những thành quả đó góp phần vào việc tăng cường chất lượng, hiệu quả của công tác giám sát của Quốc hội. Thông qua hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, vai trò của Quốc hội đối với công tác giám sát hoạt động của Chính phủ, các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước được thể hiện rõ nét và ngày càng có tác dụng tích cực. Chất vấn và trả lời chất vấn đã trở thành công cụ hữu hiệu của Quốc hội trong hoạt động giám sát, là hình thức sinh hoạt chính trị thường xuyên của Quốc hội tại mỗi kỳ họp, được ĐBQH, cử tri và nhân dân đồng tình ủng hộ và đánh giá cao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động chất vấn và trả lời chất vẫn còn một số hạn chế, đó là:
- Thủ tục chuẩn bị chất vấn và trả lời chất vấn còn thiếu những quy định cụ thể, chưa thể hiện hết yêu cầu đặt ra cho nội dung hoạt động giám sát này:
+ Chưa có quy định thủ tục kiểm chứng xác nhận phiếu chất vấn đủ điều kiện để chuyển đến người bị chất vấn phải trả lời, để thể hiện trách nhiệm của người chất vấn, bảo đảm nội dung chất vấn phải rõ ràng, có căn cứ, liên quan đến quyền hạn trách nhiệm người bị chất vấn. Không ít những chất vấn chỉ dựa vào dư luận chung, thiếu thông tin thực trạng tình hình cụ thể từ các cơ quan, người có trách nhiệm cung cấp chính thức... [11, trang 4]
+ Các thủ tục ghi nhận ý kiến của ĐBQH đánh giá văn bản trả lời chất vấn trong tình huống người trả lời không “trả lời đầy đủ nội dung các vấn đề mà ĐBQH đã chất vấn, xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục” (Nội quy kỳ họp QH) để thể hiện chính kiến tiếp theo. Thực tế có ĐBQH chưa thỏa mãn câu trả lời thì tiếp tục đăng ký chất vấn trực tiếp tại phiên chất vấn, nhưng không phải tất cả đại biểu đều được chất vấn trực tiếp do không có đủ thời gian hoặc người bị chất vấn không “đăng đàn”. Vì thế ít đại biểu theo đuổi chất vấn đến cùng, trong khi không ít những văn bản trả lời chất vấn còn chung chung, né tránh các vấn đề cốt lõi mà cử tri quan tâm, đặc biệt là không rõ trách nhiệm.
+ Thủ tục lựa chọn người trả lời chất vấn và những vấn đề để tập trung chất vấn và trả lời chất vấn ở từng kỳ họp là chưa cụ thể. Thực tế là Đoàn thư ký kỳ họp giúp Chủ tịch Quốc hội tập hợp các câu hỏi của ĐBQH để UBTVQH thảo luận trước với Chính phủ, sau đó đề xuất với Quốc hội danh sách các vị Bộ trưởng, Trưởng ngành trả lời chất vấn trong từng kỳ họp, thường là được QH thông qua. Cách làm thông lệ này dẫn đến hệ quả là việc lựa chọn vấn đề đưa ra trả lời trực tiếp trước Quốc hội sẽ không phản ảnh hết ý chí của ĐBQH, không đáp ứng yêu cầu của ĐBQH và cử tri, đặc biệt là những vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra.
- Thời gian trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp chưa có quy định cụ thể hoặc có quy định nhưng chưa thực sự hợp lý.
- Chưa có quy định về thời gian ĐBQH gửi câu hỏi chất vấn bằng văn bản tại kỳ họp Quốc hội (thường là từ lúc bắt đầu kỳ họp đến trước khi diễn ra phiên chất vấn) và từ khi đại biểu gửi câu hỏi đến khi nhận được trả lời. Do vậy, nếu người chất vấn gửi câu hỏi càng chậm thì người bị chất vấn càng ít có thời gian chuẩn bị trả lời, do đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng trả lời, đồng thời đại biểu chậm nhận được trả lời thì sẽ khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ chất vấn tại phiên chất vấn.
- Tại các phiên chất vấn trực tiếp, thường là từ 2-3 ngày trong mỗi kỳ họp là rất ngắn, nhưng số lượng bộ, ngành khá nhiều, do đó thời gian chất vấn được quy định “người bị chất vấn trả lời trực tiếp từng vấn đề thuộc nội dung chất vấn; thời gian trả lời chất vấn về từng vấn đề không quá 15 phút; ĐBQH có thể nêu thêm câu hỏi liên quan đến nội dung trả lời chất vấn; thời gian nêu câu hỏi không quá 3 phút”. Quy định này chưa thật sự phù hợp, có những vấn đề không nhất thiết phải trả lời đến 15 phút nhưng người bị chất vấn trả lời kéo dài làm hạn chế thời gian của việc hỏi và trả lời những câu hỏi sau. Đối với chất vấn trực tiếp cần phải quy định tổng thời gian chất vấn và trả lời chất vấn cho từng người bị chất vấn một cách cụ thể để từ đó lựa chọn vấn đề cần tập trung chất vấn.
- Thủ tục đánh giá kết quả chất vấn và trả lời chất vấn còn thiếu
Luật quy định “sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu ĐBQH không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của QH hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn. Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết”. Tuy nhiên luật hiện hành không quy định thủ tục, cách tiến hành như thế nào, “khi cần thiết” có phải là chỉ khi có “vấn đề về trách nhiệm của người bị chất vấn” hay không, trách nhiệm của người trả lời chất vấn là loại trách nhiệm gì, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn có mối quan hệ gì với việc bỏ phiếu tín nhiệm... Do đó, Luật không đi vào thực tiễn và vô hình trung đã làm hạn chế đến kết quả giám sát bằng hình thức chất vấn.
Những kỳ họp vừa qua, sau trả lời chất vấn trực tiếp đối với từng vị Bộ trưởng, thủ trưởng ngành, Chủ tịch Quốc hội đã tóm tắt và lưu ý một số nội dung chính, coi như là nhận xét của Quốc hội; hoặc cuối phiên chất vấn có đề nghị Đoàn thư ký tổng hợp các giải pháp, lời hứa của người bị chất vấn để theo dõi việc thực hiện. Việc làm này là cần thiết nhưng các thủ tục phải được luật hóa để hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện ngày càng thực chất hơn, hiệu quả hơn.
- Việc đánh giá và tập hợp các ý kiến đánh giá của ĐBQH về trả lời chất vấn cần phải có thủ tục được quy định trong luật để có cơ sở thực hiện, làm căn cứ cho việc lựa chọn những nội dung cần tiếp tục đưa ra chất vấn hoặc việc Quốc hội cần ra nghị quyết về nội dung và trách nhiệm của người bị chất vấn sau phiên chất vấn của kỳ họp hoặc để Quốc hội xem xét việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người đã trả lời chất vấn.
3.1.4. Việc thực hiện giám sát chuyên đề tại kỳ họp Quốc hội
- Từ năm 2004 đến nay, thực hiện Nghị quyết của UBTVQH về Chương trình hoạt động giám sát hàng năm của Quốc hội, Quốc hội, UBTVQH đã tiến hành hoạt động giám sát chuyên đề đối với những vấn đề bức xúc, được dư luận xã hội quan tâm. Hình thức giám sát này bước đầu đã đem lại những hiệu quả nhất định, tạo ra những chuyển biến tích cực đối với một số lĩnh vực cụ thể như về giáo dục, về vấn đề khám chữa bệnh cho nhân dân, về tình hình thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn…
Trong năm 2009, UBTVQH đã tiến hành 02 đợt giám sát chuyên đề đó là: giám sát việc tổ chức, thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và việc phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng của các cơ quan có thẩm quyền trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và giám sát công tác vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Đây là 02 vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm và theo dõi của dư luận cả nước. Sau khi tiến hành giám sát ở một số địa phương cụ thể, UBTVQH đã tổ chức nghiên cứu,đánh giá và ban hành các Báo cáo chuyên đề các vấn đề này để Quốc hội tập trung thảo luận và cho ý kiến.
- Thông qua hoạt động giám sát chuyên đề, Quốc hội, UBTVQH có thể đánh giá, nhận xét những vướng mắc và hạn chế trong công tác lập phấp và quyết định những vấn đề quan trọng trong những lĩnh vực đó. Và ở một mức độ nào đó, có thể đánh giá hoạt động giám sát chuyên đề như là một khâu bổ trợ quan trọng trong hoạt động lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như chức năng hiến định của Quốc hội.
- Với những đối tượng và phạm vi giám sát hẹp, cụ thể, hoạt động giám sát theo chuyên đề có thể giúp cho việc hoạch định những chính sách lớn và quyết định những vấn đề quan trọng trong những lĩnh vực nhất định sát thực hơn với thực tiễn, với yêu cầu, đòi hỏi của xă hội. Thông qua hoạt động giám sát chuyên đề có thể kiểm nghiệm, đánh giá, bổ sung cho việc thực hiện chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng trong những lĩnh vực đó. Như vậy, hình thức giám sát chuyên đề có thể coi là một khâu bổ trợ không thể thiếu trong hoạt động lập pháp, trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; qua đó, bảo đảm để Quốc hội thực hiện được đầy đủ, đồng bộ các chức năng của ḿnh với chất lượng cao nhất.
Hoạt động giám sát theo chuyên đề của Quốc hội trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:
- Chưa có cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội.
Theo quy định tại Điều 7 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, hình thức giám sát theo chuyên đề chưa được quy định là một hoạt động giám sát của Quốc hội mà chỉ là một cách làm vận dụng. Trên thực tế, việc giám sát theo các chuyên đề đÓ được thực hiện từ lâu nhưng chỉ ở phạm vi Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Hiện nay, nội dung các chuyên đề giám sát được Quốc hội chọn lựa và đưa vào Chương trình giám sất của Quốc hội theo kiến nghị của các chủ thể có thẩm quyền. Do những hiệu quả nhất định mang lại từ hoạt động này nên Quốc hội vẫn tiếp tục thực hiện từ khi có Luật hoạt động giám sát tới nay.
- Cách thức tổ chức giám sát còn bất cập, nhất là sự bất hợp lý trong tổ chức công việc của Hội đồng dân tộc, Ủy ban. Hiện nay, mỗi kỳ họp Quốc hội đều tiến hành giám sát đối với một chuyên đề (trừ kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XII) và giao cho UBTVQH tổ chức thực hiện công tác chuẩn bị. UBTVQH cũng trực tiếp giám sát đối với một chuyên đề thuộc thẩm quyền của UBTVQH và báo cáo kết quả với Quốc hội với cách thức chuẩn bị tương tự như nhau; chuyên đề nào thuộc lĩnh vực chuyên môn của Ủy ban nào thì giao cho Ủy ban đó chủ trì giúp UBTVQH tiến hành giám sát và chuẩn bị báo cáo .
Tuy là hình thức giám sát tại kỳ họp Quốc hội nhung các công việc chuẩn bị đều được tiến hành trong thời gian giữa hai kỳ họp. Để đảm bảo chất lượng của hoạt động giám sát chuyên đề, khối lượng các công việc cần phải triển khai đối với một chuyên đề là rất lớn, đòi hỏi phải có điều kiện về nhân lực và thời gian, cả đối với những người trực tiếp giám sát (thành viên Đoàn giám sát) và người phục vụ (chuyên viên của các Vụ chuyên môn). Trong khi đó, bên cạnh nhiệm vụ giám sát do UBTVQH giao, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội còn có chương trình hoạt động giám sát của riêng mình, đồng thời, thực hiện hoạt động thẩm tra các dự án luật, hoạt động đối ngoại, tiếp nhận và xử lý đơn thư thuộc lĩnh vực phụ trách [12, tr 8]… Do khối lượng các công việc được giao khá lớn so với khả năng thực hiện và quỹ thời gian nên chất lượng sẽ bị hạn chế. Mặt khác, các chuyên đề được Quốc hội lựa chọn để tiến hành giám sát là những vấn đề bức xúc, thường rơi vào các lĩnh vực của những Ủy ban có nhiều dự án Luật phải thẩm tra (các Ủy ban pháp luật, Ủy ban tư pháp, Ủy ban các vấn đề xã hội…), chính vì vậy, tương quan về khối lượng công việc giữa các Hội đồng, Ủy ban vốn đã có nhiều chênh lệch lại càng trở nên chênh lệch hơn, tạo ra những bất hợp lý trong phân công công tác trong các cơ quan của Quốc hội.
- Có sự chồng lấn trong phạm vi giám sát của các chủ thể giám sát trong hoạt động giám sát chuyên đề.
Giữa các chủ thể giám sát chuyên đề là Quốc hội, UBTVQH và các cơ quan của Quốc hội, có sự chồng lấn về phạm vi, nội dung và đối tượng giám sát. Ví dụ, về vấn đề “thi hành pháp luật về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm” đây phải là nội dung giám sát của Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường, nếu Quốc hội xác định vấn đề này thuộc chương trình giám sát của Quốc hội mà không có sự phân công hợp lý trách nhiệm giữa các Ủy ban, chỉ xác định đơn vị chủ trì là Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường thì đã tạo nên sự chồng lấn về nội dung, đối tượng giám sát giữa các chủ thể. Sự chồng chéo đó vừa thể hiện sự không hợp lý, không khoa học trong phân công công việc, vừa khó xác định được trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình giám sát cũng như khi có vấn đề xảy ra.
- Kiến nghị, nghị quyết, kết luận sau hoạt động giám sát chưa được quan tâm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện
Hầu hết việc giám sát chuyên đề của Quốc hội đều không có thời hạn yêu cầu Chính phủ giải quyết vấn đề còn tồn tại hoặc ban hành, sửa đổi chính sách, hoặc báo cáo Quốc hội về việc xử lý các tập thể, cá nhân đó có sai phạm trong quản lý, điều hành. Đối với một số chuyên đề, Quốc hội đã ra Nghị quyết sau khi giám sát, đề nghị một số nhiệm vụ, giải pháp yêu cầu các cơ quan hữu quan thực hiện nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã được nêu ra trong quá trình giám sát. Tuy nhiên, không có sự phân công theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị, giải pháp này; đồng thời, cơ chế pháp lý để ràng buộc thực hiện đối với những văn bản này chưa cao, đã ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động giám sát của Quốc hội.
3.1.5. Việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 có nội dung mới quy định về bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Khoản 7 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các thành viên ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng Quốc phòng và an ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ”
Khoản 7 Điều 84 Hiến pháp 1992 được sửa đổi như sau:
“7. Bầu, miễn nhiệm bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và an ninh, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”
Tiếp theo việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, cũng tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X, vào tháng 2/2001, Quốc hội cũng sửa Luật tổ chức Quốc hội. Điều 12 Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội quy định:
“12. Việc bỏ phiếu tín nhiệm do ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc khi có kiến nghị của ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội hoặc kiến nghị của Hội đồng dân tộc, ủy ban của Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếm tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001, Quốc hội có thẩm quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy đã cụ thể hóa rõ vai trò của Quốc hội với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, trong đó việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước là 1 trong 3 chức năng chính của Quốc hội.
Tuy pháp luật đã quy định cụ thể và đầy đủ các trường hợp và thủ tục để bỏ phiếu tín nhiệm người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nhưng thực thế trong gần 10 năm qua chưa có trường hợp nào được UBTVQH trình QH xem xét, bỏ phiếu tín nhiệm. Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, trong số những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn không phải không có người “có hành vi vi phạm pháp luật hoặc không thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao”, đủ điều kiện để đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm mà do một số quy định của pháp luật còn bất cập. Cụ thể là:
- Chưa có quy chế phối hợp giữa các cơ quan Đảng với Quốc hội về quy trình thủ tục để thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm cũng như trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chính trị của người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm.
- Đối tượng có thể đưa ra Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm quá rộng. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn bao gồm những người trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với công dân (Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên UBTVQH, Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng kiểm toán nhà nước). Ngoài ra cũng có một nhóm đối tượng khác bao gồm Phó Chủ tịch và Ủy viên Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm và Ủy viên các Ủy ban của Quốc hội, Ủy viên Đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội. Việc đưa những đối tượng này vào diện phải bỏ phiếu tín nhiệm có hai bất hợp lý:
Thứ nhất: không công bằng về mức độ phải chịu trách nhiệm trong việc sử dụng quyền lực nhà nước; đồng thời, làm cho đối tượng bỏ phiếu tín nhiệm bị mở rộng quỏ nhiều.
Thứ hai, lẽ ra đây phải là những người đưa ra đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm nhưng thực chất chính họ cũng là đối tượng bị đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm.
- Quy định về ĐBQH kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm không khả thi. Pháp luật yêu cầu phải có kiến nghị bằng văn bản của ít nhất 20% ĐBQH (trong tổng số gần 500 ĐBQH) thì UBTVQH mới xem xét, trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật liên quan không quy định chi tiết về việc một đại biểu làm thế nào để thu thập cho đủ khoảng 100 chữ ký vào kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm đối với cùng một đối tượng. Như vậy, thẩm quyền kiến nghị việc bỏ phiếu tín nhiệm của ĐBQH khó mà thực hiện được trong thực tế.
- Hội đồng dân tộc, các Ủy ban chỉ là cơ quan đề xuất chứ không có quyền trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm. Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là một trong những chủ thể có thẩm quyền kiến nghị việc bỏ phiếu tín nhiệm. Khi có kiến nghị bằng văn bản của ít nhất 20% tổng số thành viên, Thường trực Ủy ban báo cáo Hội đồng, Ủy ban quyết định, nếu được 2/3 tổng số thành viên Hội đồng dân tộc, thành viên Ủy ban bỏ phiếu tán thành thỡ Hội đồng dân tộc, Ủy ban kiến nghị UBTVQH xem xét, trình Quốc hội quyết định việc bỏ phiếu tín nhiệm. Quy định như trên là quá chặt chẽ, khó có thể thực hiện được vì nếu không có hướng dẫn về quy trình, cách thức tập hợp thì không thể nào có được kiến nghị của 20% thành viên Uỷ ban để tiến hành các thủ tục tiếp sau. Đã rất khó để có được một kiến nghị của tập thể Hội đồng, Ủy ban nhưng kiến nghị đó vẫn tiếp tục phải trình UBTVQH xem xét. Quy định như vậy cho thấy Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội chỉ là cơ quan đề xuất chứ chưa thực sự có quyền kiến nghị Quốc hội thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm, do đó chưa đề cao được vai trò, trách nhiệm của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban.
3.2. Hoạt động giám sát của UBTVQH
Với tư cách là một chủ thể giám sát theo quy định của pháp luật và là cơ quan Thường trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp, UBTVQH đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội. UBTVQH có nhiệm vụ giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Bên cạnh đó, UBTVQH chuẩn bị, trình Quốc hội dự kiến chương trình hoạt động giám sát hàng năm của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; thực hiện việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội và tổ chức để ĐBQH thực hiện quyền chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp.
Trong thời gian qua, hoạt động giám sát của UBTVQH đã được tổ chức thực hiện thường xuyên, nghiêm túc theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, mang lại những kết quả tích cực, có tác động nhất định tới đời s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan của quốc hội.doc