Luận văn Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC)

MỤC LỤC

 

Lời mở đầu 1

Chương I 2

Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 2

1.1 Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp 2

1.1.1. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp 2

1.1.2.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp 3

1.1.2.1. Khái niệm vốn 3

1.1.2.2 Phân loại vốn 4

1.1.2.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp 8

1.1 Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 9

1.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 9

1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 11

1.2.2.1. Các chỉ tiêu về cơ cấu vốn 11

1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định 13

1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 14

1.2.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi 16

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 17

1.3.1. Các nhân tố thuộc về phía Nhà nước 17

1.3.2. Các nhân tố thuộc về phía doanh nghiệp 19

1.3.2.1. Loại hình doanh nghiệp 19

1.3.2.2. Cơ cấu vốn và chi phí vốn 20

1.3.2.3. Trình độ lao động 21

1.3.2.4. Hiệu quả huy động vốn của doanh nghiệp 22

1.3.2.5. Nhân tố thị trường 23

1.3.3. Các nhân tố khác 24

Chương II

Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn

tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC 25

2.1. Giới thiệu chung về công ty Dịch vụ và Thương mại TSC 25

2.1.1 Giới thiệu về công ty 25

2.1.2. Đặc điểm kinh doanh của công ty 25

2.1.3. Tình hình kinh doanh của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC trong những năm gần đây 27

2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC 29

2.2.1. Thực trạng vốn của công ty 29

2.2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty TSC 39

2.2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn 39

 

 

docx77 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1806 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho Phòng Thương mại mỗi năm khoảng 200 triệu đồng. * Thu nhập và tích luỹ công ty Lương bình quân 1 tháng 1 lao động năm sau cao hơn so với năm trước chứng tỏ đời sống của cán bộ công nhân viên đang được nâng cao. Lương bình quân tháng 1 nhân viên năm 2001 là 1,3 triệu đồng ; năm 2002 là 1,65 triệu đồng tăng 128% năm 2001. Lợi nhuận của công ty cũng tăng qua các năm, năm 2001 lợi nhuận sau thuế đạt 404,5 triệu đồng, năm 2002 đạt 578 triệu đồng, tăng 143% so với năm 2001. Nhờ làm ăn có lãi, hàng năm công ty đã tích cực bổ sung nguồn vốn cho công ty cũng như tích cực đầu tư mua sắm tài sản cố định phục vụ kinh doanh. Năm 2002 công ty đã mua sắm trang bị thêm nhiều phương tiện làm việc cho CBCNV và bổ sung nguồn vốn bằng 1 ô tô trị giá trên 300 triệu đồng. 2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC 2.2.1. Thực trạng vốn của công ty Công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC) là một doanh nghiệp hạch toán độc lập, trực thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, do Phòng Thương mại trực tiếp quản lý và đầu tư 100% vốn. Do vậy, vốn của công ty cũng giống như mọi doanh nghiệp khác trong nước đều được huy động từ hai nguồn là nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Điều khác là, 100% vốn chủ sở hữu ở thời điểm ban đầu khi thành lập công ty là do Phòng Thương mại cấp (4 tỷ đồng). Song do quá trình phát triển, hoạt động của công ty ngày càng mở rộng, số vốn được cấp không thể đủ cho công ty có thể kinh doanh được. Do vậy, để phục vụ quá trình kinh doanh của mình công ty đã chủ động vay một khối lượng vốn lớn từ các cá nhân, tổ chức, Ngân hàng trong và ngoài nước. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ chức có uy tín ở trong và ngoài nước nên việc vay vốn của công ty rất thuận lợi, đây là một nhân tố rất quan trọng giúp cho công ty có thể sử dụng tỷ lệ nợ cao, có thể chiếm dụng được lượng vốn khá lớn để kinh doanh. Tình hình vốn của công ty được thể hiện qua biểu 2 – Nguồn huy động vốn của công ty Biểu 2: Nguồn huy động vốn của công ty Đơn vị: Triệu đồng Nguồn vốn 2000 2001 2002 A. Nợ phải trả 8.836 14.475 14.358 I. Nợ ngắn hạn 8.575 14.386 14.199 1. Vay ngắn hạn 305 91 356 2. Phải trả người bán 1.869 1.121 3.967 3. Người mua trả tiền trước 128 693 573 4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 384 - 79 - 41 5.Phải trả cho các đơn vị nội bộ 2.475 8.063 6.264 6. Các khoản phải trả phải nộp khác 3.414 4.498 3.080 II. Nợ khác 261 89 159 1. Chi phí phải trả 261 89 159 B. Nguồn vốn chủ sở hữu 6.257 6.270 6.743 1. Nguồn vốn kinh doanh 5.900 5.899 6.399 2. Chênh lệch tỷ giá 2 1 19 3. Lãi chưa phân phối 38 71 104 5. Quỹ dự phòng tài chính 27 30 30 6. Quỹ phát triển kinh doanh 234 247 247 7. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm 14 11 9 8. Quỹ khen thưởng phúc lợi 44 11 - 65 Tổng nguồn vốn 15.093 20.745 21.101 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán công ty TSC ngày 31/12 năm 2000, 2001, 2002). Số liệu ở biểu cho thấy: Tổng nguồn vốn huy động được của công ty, cũng là tổng số vốn mà công ty có thể sử dụng, liên tục có sự tăng trưởng nhưng không đều qua các năm. Năm 2001 so với năm 2000, tổng nguồn vốn tăng khá lớn khoảng 5,6 tỷ đồng (37%). Trong khi đó, năm 2002 so với năm 2001 tổng nguồn vốn tăng rất ít chỉ 0,4 tỷ đồng (1,9%). Nguyên nhân của sự tăng không đồng đều này là do bước vào năm 2001 công ty đã chủ trương mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá không những duy trì được những thị trường truyền thống như Nhật Bản, Tiệp Khắc, Hồng Kông, Sinhgapore, mà còn mở rộng được sang các thị trường mới, nhiều tiềm năng như Trung Quốc, Australia. Do việc mở rộng thị trường, đòi hỏi công ty cũng phải có thêm các nguồn hàng, các chi phí mới phát sinh do đó công ty đã phải đầu tư thêm một lượng vốn lớn. Bên cạnh đó, công tác xúc tiến thương mại do việc được cấp lại giấy phép lữ hành quốc tế nên đã đẩy mạnh tổ chức đưa các đoàn Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, Khảo sát thị trường, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài, đồng thời tổ chức đón rất nhiều đoàn khách vào tham quan khảo sát thị trường Việt Nam. Do đó, việc tăng vốn đầu tư vào công tác xúc tiến thương mại cũng đòi hỏi một lượng vốn lớn. Qua năm 2002, khi các thị trường đã ổn định, lượng vốn đầu tư đã đáp ứng nhu cầu sử dụng thì lượng vốn tăng thêm là không đáng kể. Tổng nguồn vốn tăng lên được giải thích bởi sự tăng giảm của hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. * NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU Không có nhiều điều để nói về nguồn vốn chủ sở hữu của công ty. Thực vậy, nguồn vốn chủ sở hữu qua ba năm hầu như không có sự thay đổi về lượng. Từ lượng vốn là 4 tỷ đồng được cấp bởi Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam ở ngày đầu thành lập công ty, đến nay công ty phát triển nó thành 6,7 tỷ đồng. Lượng vốn tăng thêm chủ yếu được tích luỹ qua các năm làm ăn có lãi, công ty đã giữ lại một phần lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng công ty. Mặc dù không có sự thay đổi đáng kể nào về lượng nhưng xét về tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn thì lại có sự thay đổi đáng kể. Năm 2000 vốn chủ sở hữu của công ty chiếm tới 41% trong tổng số nguồn vốn của công ty nhưng bước sang năm 2001 nó chỉ còn chiếm 30% và năm 2002 cũng chỉ là 32%. Sở dĩ có sự sụt giảm như vậy, là do trong năm 2001, do yêu cầu của việc mở rộng kinh doanh hàng hoá, dịch vụ công ty đã chủ động tăng thêm vốn đầu tư như đã nói ở trên. Nhưng vốn đầu tư vào mở rộng kinh doanh chủ yếu được huy động từ các khoản vay ngắn hạn và từ việc chiếm dụng vốn, chứ không tăng thêm vốn chủ sở hữu. Bước sang năm 2002, công ty do làm ăn có lãi nên đã bổ sung nguồn vốn kinh doanh thêm 500 triệu, do đó tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn có tăng thêm 2%. Để thấy rõ hơn tình hình vốn chủ sở hữu của công ty, ta phân tích cụ thể từng bộ phận của vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được hình thành từ các bộ phận chủ yếu là nguồn vốn kinh doanh, lãi chưa phân phối và các quỹ. Nguồn vốn kinh doanh trong hai năm 2000 và 2001 không có sự thay đổi, nhưng sang năm 2002, nguồn vốn kinh doanh được bổ sung thêm 500 triệu từ lợi nhuận của công ty. Đây chính là nguyên nhân chính làm tăng tỷ trọng của vốn chủ sở hữu. Phần lãi chưa phân phối của công ty đều tăng qua các năm nhưng số lãi này không lớn, năm 2002 cao nhất mới đạt 103 triệu đồng.Tuy vậy, sự tăng này cũng ảnh hưởng tới tỷ trọng vốn chủ sở hữu nhưng là rất nhỏ. Các nguồn quỹ của doanh nghiệp như quỹ phát triển kinh doanh, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm được công ty duy trì ổn định qua các năm. Đây là điều tốt, bởi nó sẽ giúp công ty ổn định được nếu gặp những rủi ro trong kinh doanh và cũng đáp ứng nhu cầu thanh toán khi cần thiết. Riêng quỹ khen thưởng, phúc lợi lại có xu hướng giảm, thậm chí đạt con số âm vào năm 2002 trên bảng cân đối kế toán. Thoạt nhìn, có thể cho rằng công ty không chú trọng tới việc khen thưởng cũng như các chương trình phúc lợi của công ty nhưng trái lại sự sụt giảm hay con số âm không đủ để khẳng định được điều đó. Trong các năm qua, do công ty ăn có hiệu quả là cũng một phần do công ty đã biết khuyến khích, khen thưởng kịp thời cán bộ công nhân viên, do quỹ khen thưởng không đủ đáp ứng nhu cầu chi nên công ty đã phải sử dụng cả lãi chưa phân phối. Tuy vậy, việc duy trì một quỹ khen thưởng, phúc lợi đủ lớn sẽ giúp công ty có thể chủ động trong việc sử dụng hơn. Đây là một vấn đề công ty cần chú ý trong thời gian tới. * NỢ PHẢI TRẢ Một điều dễ nhận thấy trong các khoản nợ của công ty là công ty không hề sử dụng các khoản vay dài hạn. Các khoản nợ của công ty chủ yếu bắt nguồn từ vay ngắn hạn và các khoản phải trả. Như vậy toàn bộ các tài sản thường xuyên và một phần tài sản không thường xuyên của công ty được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, phần tài sản không thường xuyên còn lại được tài trợ bằng việc sử dụng nợ. Biểu 3: Các hệ số nợ của công ty TSC Các hệ số 2000 2001 2002 01/00 02/01 Hệ số nợ tổng vốn 0,59 0,70 0,68 0,11 - 0,02 Hệ số nợ vốn chủ sở hữu 1,41 2,31 2,13 0,9 - 0,18 Hệ số cơ cấu nguồn vốn 0,41 0,30 0,32 - 0,11 0,02 (Nguồn: Phòng - tài chính kế toán) Qua biểu 3 có thể dễ dàng nhận xét về cơ cấu nguồn vốn của công ty. Với hệ số nợ trên tổng nguồn vốn cao và có xu hướng tăng cùng với sự tăng nguồn vốn cho thấy việc công ty mở rộng kinh doanh hoàn toàn dựa vào việc sử dụng nợ. Mặt khác, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu quá cao đồng thời với việc tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn thấp và có xu hướng giảm chứng tỏ khả năng tự chủ về tài chính của công ty còn rất thấp. Để nghiên cứu kỹ hơn về các khoản nợ của công ty ta quan sát biểu 4. Biểu 4: Nợ phải trả của công ty TSC Đơn vị: triệu đồng Nợ phải trả 2000 2001 2002 I. Nợ ngắn hạn 8.574 14.386 14.1989 1. Vay ngắn hạn 305 91 356 2. Phải trả người bán 1.869 1.121 3.967 3. Người mua trả tiền trước 128 693 573 4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 384 - 79 - 41 5.Phải trả cho các đơn vị nội bộ 2.474 8.062 6.264 6. Các khoản phải trả phải nộp khác 3.414 4.498 3.080 II. Nợ khác 261 89 159 1. Chi phí phải trả 261 89 159 Tổng số 8.835 14.475 14.358 (Nguồn: Phòng tài chính – kế toán) Số liệu ở biểu 3 cho thấy tỷ lệ nợ của công ty khá cao nhưng tỷ lệ vay ngắn hạn Ngân hàng lại rất thấp (cao nhất cũng chỉ chiếm khoảng 3%). Như vậy nợ của công ty chủ yếu nằm trong các khoản phải trả. Đây là một điều rất tốt đối với mỗi doanh nghiệp bởi lượng vốn chiếm dụng được nhiều, mà lượng vốn này hầu như không có chi phí, do đó lợi nhuận kiếm được không lo phải trả lãi vay. Việc công ty sử dụng tỷ lệ nợ cao là xuất phát từ nhiều nguyên nhân: - Trước hết, do công ty TSC là một công ty trực thuộc Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, vốn của công ty do Phòng Thương mại cấp. Nhưng lượng vốn được cấp ban đầu không thể đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh. Mặt khác, phạm vi hoạt động kinh doanh rộng cả trong và ngoài nước, thực hiện nhiều chức năng hay nghiệp vụ kinh doanh do đó đòi hỏi phải có một lượng vốn đủ lớn. Vì vậy, nhu cầu sử dụng nợ của công ty là điều tất yếu. Nhờ uy tín của Phòng Thương mại, nên việc sử dụng nợ của công ty tỏ ra rất thuận lợi, việc vay vốn Ngân hàng rất dễ dàng, và nhất là việc mua bán chịu của công ty đối với các công ty trong nước nhất là các công ty cùng trực thuộc sự quản lý của Phòng Thương mại không gặp khó khăn gì. Do có những thuận lợi như vậy nên công ty có thể sử dụng tỷ trọng nợ rất cao, và có thể còn cao hơn trong thời gian tới. - Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của công ty. Công ty TSC là công ty thương mại và dịch vụ nhưng trong mọi hoạt động của công ty tính thương mại rất ít mà hầu như công ty chỉ làm dịch vụ. Ví dụ, trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá: việc nhập khẩu một hàng hoá nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của công ty mà đều do các công ty trong nước đặt hàng, đặt tiền cho công ty, sau đó công ty mới mua hàng hoá ở nước ngoài để nhập về. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá cũng vậy, các công ty trong nước có hàng cần xuất khẩu trong khi công ty lại có thị trường ở nước ngoài, do đó công ty cứ việc lấy hàng xuất bán thu tiền sau đó mới thanh toán với phía trong nước. Tuy cũng có lúc công ty phải đặt cọc để giữ mối hàng nhưng lượng đặt cọc cũng không lớn nên không phát sinh những khoản chi bất thường lớn. Những khoản vay ngắn hạn Ngân hàng chính là nhằm đáp ứng cho những nhu cầu bất thường này. Tuy việc sử dụng nợ có chi phí thấp, nhưng rủi ro từ nợ cũng không phải là ít. Điều gì sẽ xảy ra đối với công ty khi các khoản nợ đến hạn thanh toán mà các khoản phải thu chưa đòi được hoặc không đòi được. Hoặc giả dụ, khi công ty không thể huy động được nợ do các bạn hàng không đồng ý bán chịu, hoặc lãi suất vay nợ quá cao thì công việc kinh doanh nhất định sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, trong thời gian tới công ty cần có kế hoạch cơ cấu lại nguồn vốn cho phù hợp. Bên cạnh sử dụng nợ, công ty cũng có thể tự tích luỹ nội bộ để có thể có một lượng vốn chủ sở hữu lớn hơn để đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Như vậy, điều kiện tiền đề để công ty có thể hoạt động sản xuất kinh doanh là vốn đã có nguồn tài trợ. Nhưng vấn đề là lượng vốn đó được sử dụng đầu tư vào đâu cho có hiệu quả mới là điều thực sự đáng quan tâm hơn. Để có cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty, việc xem xét tình hình phân bổ vốn của công ty là việc làm cần thiết. Như đã biết, doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư vào tài sản, như vậy cơ cấu tài sản cũng phản sánh cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong biểu 5: Cơ cấu sử dụng vốn của công ty TSC. Biểu 5: Thực trạng sử dụng vốn của công ty TSC Đơn vị: triệu đồng Tài sản 2000 2001 2002 A. TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ ĐẦU TƯ NGẮN HẠN 13.696 19.812 20.305 I. TIỀN 1.070 819 2.451 1. Tiền mặt tại quỹ (kể cả ngân phiếu) 609 71 514 2. Tiền gửi Ngân hàng 461 737 1.932 3. Tiền đang chuyển 12 4 II. CÁC KHOẢN PHẢI THU 9.447 9.265 12.227 1. Phải thu của khách hàng 724 424 808 2. Trả trước cho người bán 60 53 418 3. Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ 253 332 402 4. Phải thu nội bộ 4.083 2.213 3.889 5. Các khoản phải thu khác 4.327 6.243 6.711 III. HÀNG TỒN KHO 1.210 6.405 4.705 1. Nguyên liệu, vật liệu tồn kho 175 2. Công cụ dụng cụ trong kho 10 40 32 3. Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang 72 4. Hàng hoá tồn kho 1.200 6.365 4.426 IV. TÀI SẢN LƯU ĐỘNG KHÁC 1.969 3.323 923 1. Tạm ứng 1.598 2.897 283 2. Chi phí trả trước 268 12 12 3. Chi phí chờ kết toán 102 413 170 4. Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn 1 1 458 B. TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ ĐẦU TƯ DÀI HẠN 1.397 933 796 I. Tài sản cố định 818 354 214 1. TSCĐ hữu hình 818 354 214 - Nguyên giá 5.365 2.827 2.578 - Giá trị hao mòn luỹ kế (*) -4.547 -2.473 -2.364 II. CÁC KHOẢN ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DÀI HẠN 60 60 60 1. Góp vốn liên doanh 60 60 60 IV. CÁC KHOẢN KÝ QUỸ, KÝ CƯỢC DÀI HẠN 519 520 522 Tổng cộng tài sản 15.093 20.745 21.101 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán ngày 31/12 năm 2000, 2001, 2002). Công ty sử dụng vốn không ngoài mục đích đầu tư vào TSLĐ (vốn lưu động) hoặc TSCĐ (vốn cố định). Số liệu trên bảng cân đối kế toán của công ty cho thấy, vốn lưu động của công ty luôn chiếm tỷ lệ rất cao (luôn trên 90% tổng vốn, thậm chí các năm 2001, 2002 còn chiếm tới 96%). BIỂU 6: CƠ CẤU VỐN CỦA CÔNG TY TSC Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Vốn lưu động 13.696 91 19.812 96 20.305 96 Vốn cố định 1.397 9 933 4 796 4 Tổng vốn 15.093 100 20.745 100 21.101 100 (Nguồn: Phòng tài chính – kế toán) Tỷ lệ vốn lưu động cao như vậy phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của một công ty thương mại và dịch vụ, lấy việc mua đi bán lại hàng hoá dịch vụ làm công cụ kiếm lời. Vốn cố định của công ty hay vốn mà công ty đầu tư vào tài sản cố định là không lớn. Do đặc thù là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thương mại và dịch vụ nên tỷ trọng vốn cố định thường thấp (tỷ trọng vốn cố định của công ty thường xuyên dưới 10%). Trong khi nghiên cứu về nguồn hình thành vốn của công ty, ta thấy có sự tăng đột biến về tổng nguồn vốn ở năm 2001, và ổn định vào năm 2002. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là do năm 2001, công ty sử dụng thêm 5,6 tỷ đồng để đầu tư vào kinh doanh, tăng thêm 30% so với cùng kỳ năm trước. Sự tăng đột biến trong sử dụng vốn này xuất phát từ nhu cầu mở rộng thêm việc kinh doanh hàng hoá cũng như mở thêm những dịch vụ mới.Vậy lượng vốn tăng thêm của công ty được sử dụng đầu tư vào đâu ? Việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty sẽ trả lời cho câu hỏi đó. 2.2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty TSC 2.2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn Mục tiêu của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản, tối đa hoá lợi nhuận, vì thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng phải nhằm mục tiêu ấy. Để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn ta có thể xem xét một số chỉ tiêu: Biểu 11: Hiệu quả sử dụng vốn của công ty TSC Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 1. Doanh thu thuần Triệu 58.186 69.816 97.498 2. Lợi nhuận sau thuế ’’ 241,5 404,5 578 3. Tổng vốn bình quân ’’ 15.093 20.745 21.101 4. Vốn chủ sở hữu ’’ 6.257 6.269 6.743 Các hệ số Lần Hiệu suất sử dụng vốn (1/3) ’’ 3,855 3,365 4,621 Tỷ suất sinh lợi tổng vốn (2/3) ’’ 0,016 0,019 0,027 Hệ số sinh lợi doanh thu (2/1) ’’ 0,004 0,006 0,006 Hệ số sinh lợi VCSH (2/4) ’’ 0,038 0,064 0,085 (Nguồn: Phòng tài chính – kế toán) Hiệu suất sử dụng vốn phản ánh cứ một đồng vốn doanh nghiệp bỏ ra kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn của công ty năm 2000 là 3,855 năm 2001 giảm xuống còn 3,365 nhưng năm 2002 đã tăng khá mạnh đạt 4,621. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn của công ty chưa ổn định, trong thời gian tới công ty cần chú trọng vấn đề này. Tỷ suất sinh lợi tổng vốn phản ánh một đồng vốn bỏ ra trong kỳ có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Khả năng sinh lợi của tổng vốn khá thấp nhưng hiện đang tăng dần qua các năm; năm 2000 là 0,016; năm 2001 là 0,019; năm 2002 tăng lên 0,027. Tỷ suất sinh lợi tăng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của công ty ngày một tốt hơn. Hệ số sinh lợi doanh thu phản ánh trong một đồng doanh thu thuần của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trong các năm qua hệ số này hơi thấp, nhưng đang có xu hướng tăng tuy chưa đáng kể. Đây là một dấu hiệu tốt đối với tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp. Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra kinh doanh trong kỳ thì có thể thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu cũng tăng liên tục trong ba năm chứng tỏ chi phí cho việc sử dụng vốn chủ sở hữu ngày một giảm. Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu ngày một tăng mở ra cho công ty một triển vọng đầu tư mở rộng việc kinh doanh của mình. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của công ty cho thấy trong những năm qua công tác sử dụng vốn của công ty đã có kết quả khá tốt. Tuy vậy hiệu quả sử dụng vốn của công ty vẫn chưa tương xứng với những điều kiện thuận lợi mà công ty có được. Trong thời gian tới công ty cần tiếp tục chú trọng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn để có thể hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh mà công ty đã đặt ra. 2.2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định Công ty TSC hoạt động trên lĩnh vực thương mại và dịch vụ nhưng công ty chủ yếu là làm dịch vụ, do đó lượng vốn cố định, lượng vốn mà công ty sử dụng để mua sắm TSCĐ, là không nhiều. Vốn đầu tư vào tài sản cố định chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng tài sản của công ty (năm 2000 là 9%, và giảm còn 4% trong hai năm 2001, 2002). Do quy mô của công ty rất nhỏ, hơn nữa lại trực thuộc sự quản lý lý của Phòng Thương mại nên tài sản cố định của công ty được đầu tư rất ít. Những tài sản cố định như đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc hầu như công ty không có. Các trụ sở, văn phòng, kho bãi chứa hàng, công ty đều phải thuê để sử dụng chứ không thuộc sở hữu của công ty. Vốn cố định của công ty chủ yếu đầu tư vào các máy móc, thiết bị văn phòng và phương tiện giao thông vận chuyển. Trong năm 2002, do nhu cầu đòi hỏi của việc mở rộng kinh doanh công ty đã đầu tư thêm một số thiết bị làm việc và một ô tô. Một điều đáng nói về tài sản cố định của công ty đó là giá trị còn lại của các tài sản đó không còn nhiều, thậm chí là rất ít đối với một công ty. Tài sản cố định của công ty hầu hết được đầu tư từ ngày công ty mới thành lập, hầu như đã khấu hao gần hết. Nhiều thiết bị đã trở nên lạc hậu, không còn đáp ứng được nhu cầu sử dụng của công ty. Hàng năm công ty vẫn tiến hành kiểm kê tài sản cố định và lập báo cáo về tình hình tăng giảm tài sản cố định. Biểu 7: Tình hình tăng giảm TSCĐ của công ty Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 1. Nguyên giá - Đầu kỳ 5.826 5.365 2.827 - Tăng trong kỳ 52 96 63 - Giảm trong kỳ 513 2.634 313 - Cuối kỳ 5.365 2.827 2.578 2. Giá trị đã hao mòn - Đầu kỳ 4.839 4.548 2.474 - Tăng trong kỳ 81 384 182 - Giảm trong kỳ 300 2.458 292 - Cuối kỳ 4.458 2.474 2.364 3. Giá trị còn lại - Đầu kỳ 988 818 354 - Cuối kỳ 818 354 214 (Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính năm 2000, 2001, 2002). Số liệu trong bảng cho thấy số giá trị còn lại của tài sản cố định của công ty là rất ít, không đủ để đáp ứng yêu cầu kinh doanh của công ty. Trong thời gian tới để mở rộng quy mô của công ty thì việc đầu tư vào tài sản cố định là một vấn đề rất cấp thiết. Do khả năng về tài chính của công ty có hạn, nên việc đổi mới tài sản cố định rất cần có sự hỗ trợ của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. * Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Trong điều kiện vốn cố định của công ty rất thấp, những tài sản cố định do đó cũng được đầu tư có giới hạn. Nhưng trong khuôn khổ giới hạn về vốn cố định đó, với tinh thần tiết kiệm, tận dụng hết công suất của tài sản cố định vì vậy cũng mang lại hiệu quả nhất định cho công ty. Có thể khái quát về các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty qua bảng sau: Biểu 8: Hiệu quả sử dụng vốn cố định Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 1. Doanh thu thuần Triệu 58.186 69.816 97.498 2. Nguyên giá TSCĐ ’’ 5.365 2.827 2.578 3. VCĐ bình quân ’’ 903 586 284 4. Lợi nhuận sau thuế ’’ 241,5 404,5 578 Các hệ số Hiệu suất sử dụng VCĐ (1/3) Lần 64,4 119,1 343,3 Hiệu suất sử dụng TSCĐ (1/2) ’’ 10,8 24,7 37,8 Tỷ suất sinh lợi VCĐ (4/3) ’’ 0,267 0,690 2,035 Nguồn: Phòng tài chính - kế toán. Qua số liệu được tính trong biểu trên ta thấy: Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định cho biết một đồng vốn cố định bình quân được sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Năm 2000 chỉ số này đạt 64,4 lần; năm 2001 tăng lên 119,1 lần và năm 2002 là 343,3 lần. Sự tăng mạnh của chỉ tiêu này cho thấy hiệu suất sử dụng vốn cố định ngày càng cao, mặc dù lượng vốn không tăng lên mà còn giảm đi. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định cho biết một đồng nguyên giá tài sản cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Do tài sản cố định và vốn cố định có quan hệ chặt chẽ với nhau nên hiệu suất sử dụng tài sản cố định cũng phản ánh phần nào hiệu quả sử dụng vốn cố định. Trong năm 2000, một đồng nguyên giá tài sản cố định của công ty sử dụng vào kinh doanh đem lại 10,8 đồng doanh thu thuần, năm 2001 con số này tăng lên 24,7 và sang năm 2002 là 37,8. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định ngày một tăng cho thấy công ty luôn sử dụng hết công suất các tài sản cố định hiện có, mặc dù lượng tài sản này là không nhiều. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi vốn cố định cho biết một đồng vốn vốn cố định bình quân sử dụng trong kỳ tạo ra cho công ty bao nhiêu đồng lợi nhuận (sau thuế). Tỷ suất sinh lợi vốn cố định của công ty liên tục tăng trong ba năm do lượng vốn cố định sử dụng giảm nhưng lợi nhuận lại tăng đáng kể do đó có thể nói vốn cố định đang được sử dụng có hiệu quả tại công ty TSC. Qua các số liệu và các chỉ tiêu được tính toán trên ta đều thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty là rất cao. Đóng góp của vốn cố định vào doanh thu là rất lớn. Nhưng liệu điều đó có ý nghĩa thực tế không ? Hiệu quả sử dụng vốn cố định nếu chỉ dựa vào việc đánh giá các chỉ tiêu như vậy có thực sự đúng không ?. Đây là một vấn đề cần xem xét. Chỉ quan sát qua các chỉ tiêu ta cũng có sự không bình thường bởi các chỉ tiêu này đều quá lớn, khó mà có doanh nghiệp nào có thể đạt được. Nhưng sự bất bình thường này hoàn toàn có thể lý giải được. Thật vậy, việc các chỉ tiêu này đều vượt xa kết quả mong đợi là do các kết quả kinh doanh không phụ thuộc nhiều lắm vào lượng vốn cố định. Nói cách khác, vốn cố định không thực sự đóng góp nhiều trong việc tạo ra doanh thu hay lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp sản xuất, tài sản cố định đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản lượng, doanh thu và lợi nhuận. Nhưng ngược lại, đối với các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ, nhất là hầu như chỉ làm dịch vụ như công ty TSC, với lượng vốn cố định chỉ chiếm vài phần trăm, thì vai trò tạo ra doanh thu, lợi nhuận lại nằm ở vốn lưu động. Do đó, giữa vốn cố định và các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận có mối liên hệ rất lỏng lẻo. Điều này lý giải tại sao khi tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định lại có sự khác thường như vậy. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định quá lớn chủ yếu là do lượng vốn cố định sử dụng quá nhỏ trong khi kết quả kinh doanh lại lớn chứ không hẳn là do hiệu quả sử dụng vốn cố định cao đến mức như vậy. Mặc dù các chỉ tiêu được tính không phản ánh thực tế sự đóng góp của vốn cố định vào thu nhập của doanh nghiệp nhưng có thể khẳng định qua các chỉ tiêu trên là vốn cố định của công ty đã được sử dụng rất có hiệu quả. Với một lượng vốn cố định rất nhỏ, lượng tài sản cố định được đầu tư có hạn nhưng công ty vẫn có thể hoạt động tốt. Mọi công việc kinh doanh của công ty vẫn được hoạt động trôi chảy mà không hề bị gián đoạn vì một lý do nào của việc thiếu tài sản cố định. Tuy nhiên, việc duy trì một cơ cấu sử dụng mất cân đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC).docx
Tài liệu liên quan