Luận văn Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần kim khí An Bình

Nhằm đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng vốn ta cần phân tích cơ cấu tài sản của công ty, tỷ trọng đầu từ vào từng bộ phận tài sản. Đây là cơ sở đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc điều hành cơ cấu đầu tư.

Tài sản ngắn hạn (tài sản lưu động) của doanh nghiệp được cấu thành bởi bốn loại tài sản: tiền và tương đương tiền; phải thu; hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác.

Do đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh nên tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu qua các năm, tỷ lệ này qua năm 2005, 2006, 2007 lần lượt là: 90%, 86%, 93%. Tỷ lệ này giảm trong năm 2006 và tăng trong năm 2007 tương ứng với sự giảm, tăng của quy mô kinh doanh. Trong tổng vốn lưu động thì các khoản phải thu, chủ yếu là phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng lớn và giảm dần qua các năm: năm 2005: 52%; năm 2006: 53%; năm 2007: 36%. Mặc dù công tác quản lý các khoản phải thu qua các năm có chiều hướng tốt hơn nhưng các khoản phải thu vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng vốn lưu động. Do doanh nghiệp thực hiện phương thức bán hàng trả chậm nên giá trị các khoản phải thu khách hàng lớn cả về số tuyệt đối và tương đối; các khoản phải thu được phân loại chi tiết thành các nhóm (A, B, C) theo thời gian chậm trả và tính chất, khả năng thu hồi.

 

docx85 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6547 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần kim khí An Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Thực tế, trong hai quý đầu năm 2007, do vốn lưu động luân chuyển chậm nên công ty chậm thanh toán nợ với ngân hàng ở một số khoản vay (chủ yếu do lượng hàng tồn kho năm 2006 chậm luân chuyển) nhưng công ty vẫn đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ của mình, không để phát sinh nợ quá hạn. Từ tháng 8/2007, công ty đã trả hết nợ vay gia hạn, không phát sinh nợ gia hạn mới, thậm chí còn thanh toán nợ trước hạn cho ngân hàng (cụ thể tính đến cuối tháng 12/2007, công ty đã trả hết nợ vay đến hạn tại thời điểm tháng 3/2008). Điều này cho thấy khả năng thanh toán nợ năm 2007 phát triển theo chiều hướng tốt. + Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Cuối năm 2007, hệ số khả năng thanh toán nhanh đạt 0,62, giảm 0,12 làn so với đầu năm. Nguyên nhân là do tốc độ tăng của nợ phải trả nhanh hơn so với tốc độ tăng của hàng tồn kho. Hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn lưu động (49,23%). Nợ phải trả, đặc biệt là vay và nợ ngắn hạn tăng mạnh trong khi khả năng thanh khoản đối với các khoản phải thu khách hàng không cao sẽ tiềm ẩn nhiểu rủi ro khi các khoản nợ đến hạn cùng một thời điểm cũng như tại các thời điểm liên tiếp nhau. + Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu: năm 2006 là 4,143 lần (giảm: 0,32 so với năm 2005); năm 2007 là 3,46 lần (giảm 0,683 lần so với năm 2006). Hệ số này ở mức thấp hơn khi loại trừ tài sản chất lượng kém ra khỏi vốn chủ sở hữu. Hệ số này cũng cho thấy chất lượng tài sản có của công ty không cao, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ so với nợ phải trả. So với chỉ số bình quân ngành (cùng quy mô) thì hệ số này của công ty ở mức tương đối cao, điều này tiềm ẩn nhiểu rủi ro khi hoạt động kinh doanh không hiệu quả. + Hệ số tự tài trợ năm 2007 là: 22%, năm 2006 là 19,45% (Trên cơ sở chưa loại trừ tài sản kém chất lượng ra khỏi vốn chủ hữu). Từ thực trạng tài chính các DN Nhà nước hiện nay thì hệ số trên tương đối an toàn đối với Ngân hàng cấp vốn. Với tỷ lệ tự tài trợ giao động từ 28-31%, khách hàng là một doanh nghiệp có khả năng tự chủ tài chính khá. Như vậy hệ số tự tài trợ của Công ty chưa thật cao. Tuy nhiên, sau khi loại trừ tài sản kém chất lượng ra khỏi tài sản có, hệ số này có thấp hơn. Vốn chủ sở hữu của DN đến 31/12/2007 là 93.909 triệu đồng (trong đó vốn đầu tư của chủ sở hữu là 90.000 triệu đồng; lợi nhuận chưa phân phối là 3.909 triệu đồng). Với lượng vốn trên DN có tính chủ động tài chính khá và đủ khả năng bù đắp rủi ro trong kinh doanh cũng như đảm bảo được khả năng thanh toán nợ. + Khả năng trang trải lãi vay: Hoạt động kinh doanh năm 2006 không thật hiệu quả, kết quả hoạt động kinh doanh nói chung lỗ 6.510 triệu đồng. Năm 2007, chỉ tiêu này đạt 1,64 và lợi nhuận sau thuế đã bù đắp được số lỗ của năm 2006. Kết hợp với hoạt động kinh doanh kho bãi khá hiệu quả, doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng trả lãi vay đầy đủ và đúng hạn. b, Chỉ tiêu về tăng trưởng + Doanh thu năm 2006 đạt 663.203 triệu đồng, tiếp tục giảm 107.706 triệu đồng (13,97%) so với năm 2005. Doanh thu thực hiện năm 2006 đạt 60% kế hoạch năm 2006 và đạt 82% so với thực hiện năm 2005. Theo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bán ra năm 2006: 75.864 tấn, trong đó: Bán hàng tồn kho cũ năm 2005 chuyển sang 12.658 tấn (trong đó Huy động tồn kho cũ có giá vốn cao gây lỗ là 9.101 tấn, chiếm 72% lượng hàng tồn 2005 bán ra), và bán hàng mua mới là: 63.206 tấn (chiếm 83,31% tổng lượng hàng tiêu thụ). Nguyên nhân doanh thu giảm chủ yếu do đẩy mạnh tiêu thụ lượng hàng tồn kho giá vốn cao và do không tận dụng được cơ hội kinh doanh ở một số thời điểm giá thép tăng cao (thực tế lượng hàng mua vào năm 2006 là: 70.040 tấn, chỉ đạt 57,9% kế hoạch và lượng hàng mua mới bán ra là: 63.206 tấn, chỉ đạt 60% kế hoạch). Doanh thu năm 2007 đạt 1.251.040 triệu đồng, tăng 587.838 triệu đồng so với năm 2006 và đạt 120% kế hoặch năm 2007. Nguyên nhân tăng doanh thu do lượng hàng tiêu thụ trong năm tăng. Đây là tỷ lệ tăng trưởng không quá nóng do thị trường thép năm 2007 biến động theo chiều hướng có lợi cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thép (cầu của thị trường thép tăng cao, giá thép cũng tăng mạnh do ảnh hưởng của thị trường thép thế giới và tác động của nhiều yếu tố. Doanh thu bị giảm trừ 552 triệu đồng do hàng bán bị trả lại. Tuy nhiên, con số này chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh thu (0,40%) + Kết quả hoạt động kinh doanh: năm 2006 lỗ 6.510 triệu đồng (mặc dù đã được được xử lý hết số lỗ luỹ kế tại thời điểm chuyển sang cổ phần hoá -31/12/2005). Nguyên nhân do doanh thu tiêu thụ không cao, do đẩy mạnh tiêu thụ lượng hàng tồn kho giá vốn cao năm 2005 nhưng không tận dụng được cơ hội kinh doanh ở một số thời điểm giá thép tăng cao (Thực tế, thị trường thép năm 2006 khá ổn định). Mặc dù vậy, hoạt động kinh doanh hàng mới mua vào năm 2006 và kinh doanh kho bãi khá hiệu quả. Sang năm 2007, lợi nhuận sau thuế đạt 10.419 triệu đồng. Sau khi bù đắp lỗ luỹ kế năm trước thì lợi nhuận sau thuế còn 3.909 triệu đồng. Tuy nhiên nếu tính hết chi phí (Chi phí lãi vay chưa phân bổ hết cho hàng tồn kho, chi phí vận chuyển, bốc xếp, chi phí kiểmtoán…), đặc biệt là chi phí dự phòng phải thu khó đòi (nếu trích lập đầy đủ) thì kết quả kinh doanh thực tế thấp hơn nhiều. Qua những phân tích trên, có thể thấy giai đoạn 2004-2007 là một giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển của Công ty. Năm 2005-2006, với sự thay đổi mô hình hoạt động, Công ty đã gặp không ít những khó khăn về cả mặt quản lý cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Với nỗ lực không nhỏ, Công ty đã từng bước tìm được cho mình hướng đi ổn định và phát triển. Năm 2007, Công ty đã đạt được mức tăng trưởng đáng kể. Số lỗ luỹ kế từ những năm trước đã được bù đắp hết và vẫn có lãi. Tuy nhiên, để đánh giá xác thực hơn nữa tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần kim khí An Bình, ta cần xem xét, phân tích các chỉ tiêu cụ thể. c, Chỉ tiêu về tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh - Nhìn chung hoạt động kinh doanh năm 2007 có chiều hướng tốt hơn năm 2006 doanh thu, lợi nhuận tăng nhưng chưa thật cao.Vòng quay tài sản năm 2007 là 3,66 vòng/năm; năm 2006 là 2,05 vòng/năm. Điều này cho thấy mặc dù doanh thu và lợi nhuận tăng nhưng năm 2007, một đồng vốn đưa vào kinh doanh chỉ tạo ra cho doanh nghiệp 3,66 đồng doanh thu. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có chiều hướng tăng so với năm trước vẫn là thấp so với bình quân của ngành. - Hàng tồn kho năm 2006 giảm 57.196 triệu đồng (37,82%) so với thời điểm 31/12/2005. Trong năm, doanh nghiệp đã tiêu thụ 12.658 tấn hàng tồn kho cũ năm 2005 (chiếm 16,69% lượng hàng tiêu thụ trong năm), trong đó huy động tồn kho cũ có giá vốn cao gây lỗ: 9.101 tấn (chiếm 72% lượng hàng tồn kho cũ năm 2005 và chiếm 12% tổng lượng hàng bán ra năm 2006). Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 lỗ 6.510 triệu đồng chủ yếu do tiêu thụ lượng hàng tồn kho cũ năm 2005 (lượng hàng tồn kho cũ có giá vốn cao chiếm tới 72%), mặt khác do công ty không tận dụng được cơ hội đẩy mạnh tiêu thụ hàng ở một số thời điểm giá thép tăng cao. Như vậy, lượng hàng cũ năm 2005 còn tồn đến 31/12/2006 là: 3.894 tấn (chiếm 36,29% lượng hàng tồn kho năm 2006), trong đó hàng tồn kho có giá vốn cao gây lỗ là: 2.726 tấn, trị giá ước tính khoảng: 23.709 triệu đồng. Hàng tồn kho giảm là dấu hiệu cho thấy nỗ lực của doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho cũ năm 2005, tuy nhiên lượng hàng cũ năm 2005 còn tồn đến 31/12/2006 vẫn chiếm tỷ trọng khá cao trong hàng tồn kho, đồng thời thời gian dự trữ hàng tồn kho năm 2006 tăng 7 ngày so với năm 2005 lại chỉ ra công tác quản lý hàng tồn kho của công ty chưa tốt, vốn sử dụng chưa thật hiệu quả, điều này trực tiếp làm giảm dòng tiền do vốn kém hoạt động, giảm vòng quay vốn lưu động, làm tăng tỷ lệ vốn không sinh lời. Lượng hàng mua vào trong năm được tiêu thụ hầu hết (90,24%) cho thấy hoạt động bán hàng trong năm khá tốt, nhưng nó cũng cho thấy công ty chưa tận dụng tốt cơ hội kinh doanh (cụ thể lượng hàng mua vào chỉ đạt 57,9% kế hoạch), điều này lý giải cho việc không đạt được kế hoạch về doanh thu, đồng thời công ty cũng không tận dụng được việc đẩy mạnh tiêu thụ hàng vào thời điểm giá thép tăng cao trong 3 tháng đầu năm 2007 nhằm gia tăng lợi nhuận, vòng quay hàng tồn kho năm 2006: 5,1 vòng cao hơn so với mức bình quân tối ưu của ngành. Năm 2007, giá trị hàng tồn kho là 140.427 triệu đồng, tăng 97.868 triệu đồng (104,07 %) so với năm 2006. Do thị trường thép những tháng cuối năm phát triển theo xu hướng thuận lợi (nhu cầu tiêu thụ và giá thép có xu hướng tăng). Do vậy, có thể việc dự trữ hàng tồn kho để tận dụng lợi thế cạnh tranh đối với doanh nghiệp là cần thiết. - Các khoản phải thu năm 2006 giảm mạnh: 59.391 triệu đồng (33,19%); trong đó phải thu khách hàng giảm: 62.736 triệu đồng (39,77%) so với năm 2005. Năm 2006, phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng giá trị các khoản phải thu: 79,50%. Tốc độ giảm của phải thu khách hàng cao hơn tốc độ giảm của doanh thu, đồng thời thời gian thu hồi công nợ năm 2006 giảm 37 ngày chứng tỏ công tác quản lý các khoản phải thu và thu hồi nợ của doanh nghiệp năm 2006 tốt hơn năm 2005. Trong tổng nợ phải thu khách hàng (Bao gồm phải thu ngắn hạn và phải thu dài hạn của khách hàng): 110.351 triệu đồng, nợ nhóm A: 69.653 triệu đồng (chiếm 63,22% tổng nợ phải thu); nhóm B: 24.296 triệu đồng (chiếm 22,05%); nhóm C: 16.221 triệu đồng (chiếm 14,73%). Như vậy, tỷ lệ nợ nhóm B, nhóm C cao tại thời điểm 31/12/2006 vẫn chỉ ra rằng hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, điều này trực tiếp ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp (Vòng quay vốn lưu động năm 2006 vẫn giữ nguyên ở mức 2,32 vòng so với năm 2005 mặc dù hàng tồn kho và phải thu giảm). Năm 2007, các khoản phải thu tăng 28.798 triệu đồng (25,8%) so với năm 2006, trong đó phải thu khách hàng tăng 29.562 triệu đồng (26,83%). Tốc độ tăng doanh thu (120%) cao hơn nhiều so với tốc độ tăng các khoản phải thu, đồng thời thời gian thu hồi công nợ năm 2007 (37 ngày) giảm 6 ngày so với năm 2006 và giảm 33 ngày so với năm 2005 chứng tỏ công tác quản lý các khoản phải thu và thu hồi công nợ của công ty năm tốt hơn các năm trước. Trong tổng nợ phải thu khách hàng (139.732 triệu đồng) thì nợ nhóm A: 96.571 triệu đồng (chiếm 61,11% tổng nợ phải thu); nhóm B: 29.717 triệu đồng (chiếm 21,29% tổng nợ phải thu); nhóm C: 13.444 triệu đồng (chiếm 9,6% tổng nợ phải thu), trong đó nợ khó đòi là 3.057 triệu đồng. Tỷ lệ phải thu nhóm B, nhóm C đã giảm so với năm 2006 nhưng vẫn ở mức cao, điều này chỉ ra rằng hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán ngắn hạn cũng như khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Phương thức bán hàng chủ yếu của công ty là bán hàng trả chậm (có tính lãi chậm trả), điều này có thể mang lại một số thuận lợi nhất định trong hoạt động kinh doanh, tuy nhiên sẽ dẫn đến tình trạng vốn bị chiếm dụng lớn, buộc doanh nghiệp tăng vay nợ ngắn hạn đáp ứng nhu cầu vốn tăng cao tại một số thời điểm thuận lợi. Đồng thời khi công tác quản lý và thu hồi công nợ không hiệu quả sẽ trực tiếp làm vốn ứ đọng, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Bên cạnh phương thức bán hàng trả chậm truyền thống, công ty cũng áp dụng chính sách chiết khấu đối với các khách hàng thanh toán ngay hoặc thanh toán trước thời hạn. Về công nợ khó đòi: Nợ quá hạn và khó đòi đến 31/12/2006 là 16.221 triệu đồng, trong đó có 954 triệu đồng (giảm 1.683 triệu đồng so với năm 2005) không có khả năng thu hồi bao gồm 3 doanh nghiệp, chủ yếu là công ty TNHH: CHCĐ sắt thép Đà Nẵng (378 triệu đồng); Công ty TNHH Thành Vinh (362 triệu đồng, lãi chậm trả: 58 triệu đồng); Công ty TNHH Thắng Lợi (157 triệu đồng). Nợ khó đòi đã xử lý tại thời điểm 31/12/2006 là 13.497 triệu đồng. Năm 2007, nợ quá hạn và khó đòi tính đến ngày 31/12/2007 là 13.444 triệu đồng (chủ yếu của những khách hàng là các công ty công ty xây dựng cầu, công ty cơ khí…). Số nợ khó đòi đã xử lý trong năm 2007 là 14.396 triệu đồng. Như vậy, nợ khó đòi năm 2007 đã giảm so với năm 2006 nhưng không đáng kể và vẫn ở mức cao. Điều này cho thấy nỗ lực của doanh nghiệp trong công tác xử lý nợ khó đòi nhưng cũng chỉ ra công tác thu hồi nợ và quản lý các khoản phải thu chưa tốt, vốn của doanh nghiệp vẫn bị chiếm dụng. Những chỉ tiêu trên cho thấy việc sử dụng vốn kinh doanh năm 2007 có chiều hướng tốt hơn năm 2006. Tuy nhiên, luân chuyển hàng hoá và tiền tệ chậm, công tác quản lý hàng tồn kho, phải thu và thu hồi nợ năm 2007 chưa thật tốt (vẫn phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi, hàng bán bị trả lại). d, Các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi Hoạt động kinh doanh năm 2006 lỗ 6.510 triệu đồng, doanh thu giảm nên các chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên doanh thu, trên tổng tài sản và trên vốn chủ sở hữu đều âm. Năm 2007, tỷ suất lợi nhuận trước thuế/doanh thu thuần, lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản và lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu lần lượt là: 0,8%; 2,5%; 11,6%. Như vậy, mặc dù các chỉ tiên về khả năng sinh lời cao hơn 2006 nhưng vẫn ở mức thấp cho thấy khả năng sinh lời của vốn kinh doanh nói chung và vốn chủ sở hữu nói tiêng vẫn ở mức thấp. 2.2.3. Thực trạng quản lý vốn của công ty 2.2.3.1 Cơ cấu tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp * Về cơ cấu nguồn vốn Bảng 2.4: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn của Công ty các năm 2004-2007 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Chỉ tiêu Giá trị (Tr đ) Tỷ trọng Giá trị (Tr đ) Tỷ trọng Giá trị (Tr đ) Tỷ trọng Giá trị (Tr đ) Tỷ trọng A NGUỒN VỐN 254.730 69 294.979 77 179.613 68 325.750 78 I Nợ phải trả 254.730 100 294.979 100 179.613 100 319.440 98 1 Vay và nợ ngắn hạn 182.419 72 242.650 82 117.605 65 205.675 64 2 Phải trả cho người bán 36.790 14 27.184 9 42.539 24 70.646 22 3 Người mua trả tiền trước 863 0 489 0 1.082 1 27.545 9 4 Thuế và các khoản phải nộp NN 1.193 0 3.755 1 2.768 2 26 0 5 Phải trả công nhân viên 4.867 2 354 0 1.470 1 5.992 2 6 Chi phí phải trả 357 0 860 0 209 0 869 0 7 Phải trả cho các đơn vị nội bộ 27.866 11 3.560 1 0 0 9 Các khoản phải trả phải nộp khác 375 0 16.127 5 13.940 8 8.687 3 II Nợ dài hạn 0 0 0 0 0 0 6.310 2 4 Vay và nợ dài hạn 6.139 97 6 Dự phòng trợ cấp mất việc làm 171 3 B NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU 113.643 31 90,000 23 83.490 32 94.259 22 I Vốn chủ sở hữu 113.641 100 90,000 100 83.490 100 93.909 100 1 Vốn đầu tư của chủ sở hữu 121.173 107 90.000 100 90.000 108 90.000 96 9 Lợi nhuận chưa phân phối -7.532 -7 -6.510 -8 3.909 4.2 II Nguồn kinh phí quỹ khác 2 0 0 0 0 350 0.4 1 Quỹ khen thưởng và phúc lợi 2 100 350 100 TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN 368.373 384.979 263.103 420.009 Nguồn: Bảng cân đối kế toán của Công ty các năm 2004-2007 Vốn của công ty được hình thành từ hai nguồn là: Nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Một cơ cấu vốn hợp lý và hiệu quả phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, vừa đảm bảo sự an toàn về mặt tài chính cho doanh nghiệp, đồng thời phát huy tối đa ảnh hưởng tích cực của đòn bẩy tài chính trong kinh doanh, tạo dựng được tính thanh khoản cao trong sử dụng vốn của doanh nghiệp. Từ bảng 2.2 ta thấy quy mô vốn kinh doanh năm 2005 tăng so với năm 2004 là 16.606 triệu đồng, năm 2006 giảm so với năm 2005 là 121.876 triệu đồng, năm 2007 tăng so với năm 2006 là 156.906 triệu đồng. Phân tích chi tiết ta thấy: - Vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng không cao trong tổng nguồn vốn kinh doanh và biến động qua các năm. Năm 2006 VCSH là 83.490 trđ, chiếm 32% trong tổng vốn kinh doanh. Năm 2007, VCSH là 94.259 triệu đồng, chiếm 22% tổng vốn kinh doanh, tăng 10.769 triệu đồng (12,9%) so với năm 2006. Nguyên nhân là do hoạt động kinh doanh năm 2007 hiệu quả hơn năm 2006 (Năm 2007, lợi nhuận sau thuế đạt 10.419 triệu đồng, đã khắc phục hết số lỗ luỹ kế trước đó và có lãi). Tuy nhiên, tỷ trọng VCSH năm 2007 thấp hơn so với năm 2006. Do tốc độ tăng của tài sản cao hơn tốc độ tăng của VCSH. Điều này cho thấy để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh trong năm 2007 công ty chủ yếu vay ngắn hạn và sử dụng nguồn vốn chiếm dụng để phục vụ sản xuất kinh doanh. Cụ thể, Nợ ngắn hạn năm 2007 là 319.440 triệu đồng, tăng 139.827 triệu đồng (77,85%) so với năm 2006. Hệ số tự tài trợ của doanh nghiệp ở mức trên chưa thật cao nhưng so với thực trạng tài chính của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay thì Công ty có khả năng tự chủ về tài chính khá. - Nợ phải trả chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn kinh doanh, tỷ lệ này qua năm 2005, 2006, 2007 lần lượt là: 77%, 68%, 78%. Nợ phải trả của doanh nghiệp chủ yếu là nợ ngắn hạn - nợ vay ngắn hạn ngân hàng và nguồn vốn chiếm dụng tạm thời (phải trả người bán, người mua trả tiền trước, phải trả nội bộ, phải trả công nhân viên...); nợ dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nợ phải trả - 2%. Với đặc thù của doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương mại, tỷ trọng tài sản lưu động trong tổng tài sản rất lớn và trong điều kiện nguồn vốn tự có của doanh nghiệp không đủ trang trải (tài trợ) cho tài sản thì tất yếu công ty phải vay nợ ngân hàng và hầu hết là các khoản nợ ngắn hạn. * Về cơ cấu tài sản Bảng 2.5: Cơ cấu vốn của Công ty đơn vị tính: triệu đồng Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Chỉ tiêu Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) A Tài sản ngắn hạn 319.627 87 345.052 90 226.593 86 389.822 93 I Tiền và các khoản tương đương tiền 18.290 6 13.286 4 12.765 6 9.676 2 1 Tiền 18.290 100 13.286 100 12.765 100 9.676 100 III Các khoản phải thu 182.125 57 178.919 52 119.528 53 140.427 36 1 Phải thu của khách hàng 169.468 93 157.758 88 95.022 79 139.733 99 2 Trả trước cho người bán 1.367 1 102 0 879 1 2.302 2 5 Các khoản phải thu khác 11.290 6 21.059 12 23.609 20 130 0 6 Dự phòng các khoản phải thu khó đòi 0 0 0 -1.738 -1 IV Hàng tồn kho 116.089 36 151.234 44 94.038 42 191.906 49 1 Hàng hoá tồn kho 116.089 100 151.234 100 94.038 100 191.906 100 V Tài sản ngắn hạn khác 3.123 1 1.613 0 262 0 47.813 12 1 Thuế GTGT đợc khấu trừ 0 0 0 3.568 7 2 Các khoản thuế phải thu 2.970 95 1.475 91 238 0 0 3 Tài sản ngắn hạn khác 0 0 0 44.245 93 B Tài sản dài hạn 48.746 13 39.927 10 36.510 14 30.187 7 I Các khoản phải thu dài hạn 26.387 54 14.007 35 15.365 42 0 1 Phải thu dài hạn của khách hàng 29.388 111 13.752 98 15.149 41 3 Phải thu dài hạn khác 294 1 255 2 216 1 4 Dự phòng phải thu dài hạn khó đòi -3.295 -12 0 0 II Tài sản cố định 18.324 38 22.749 57 20.844 57 29.393 97 IV Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 3.347 7 2.847 7 0 0 0 0 3 Đầu tư dài hạn khác 3.347 100 2.847 100 0 0 V Tài sản dài hạn khác 688 1 324 1 301 1 794 3 1 Chi phí trả trước dài hạn 688 100 324 100 301 100 794 100 Tổng cộng tài sản 368.373 384.979 263.103 420.009 Nguồn: Bảng cân đối kế toán của Công ty các năm 2004-2007 Nhằm đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng vốn ta cần phân tích cơ cấu tài sản của công ty, tỷ trọng đầu từ vào từng bộ phận tài sản. Đây là cơ sở đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc điều hành cơ cấu đầu tư. Tài sản ngắn hạn (tài sản lưu động) của doanh nghiệp được cấu thành bởi bốn loại tài sản: tiền và tương đương tiền; phải thu; hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác. Do đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh nên tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu qua các năm, tỷ lệ này qua năm 2005, 2006, 2007 lần lượt là: 90%, 86%, 93%. Tỷ lệ này giảm trong năm 2006 và tăng trong năm 2007 tương ứng với sự giảm, tăng của quy mô kinh doanh. Trong tổng vốn lưu động thì các khoản phải thu, chủ yếu là phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng lớn và giảm dần qua các năm: năm 2005: 52%; năm 2006: 53%; năm 2007: 36%. Mặc dù công tác quản lý các khoản phải thu qua các năm có chiều hướng tốt hơn nhưng các khoản phải thu vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng vốn lưu động. Do doanh nghiệp thực hiện phương thức bán hàng trả chậm nên giá trị các khoản phải thu khách hàng lớn cả về số tuyệt đối và tương đối; các khoản phải thu được phân loại chi tiết thành các nhóm (A, B, C) theo thời gian chậm trả và tính chất, khả năng thu hồi. Chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong tổng vốn lưu động là Hàng tồn kho. Năm 2004, khoản mục này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn ngắn hạn nhưng tăng mạnh trong năm 2005, 2006, 2007 (năm 2005: 44%; năm 2006: 42%; năm 2007: 49%), . Hàng tồn kho tăng mạnh trong năm 2005, 2006, 2007 do giá thép năm 2005 tăng đột biến vào một số thời điểm rồi giảm mạnh vào những tháng cuối năm, đồng thời thị trường thép năm 2006 phục hồi chậm (giá thép tăng không đáng kể, cung vượt quá cầu...) làm công tác tiêu thụ hàng tồn kho chậm và kém hiệu quả (một số loại thép phải tiêu thụ với giá bán thấp hơn nhiều so với giá bán gây lỗ lớn). Tuy nhiên, năm 2007 đã tiêu thụ hết lượng hàng tồn kho giá cao gây lỗ của năm trước và tranh thủ nhập hàng để tận dụng cơ hội kinh doanh trong điều kiện thị trường thép đang biến động theo xu hướng có lợi cho doanh nghiệp Khoản mục tiền và tài sản ngắn hạn khác chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng vốn lưu động. 2.2.3.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, ta xem xét việc tài trợ nhu cầu vốn của doanh nghiệp có hợp lý hay không giữa nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Cụ thể là tài sản dài hạn của công ty có được đầu tư vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không, đồng thời tài sản ngắn hạn có đủ đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn không. Bảng 2.6: Cơ cấu phân bố tài sản-nguồn vốn của Công ty các năm 2004-2007 Năm Tài sản Nguồn vốn Tài sản NH Tài sản DH Nguồn vốn NH Nguồn vốn DH Giá trị (trđ) Tỷ trọng Giá trị (trđ) Tỷ trọng Giá trị (trđ) Tỷ trọng Giá trị (trđ) Tỷ trọng 2004 319.627 87% 48.746 13% 254.731 69% 113.642 31% 2005 345.053 90% 39.926 10% 294.979 77% 90.000 23% 2006 226.593 86% 36.510 14% 179.613 68% 83.490 32% 2007 389.821 93% 30.187 7% 319.440 76% 100.569 24% Nguồn: Bảng cân đối kế toán của Công ty các năm 2004-2007 Do đặc thù kinh doanh thương mại nên tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn so với tài sản dài hạn trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Nhìn chung, tài sản dài hạn được tài trợ hoàn toàn bằng nguồn vốn dài hạn; tài sản ngắn hạn được tài trợ chủ yếu bằng nguồn vốn ngắn hạn và một phần bằng nguồn vốn dài hạn. Tỷ trọng tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản qua 4 năm đều lớn hơn tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn trên tổng nguồn vốn, điều này chứng tỏ tài sản lưu động đủ đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cho doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn có xu hướng chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng giá trị tài sản (tỷ lệ này qua các năm 2004, 2005, 2006, 2007 lần lượt là: 87%, 90%, 86%, 93%). Điều này cho thấy cơ cấu vốn thay đổi theo hướng hợp lý hơn qua các năm và phù hợp với đặc điểm kinh doanh thương mại của công ty. Tuy nhiên, nếu phải thu khách hàng và hàng tồn kho chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng tài sản ngắn hạn và chậm luân chuyển sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản, cụ thể là khả năng thanh toán, làm giảm vòng quay vốn lưu động nói riêng và vòng quay vốn kinh doanh nói chung (VD: năm 2005, phải thu chiếm 52%, hàng tồn kho chiếm 44% nhưng do thị trường thép năm 2005 biến động mạnh theo hướng bất lợi cho hoạt động kinh doanh nên hàng tồn kho chậm tiêu thụ-giá vốn mua vào cao hơn giá bán gây lỗ khi tiêu thụ; bên cạnh đó công tác thu hồi công nợ chậm và kém hiệu quả làm doanh nghiệp gặp một số khó khăn nhất định trong việc thanh toán các khoản nợ, cụ thể là nợ ngân hàng và nợ nhà cung cấp; đồng thời làm giảm vòng quay vốn lưu động năm 2005 xuống còn 2,31 vòng so với 4,15 vòng trong năm 2004…). Thực tế, xu hướng chuyển dịch tỷ trọng tài sản ngắn hạn (cụ thể là tăng dần) trong năm 2007 là dấu hiệu khá tốt cho thấy việc sử dụng vốn của doanh nghiệp ngày càng hợp lý và hiệu quả hơn. Như vậy, tình hình đảm bảo nguồn vốn của doanh nghiệp khá hợp lý, theo đúng nguyên tắc tài chính. 2.2.4. Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của công ty 2.2.4.1 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Ngành nghề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là kinh doanh sắt thép các loại, vốn lưu động luôn chiếm tỷ trọng lớn trong kết cấu vốn, do vậy nhu cầu về vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh là rất lớn. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những chỉ tiêu quan trọng làm căn cứ đánh giá, tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng tổng vốn của doanh nghiệp. Để đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong thời gian qua, ta xem xét phân tích dưới đây: Bảng 2.7: Cơ cấu vốn đầu tư vào tài sản lưu động (Tài sản ngắn hạn) Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị (Trđ) Tỷ trọng (%) Giá trị (Trđ) Tỷ trọng (%) Giá trị (Trđ) Tỷ trọng (%) Giá trị (Trđ) Tỷ trọng (%) Tiền 18.290 5,7 13.286 3,9 12.765 5,6 9.676 2,5 Các khoản phải thu 182.125 57,0 178.919 51,9 119.528 52,8 140.427 36 Hàng tồn kho 3.123 1,0 151.234 43,8 94.038 41,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần kim khí An Bình.docx
Tài liệu liên quan