MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
3. Phương pháp nghiên cứu 2
4. Bố cục đề tài 2
CHƯƠNG 1: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 3
1.1. Những vấn đề chung năng lực cạnh tran . 3
1.1.1. Khái niệm và vai trò của cạnh tranh 3
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh 4
1.1.3. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh 5
1.1.4. Các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh 8
1.2. Xây dựng mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp 11
1.2.1. Các phương pháp phân tích năng lực cạnh tranh của ngành 11
1.2.2. Xây dựng mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành 14
1.2.3. Lý thuyết về mô hình SWOT 15
1.3. Vị trí và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 18
1.3.1. Vị trí của ngành Dệt may xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân. 18
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập hội nhập kinh tế quốc tế 20
1.4. Kinh nghiệm một số nước về nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may xuất khẩu . .23
1.4.1. Trung Quốc . .23
1.4.2. Ấn Độ. . .25
1.4.3. Indonexia . .26
CHƯƠNG 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
28
2.1. Thực trạng xuất khẩu của ngành Dệt - May Việt Nam những năm gần đây .28
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt - May Việt Nam 28
2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may theo thị trường .32
2.1.3. Kim ngạch xuất khẩu một số chủng loại hàng Dệt may xuất khẩu Việt Nam 38
2.1.4 Số lượng và quy mô các doanh nghiệp xuất khẩu 39
2.2. Những biện pháp ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam áp dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế .41
2.2.1. Gia tăng tỷ lệ nội địa hóa .41
2.2.2. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .43
2.2.3. Chiến lược phát triển sản phẩm .43
2.2.4. Marketing xuất khẩu hàng dệt may .44
2.3. Phân tích năng lực cạnh tranh ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam dựa theo mô hình Michael Porter .45
2.3.1. Năng lực sản xuất .45
2.3.2. Thị trường tiêu thụ .56
2.3.3. Sự phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành Dệt - May Việt Nam
.60
2.3.4. Môi trường và cơ chế chính sách .61
2.4. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam 62
2.4.1. Những thành công đạt được .62
2.4.2. Những vấn đề tồn tại .63
2.4.3. Đánh giá về năng lực cạnh tranh của ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam dựa theo ma trận SWOT .64
CHƯƠNG 3: Định hướng giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. .66
3.1. Những định hướng và triển vọng phát triển ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam đến năm 2020 .66
3.1.1. Quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2020. 66
3.1.2. Cơ hội và thách thức đối với ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế .70
3.1.3. Triển vọng phát triển ngành Dệt may đến năm 2020 .72
3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam 73
3.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước 73
3.2.2. Giải pháp cho ngành/ doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu 78
Kết luận 85
Danh mục tài liệu tham khảo 86
Phụ lục 87
106 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 6215 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oảng 3 tỷ USD cho giai đoạn từ nay đến năm 2010. Trong đó, vốn đầu tư phát triển nguyên liệu dệt khoảng 180 triệu USD; các dự án dệt nhuộm 2,275 tỷ USD; các dự án may 443 triệu USD; các trung tâm thương mại và nghiên cứu triển khai đào tạo vào khoảng hơn 200 triệu USD. Do vậy, ngành Dệt may cần thu hút mạnh hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp cũng như huy động vốn qua các kênh khác phụ vụ cho chiến lược tăng tỷ lệ nội địa hóa.
2.2.3. Chiến lược phát triển sản phẩm
Các doanh nghiệp Dệt may đang nỗ lực thực hiện sản xuất theo hướng sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt may. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm Dệt may phù hợp và hài hòa với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Đặc biệt là chiến lược xây dựng thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp Việt Nam đang tận dụng tốt lợi thế cạnh tranh nhờ giá, từng bước cải thiện chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu. Nhờ đó, các doanh nghiệp Dệt may đã phát huy tốt năng lực cạnh tranh của mình và có khả năng thích nghi cao trong môi trường cạnh tranh quốc tế.
Khoảng 30% số lượng doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may tại Việt Nam đã được nhiều nhà nhập khẩu biết đến tên doanh nghiệp với nhiều mức độ khác nhau thông qua quan hệ xuất nhập khẩu và đặt hàng thường xuyên, trong đó chỉ có một số rất ít doanh nghiệp Việt Nam được biết rộng rãi trong cộng đồng các nhà nhập khẩu lớn. Và bên cạnh đó, tên nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngòai tại Việt Nam cũng chỉ được các nhà nhập khẩu biết tên thông qua mối quan hệ với công ty mẹ của họ tại nước ngoài.
Ngoại trừ doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu dưới thương hiệu riêng của mình (như Công ty Scavi đang xuất khẩu sản phẩm dưới tên CORENE SCAVI và MAILFIX SCAVI, Công ty May Phương Đông xuất khẩu sản phẩm dưới tên F HOUSE ..); Còn hầu hết đều xuất khẩu sản phẩm dưới nhãn hiệu của nhà nhập khẩu nước ngòai. Có thể nói hoạt động quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường nước ngoài gần như chưa có. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam không đủ năng lực tài chính để quảng bá thương hiệu sản phẩm ra nước ngòai, trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì không quan tâm xây dựng thương hiệu ở Việt Nam mà chủ yếu là sử dụng thương hiệu của công ty mẹ tại nước ngoài.
2.2.4. Tăng cường hoạt động marketing xuất khẩu hàng Dệt may
Marketing xuất khẩu là công cụ quan trọng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và các ngành. Tuy nhiên, khâu marketing sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Dệt may nói riêng là còn yếu và thiếu chuyên nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đã nghiên cứu và áp dụng công cụ marketing có thể kể ra như:
- Phân tích các điều kiện xâm nhập thị trường, bao gồm các yêu cầu bắt buộc về mặt pháp lý và các yêu cầu của thị trường. Các yêu cầu pháp lý bao gồm: các tiêu chuẩn về môi trường, các tiêu chuẩn về an toàn và sức khoẻ cho người tiêu dùng, ví dụ: Các quy định pháp lý về những chất gây nguy hiểm như thuốc nhuộm chứa azo sinh ra chất gây ung thư… Các yêu cầu về thị trường là những rào cản thương mại như: Hệ thống quản lý chất lượng, tiêu chuẩn về môi trường, yêu cầu về đóng gói và nhãn mác…
- Phân tích nội tại của các doanh nghiệp để nhận biết liệu doanh nghiệp có khả năng đáp ứng các yêu cầu của thị trường nhập khẩu như đã nêu ở trên hay không và làm cách nào để có thể đáp ứng các yêu cầu đó.
- Sử dụng công cụ chủ yếu về marketing xuất khẩu hàng Dệt may bao gồm: Hội chợ triển lãm, internet và liên lạc trực tiếp với khách hàng.
2.3. PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM DỰA THEO MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA MICHAEL PORTER
2.3.1 Năng lực sản xuất
Năng lực sản xuất ngành Dệt may xuất khẩu là yếu tố bên trong đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành. Do giới hạn phạm vi của luận văn, tác giả chỉ phân tích các yếu tố chính cấu thành lên năng lực cạnh tranh của ngành là: Khả năng chủ động nguồn nguyên liệu, quy mô và chất lượng nguồn nhân lực, trình độ công nghệ và quy mô sản xuất.
Khả năng chủ động nguồn nguyên liệu của ngành
Có thể khẳng định rằng hiện nay chưa có những số liệu thống nhất về tình hình sản xuất nguyên phụ liệu và nguyên phụ liệu phải nhập khẩu. Nhưng đa số những số liệu thống kê cho rằng ngành Dệt may phải nhập khẩu từ 70% đến 80% nguyên liệu.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê năm 2005, cả nước có 96 doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu, kéo sợi, 35 doanh nghiệp sản xuất phụ trợ, phụ liệu, với năng lực sản xuất một số sản phẩm phụ liệu trong bảng.
Bảng 2.5. Năng lực sản xuất nguyên phụ liệu ngành Dệt may năm 2005
Mặt hàng
Công suất thiết kế
Thực hiện
Tỷ lệ thực hiện
1. Chỉ khâu
3.500 tấn/năm
3.500 tấn/năm
100%
2. Bông tẩm
33 triệu Yard/năm
33 triệu Yard/năm
100%
3. Mếch dựng
12 triệu m2/năm
10 triệu m2/năm
83,3%
4. Cúc nhựa
752 triệu chiếc/năm
650 triệu chiếc/năm
86,4%
5. Khoá kéo
65 triệu một/năm
60 triệu một/năm
92,3%
6. Nhãn
120 triệu chiếc/năm
100 triệu chiếc/năm
83,3%
7. Băng chun
25 triệu một/năm
22 triệu một/năm
88%
Nguồn: Chương trình phát triển công nghiệp phụ trợ phục vụ ngành dệt may, da giày giai đoạn 2006 - 2010 Quảng Nam
Có thể thấy những mặt hàng như chỉ khâu, cúc nhựa hay băng chun là những mặt hàng đơn giản, giá trị gia tăng không cao. Những nguyên phụ liệu chính cho sản xuất xuất khẩu thì hầu như phải nhập khẩu. Ví dụ, như sợi hóa học phải nhập khẩu 100%, bông tổng hợp phải nhập khẩu 93%. Trong khi đó, diện tích trồng bông đang có nguy cơ bị thu hẹp do người nông dân chuyển sang trồng các cây nông nghiệp. Bảng 2.6 dưới đây tổng kết lại nhu cầu và tình hình cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may trong năm 2005.
Bảng 2.6 Tình hình cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may năm 2005
Mặt hàng
Đơn vị
Sản xuất trong nước
Nhập khẩu
Sử dụng
Tỷ lệ nhập khẩu
1. Bông
Nghìn tấn
10,4
136
146,4
93%
2. Xơ sợi hoá học
Nghìn tấn
0
126
126
100%
3. Sợi dệt
nghìn tấn
239
216
455
47,5%
4. Vải
Triệu m2
518
1.512
2.130
71%
5. Chỉ may
nghìn tấn
3,5
1,5
5,0
30%
6. Khoá kéo
Triệu m
60
140
200
70%
7. Mex dựng
Triệu m2
25
40
65
61%
(Nguồn: Chương trình phát triển công nghiệp phụ trợ phục vụ ngành dệt may, da giày giai đoạn 2006 - 2010 Quảng Nam )
Cùng với mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây, tình hình nhập khẩu nguyên phụ liệu đều tăng mạnh, đặc biệt ở mặt hàng vải, tiếp theo là mặt hàng bông và mặt hàng sợi.
Nhập khẩu mặt hàng vải của Việt Nam năm 2007 đạt kim ngạch 3,98 tỷ USD, tăng 33,6% so với năm 2006. Nhập khẩu mặt hàng bông của nước ta năm 2007 tăng 17% về lượng và 22,4% về trị giá so với năm 2006, đạt 212 ngàn tấn với trị giá 268 triệu USD. Và nhập khẩu mặt hàng sợi của Việt Nam năm 2007 tăng nhẹ, tăng 25,4% về lượng và 36,8% về trị giá so với năm 2006, đạt 425 ngàn tấn, trị giá 744 triệu USD. Xem chi tiết về tình hình nhập khẩu nguyên phụ liệu chính của ngành trong phần phụ lục 5, 6, 7
Tóm lại, qua phân tích tình hình nhập khẩu một số nguyên liệu chính của ngành Dệt may Việt Nam ta thấy, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu là rất lớn và ngày càng gia tăng cùng quy mô sản xuất và xuất khẩu. Điều này thể hiện ngành Dệt may Việt Nam chưa chủ động được nguồn nguyên liệu sản xuất, gây ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng của ngành Dệt may của nước ta. Đặc biệt giá cả những nguyên liệu này hiện đang bất ổn định và có chiều hướng tăng giá. Mặt khác, nguồn nhập khẩu nguyên phụ liệu chính (vải, bông, sợi) lại xuất phát từ chính đối thủ cạnh tranh của ta trên thị trường Dệt may thế giới như: Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ… Thực trạng này dẫn đến ngành Dệt may bị phụ thuộc vào chính đối thủ cạnh tranh của mình.
Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong bất cứ một ngành sản xuất hay kinh doanh nào luôn là nhân tố quan trọng nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngành Dệt may không là một ngoại lệ. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng chính là điều kiện then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt - May nước ta, đặc biệt hơn, Dệt may được đánh giá là ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh do tận dụng được nguồn nhân công giá rẻ và có tay nghề.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, lao động của ngành Dệt may Việt Nam không tập trung, trung bình từ năm 2000 đến nay, do có hơn 70% các doanh nghiệp Dệt may là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có số lao động dưới 300 người. Gần 20% doanh nghiệp có số lao động trên 300 người và dưới 1000 người, số doanh nghiệp từ 1000 người trở lên chỉ có 6%. Nguồn lao động trong ngành không tập chung như vậy sẽ rất khó khăn trong việc đào tạo tay nghề công nhân lao động.
Bảng 2.7 Số lượng doanh nghiệp Dệt may theo qui mô lao động
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng số DN
978
1352
1612
1909
2398
Dưới 10 người
62
6%
265
20%
185
11%
229
12%
332
14%
10 – 299 người
624
64%
762
56%
1006
62%
1175
62%
1506
63%
300 – 999 người
213
22%
230
17%
309
19%
375
20%
409
17%
1000 người trở lên
79
8%
95
7%
112
7%
130
7%
151
6%
Nguồn: Niêm giám thống kê các năm
Với hơn 2000 doanh nghiệp Dệt may trong cả nước, trong đó, doanh nghiệp Nhà nước chiếm 0,5%, doanh nghiệp tư nhân và cổ phần chiếm 74,5%, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 25%
Cùng với tốc độ tăng trưởng trong ngành thì lao động trong ngành Dệt may hiện nay tăng nhanh trong tất cả các loại hinh doanh nghiệp và tập trung chủ yếu trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau đó là doanh nghiệp FDI. Hai loại hình doanh nghiệp này hiện nay đang thu hút 2/3 lao động của toàn ngành.( Xem Phụ lục 8 để thấy tốc độ tăng trưởng lao động của ngành)
Do nhu cầu lao động trong ngành Dệt may tăng rất nhanh, khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo không đủ, nên xảy ra tình trạng tranh giành lao động khá gay gắt. Các doanh nghiệp không muốn tự đào tạo lao động vì sợ lao động bỏ việc, chuyển sang doanh nghiệp khác có lương cao hơn. Do đó, lao động trong ngành Dệt may Việt Nam luôn có sự biến động lớn. Tỷ lệ biến động lao động cao nhất thuộc các doanh nghiệp liên doanh, sau đó đến doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nguyên nhân có thể là do loại hình doanh nghiệp này thường có những chính sách cạnh tranh nhau bằng giá nhân công để cắt giảm hoặc bổ xung lao động. Tỷ lệ di chuyển của lao động trong các doanh nghiệp Dệt may luôn ở mức quá cao từ 18 - 27 % (so với tổng số lao động), tỷ lệ tuyển mới (so với tổng số lao động) trên mức 35% đó là những con số đáng báo động, (Xem thêm bảng 2.8 dưới đây và Phụ lục 6.)
Bảng 2.8 Tỷ lệ biến động lao động trong ngành Dệt may
Năm
2002
2003
2004
Tổng số lao động
496154
589246
652689
Tuyển mới trong năm
202671
41%
209514
36%
229168
35%
Giảm trong năm
88828
18%
107858
18%
175851
27%
(Nguồn: Tổng cục thống kê các năm)
Về chất lượng nguồn lao động, theo tỷ lệ định chuẩn của ngành Dệt may, tỷ lệ lao động gián tiếp trên tổng số lao động yêu cầu khoảng 10%. Trong khi đó theo số liệu thống kê cho thấy lao động có trình độ cao đẳng trở lên trong ngành mới chỉ có tỷ lệ dao động từ 3% đến 5%, nghĩa là còn thấp xa so với tiêu chuẩn chung. Điều đó cảnh báo trình độ của cán bộ quản lý của ngành Dệt may Việt Nam còn nhiều bất cập. Dưới đây là bảng cơ cấu lao động theo trình độ lao động
Bảng 2.9. Cơ cấu lao động theo trình độ lao động Đơn vị: (%)
Trình độ lao động
Dệt
May
Trên đại học
0,08
0,01
Cao đẳng, đại học
5,04
4
Trung cấp
4,71
3,5
Kỹ thuật viên
3,34
3,78
Công nhân bậc 5/7
18,82
6,30
LĐ phổ thông
68,01
78,91
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Tóm lại, những phân tích trên đây cho ta một số nhận xét về nguồn nhân lực ngành Dệt may Việt Nam như sau:
Thứ nhất, lực lượng lao động trong ngành Dệt may khá đông đảo, tuy nhiên trình độ học vấn cũng như chất lượng còn nhiều hạn chế;
Thứ hai, nguồn nhân lực bị phân tán do có quá nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, do đó rất khó trong công tác đào tạo lao động;
Thứ ba, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành nguyên nhân là do yếu kém trong công tác đào tạo, yếu kém trong việc quy hoạch đào tạo;
Thứ 4, do tình trạng thiếu hụt lao động nên các doanh nghiệp trong ngành hút lao động bằng giá nhân công gây ra tình trạng biến động lao động toàn ngành.
Tất cả những thực trạng trên đang đe dọa tới năng lực cạnh tranh của toàn ngành. Nếu không có những bước tính cụ thể cho bài toán nguồn nhân lực, thì ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam gặp nhiều bất lợi trong môi trường tự hóa thương mại hiện nay.
2.3.1.3 Quy mô sản xuất và Chi phí sản xuất
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam năm 2007, toàn ngành công nghiệp Dệt may nước ta có 2390 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, tăng 85 doanh nghiệp so với năm 2006. Phần lớn, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng mạnh so với năm 2006. Năm 2007 là năm tăng trưởng đầy ấn tượng của một số doanh nghiệp, trong đó, Tập đoàn Dệt-May Việt Nam có một bước chuyển quan trọng từ tăng về lượng sang hiệu quả kinh tế, tổng doanh thu đạt hơn 22.348 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,452 tỷ USD, lợi nhuận đạt 556 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 15,6% so với mức trung bình từ 10-12% các năm trước. Một số đơn vị đạt được mức tăng trưởng cao như: Tổng công ty Phong Phú, công ty may Việt Tiến, Tổng công ty cổ phần Hoà Thọ, công ty cổ phần Sợi Phú Bài…
Như đã phân tích ở trên, tuy quy mô số lượng doanh nghiệp là lớn nhưng phần lớn là những doanh nghiệp nhỏ và vừa: Chỉ có 4 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, tăng 2 doanh nghiệp so với năm 2006 chiếm 0,167%, 15 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu từ trên 50 triệu USD đến dưới 100 triệu USD, tăng 4 doanh nghiệp so với năm 2006 chiếm 0,625%.
Trong bảng 2.7 cho biết số lượng doanh nghiệp có trên 1000 lao động chỉ trên dưới 100 chiếm khoảng 7% trên tổng số doanh nghiệp. Quy mô sản xuất của toàn ngành sẽ không có ý nghĩa đến năng lực cạnh tranh của ngành nếu chỉ cộng cơ học quy mô doanh nghiệp manh mún, thiếu tính hợp tác thậm chí cạnh tranh lẫn nhau. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành cần chính sự lớn mạnh trong từng doanh nghiệp và khả năng liên kết các doanh nghiệp nhỏ lại với nhau.
Chi phí sản xuất cũng là một khía cạnh thể hiện khả năng sản xuất. Ngành Dệt may xuất khẩu vẫn nhờ cậy nhiều vào chi phí sản xuất thấp nhờ giá nhân công rẻ, nhưng thực chất chi phí sản xuất không có sự khác biệt so với một số đối thủ cạnh tranh chính.
Biểu đồ 2.7. Biểu đồ so sánh chi phí lao động giữa Việt Nam và một số nước (ĐV: Cent USD/giờ công lao động năm 2005)
Nguồn: Dự án VIE/61/94, Trung tâm thương mại Quốc tế và cục XTTM
Theo biểu đồ 2.7, chi phí lao động trong ngành Dệt may của Trung Quốc cao hơn Việt Nam 2,6 lần, Pakistan hơn Việt Nam 1,5 lần và Ấn Độ gấp 1,46 lần. Như vậy, sự chênh lệch chi phí lao động là không quá lớn. Bên cạnh đó các quốc gia khác như Inđônêxia cũng có chi phí lao động tương đương nước ta, thậm chí Campuchi và Bangladesh lại có chi phí lao động thấp hơn Việt Nam. Chính vì vậy ngành Dệt may không nên dựa vào lợi thế giá nhân công rẻ để khẳng định năng lực cạnh tranh của mình.
Theo Trung tâm thương mại quốc tế, chi phí sản xuất khác của Ngành lại ở mức cao so với một số nước khác. Ví dụ, giá vải của Việt Nam thường đắt hơn giá vải Trung Quốc, giá vải KT khổ 45 của Việt Nam có giá khoảng 0,75 USD/ m, khổ 60 có giá khoảng 0,95 USD/m cao hơn Trung Quốc từ 15 đến 20%. Các chi phí dịch vụ cho xuất khẩu, nhất là chi phí vận tải của Việt Nam cũng cao hơn hẳn so với các nước trong khu vực. Đơn cử, giá cước vận chuyển tàu thuỷ của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực như Thái Lan. Giá cước vận chuyển container của Việt Nam đến Yokohama năm 2003 là 1470 USD/tấn trong khi từ Thái Lan là 1304 USD/tấn.
Bảng 2.10. So sánh chi phí sản xuất giữa Việt Nam và Trung Quốc
năm 2006
Chi phí sản xuất
Việt Nam
Trung Quốc
Nước sạch
25 – 30 Cents/m3
13 Cents/m3
Điện
7 Cents/Kwh
4,8 – 6 Cents/kwh
Cơ sở hạ tầng
20 – 60 USD/m2/50 năm
10 – 12 USD/m2/50 năm
Nguồn: Dự án VIE/61/94, Trung tâm thương mại Quốc tế và cục XTTM
Theo bảng 2.10, chi phí cơ bản như điện, nước, giá thuê đất đai đều cao hơn Trung Quốc. Thậm trí giá nguyên liệu sản xuất của Trung Quốc cũng rất rẻ do có sự quy hoạch vùng nguyên liệu rất tốt. Trong cơ cấu giá thành sản phẩm bình quân, nguyên liệu chính cho sản xuất thường chiếm tới 58 đến 65% trong đó Trung Quốc thường thấp hơn từ 10 đến 20% so với Việt Nam
2.3.1.4 Trình độ công nghệ của ngành Dệt may Việt Nam
Do ngành Dệt may Việt Nam có xuất phát điểm thấp so với các nước khác, do công nghiệp phụ trợ ngành Dệt may yếu kém nên hầu như phải sử dụng công nghệ nhập khẩu. Phía nội địa chỉ đáp ứng được những phụ tùng đơn giản. Các công ty cơ khí chuyên ngành sản xuất các phụ tùng, cơ kiện và trang thiết bị phục vụ cho ngành dệt, may chủ yếu là phụ tùng, trang thiết bị nhỏ lẻ như: Máy trải vải, máy kiểm tra vải, máy hút hơi là, máy san chỉ, máy hút chỉ, máy dập cúc, máy cắt vải, hệ thống chiếu sáng, hệ thống làm mát và một số phụ tùng như tủ đựng hồ sơ, ghế ngồi may, kệ để nguyên liệu, xe vận chuyển nội bộ…Còn phụ tùng, cơ kiện cho ngành dệt các doanh nghiệp chủ yếu vẫn phải nhập từ nước ngoài 70 - 80%. Theo số liệu của VITAS năm 2006, tình trạng thiết bị ngành kéo sợi là sử dụng tới 59% là công nghệ cũ và kém. Do đó, chi phí sản xuất cũng như năng xuất, chất lượng không được đảm bảo.
Biểu đồ 2.8. Trình độ trang bị công nghệ ngành Dệt may Việt Nam
năm 2006
Dệt May
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam năm 2006
Như vậy, ngành Dệt sử dụng trung bình 80% công nghệ thấp và trung bình và ngành May là 70% cho thấy mức độ trang bị công nghệ cho sản xuất là kém, nó làm giảm năng lực cạnh tranh nhất là thời đại khoa học công nghệ được coi như là lực lượng sản xuất chủ yếu.
Trong tương lai, các doanh nghiệp Dệt may vẫn phải tiếp tục nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài. Đây là một trở ngại lớn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để nâng cao trình độ công nghệ trong ngành Dệt may Việt Nam nhất thiết cần thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đặc biệt là những công nghệ cho sản xuất nguyên phụ liệu và máy móc cho ngành
Thị trường tiêu thụ
Phân tích thị trường tiêu thụ là một tiêu chí đánh giá tốt về năng lực cạnh tranh. Trong bảng 2.2 cho thấy sản phẩm hàng Dệt may thâm nhập nhiều thị trường khác nhau trên khắp thế giới, trong đó liệt kê 23 thị trường xuất khẩu lớn nhất nhưng khối lượng xuất khẩu lại tập trung vào 3 thị trường Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Tuy nhiên, đây chưa chắc đã là những dấu hiệu tốt vì sẽ ẩn chứa những rủi ro nếu thị trường này thay đổi chính sách nhập khẩu đột ngột. Do đó tăng cường xuất khẩu sang nhiều thị trường khác như Nam Phi, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ… lại là chính sách hay vì không những giảm áp lực cạnh tranh lại vừa gia tăng nhanh chóng kim ngạch và tận dụng được ưu đãi của bên nhập khẩu. Dưới đây là những đánh giá về năng lực cạnh tranh trên 3 thị trường lớn:
Thị trường Hoa Kỳ:
Về mặt thuận lợi, Theo Phòng thương mại Hoa Kỳ (US Commerce Department), kim ngạch hàng Dệt may xuất sang Hoa Kỳ tăng mạnh trong năm 2007 là do Hoa Kỳ xóa bỏ hạn ngạch từ đầu năm 2007, tăng 35,2% về giá trị (Trung Quốc tăng trưởng 22,8% năm 2007), đạt 4,36 tỉ USD, đứng vị trí thứ 3 sau Trung Quốc và Mêhicô. Việc nguy cơ Hoa Kỳ kiện chống bán phá giá hàng Dệt may hầu như không có. Tổng giá trị nhập khẩu Dệt may vào Hoa Kỳ năm 2007 là 73,5 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc là 22,7 tỷ USD chiếm 30,8%. Việt Nam và Mêhicô chiếm thị phần gần như nhau, kim ngạch xuất khẩu của Mêhicô là 4,52 tỷ USD chiếm 6,15%, còn Việt Nam là 4,36 tỷ USD chiếm 5,93%. Tuy nhiên, Kim ngạch xuất khẩu của Mêhicô lại giảm 14,61% tạo thuận lợi cho Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ. Xuất khẩu tăng mạnh ở cả hai cat hàng may mặc làm từ bông và xơ nhân tạo sau khi các nhà xuất khẩu Việt Nam giảm giá đáng kể hai mặt hàng này cụ thể là 17% thị phần ở cat 634 (các loại áo khoác làm từ xơ nhân tạo dành cho đàn ông và bé trai), 33% ở cat 644 (quần áo vet làm từ xơ nhân tạo dành cho phụ nữ và bé gái. Nhờ việc Hoa Kỳ vẫn áp hạn ngạch đối với hàng Trung Quốc, nên hàng Việt Nam còn tăng mạnh ở các cat 338/339 (sơ mi dệt kim bông) hoặc 347/348 (quần bông). Việt Nam thực sự có được lợi thế từ việc chi phí sản xuất trong nước thấp, điều này cho phép Việt Nam cạnh tranh với Trung Quốc trên phân đoạn thị trường hàng giá rẻ, và rõ ràng hơn nữa là cạnh tranh với Bangladesh và Indonesia. Tuy nhiên, chi phí sản xuất tại Trung Quốc ngày càng tăng và đang gặp nhiều bất lợi về vấn đề tỷ giá giữa đồng Nhân dân tệ so với đô la Hoa Kỳ. Do đó, áp lực cạnh tranh của Trung Quốc trên thị trường Hoa Kỳ được xoa dịu một phần.
Về mặt khó khăn, tuy Hoa Kỳ đã xóa bỏ hạn ngạch cho hàng Dệt may Việt Nam nhưng hiện tại Hoa Kỳ vẫn tiếp tục “Chương trình giám sát hàng Dệt may nhập khẩu từ Việt Nam” đến hết năm 2008. Mặc dù Việt Nam là nước xuất khẩu hàng may mặc tính bằng USD lớn thứ ba sau Trung Quốc và Mexico, nhưng thị phần của Việt Nam trên thị trường hàng may mặc nhập khẩu Hoa Kỳ chỉ chiếm 5,9% (4,36 tỷ USD) so với thị phần Trung Quốc là 31% (trên 22 tỷ USD) trong năm 2007. Mặc dù Hoa Kỳ vẫn áp hạn ngạch đối với những cat hàng quan trọng nhất của Trung Quốc nhưng thị phần của Trung Quốc trên thị trường hàng may mặc nhập khẩu Hoa Kỳ đã tăng nhảy vọt từ 14% năm 2004 lên 31% năm 2007.
Tóm lại, trên thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam – thị trường Hoa Kỳ, năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu của Việt Nam là khá tốt với kim ngạch hàng năm tăng trưởng đều đặn và có nhiều lợi thế so với đối thủ lớn đặc biệt là Trung Quốc.
Thị Trường EU
Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Dệt may sang EU là 19,74%, thấp hơn so với mức 37,46% của năm 2006 nên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang EU giảm từ 21,32% của năm 2006 xuống 19,14% trong năm 2007. Cũng trong năm 2007, EU xóa bỏ hạn ngạch với hàng Dệt may Trung Quốc, rõ ràng xuất khẩu sang EU của Trung Quốc sẽ th uận lợi hơn rất nhiều. Không chỉ đối thủ đến từ Trung Quốc, Hàng hóa Việt Nam còn bị cạnh tranh gay gắt bởi các cường quốc dệt may khác như: Ấn Độ, Bangladesh, Inđônêxia… Dưới đây là bảng so sánh kim ngạch xuất khẩu của một số quốc gia trên thị trường EU
Bảng 2.11: So sánh kim ngạch xuất khẩu của một số nước trên thị trường EU ( Đơn vị: Triệu USD ), (KN: Kim ngạch; TP: Thị phần)
Năm
Việt Nam
Trung Quốc
Ấn Độ
Bangladesh
KN
TP
KN
TP
KN
TP
KN
TP
2003
537,1
0,6
9.980,4
12,2
2.355,9
3,0
3.101,5
3,4
2004
760
0,7
11.483,3
12,9
2.478,3
2,9
3.477,9
3,8
2005
882,8
0,7
16.855,6
18
3.232,8
3,4
3.529,6
3,8
Nguồn: Eucostat.comext
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường EU của Việt Nam tăng trưởng nhanh những năm gần đây nhưng thị phần trên thị trường này vẫn chưa được cải thiện với con số chưa đầy 1% mỗi năm. Nếu so sánh với Trung Quốc thì thị phần của họ hơn ta 25,7 lần năm 2005. Ngoài ra, Bangladesh cũng là đối thủ lớn của Việt Nam khi thị phần của nó luôn ổn định ở mức trung bình 3,8% năm gấp 5,4 lần nước ta. Rõ ràng, những con số chênh lệch về thị phần so với Trung Quốc, Ấn Độ và Bangladesh thì ngành Dệt may xuất khẩu của nước ta còn thua xa.
Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2008, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU đang khá thuận lợi. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU trong hai tháng đầu năm đạt 240 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm ngoái. Tăng trưởng xuất khẩu mạnh trên các thị trường như: Anh tăng 34%, Pháp tăng 27%, Tây Ban Nha tăng 25%, Bỉ tăng 42%, Italia tăng 32%
- Thị trường Nhật Bản
Thị trường nhập khẩu sản phẩm dệt may của Nhật Bản rất lớn. Đứng đầu là Trung Quốc với tỷ trọng 73,6%, tiếp đến là EU 8,1%, Hoa Kỳ 2,5%, Đài Loan 1,3%, ASEAN chiếm 7,5% và Việt Nam hiện là đối tác lớn nhất của Nhật Bản trong khối ASEAN với lượng hàng dệt may xuất khẩu chiếm 34,4% trong khối. Một trong những yêu cầu của Nhật Bản trong đàm phán về Hiệp định Đối tác kinh tế với Việt Nam – EPA (dự kiến kết thúc vào cuối năm 2008 và có hiệu lực ngay sau đó) là hàng dệt may Việt Nam xuất sang Nhật Bản phải đạt tiêu chí xuất xứ “hai công đoạn”.
Trong khi 6 nước ASEAN khác (Singapore, Malaysia, Philippines, Brunei, Indonesia, Thái Lan) được miễn thuế hoàn toàn do đáp ứng được tiêu chí xuất xứ "hai công đoạn" thì thuế xuất của Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản vẫn phải chịu 10 do nguồn nguyên liệu của Việt Nam là trên 80% nhập khẩu ngoài Nhật Bản và ASEAN. Đạt được tiêu chí xuất xứ “hai công đoạn” này Việt Nam sẽ có thuận lợi là: Dễ dàng đáp ứng tiêu chí khác của Nhật Bản; Có lợi thế so với Trung Quốc do Trung Quốc không được giảm thuế; và tăng cường sự hợp tác nội khối ASEAN.
Các chuyên gia thương mại cũng đưa ra giả thiết rằng, khi EPA có hiệu lực, giả dụ trong trường hợp 10% kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của Trung quốc được thay thế bằng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản, thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng quần áo dệt kim Việt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Dệt may xuất khẩu VN trong điều kiện hội nhập kinh tế.DOC