Luận văn Nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh An Giang trong công cuộc đổi mới hiện nay

Mục lục

Trang

Mở đầu 1

Chương 1. Trí thức và vai trò của trí thức nước ta trong sự nghiệp đổi mới 6

1.1. Trí thức và lao động sáng tạo của trí thức 6

1.2. Trí thức nước ta trong sự nghiệp đổi mới 13

Chương 2. Thực trạng đội ngũ trí thức An Giang và vai trò của

họ trong giai đoạn hiện nay 23

2.1. An Giang đất nước con người 23

2.2. Thực trạng của đội ngũ trí thức An Giang 27

2.3. Những đóng góp quan trọng của trí thức An Giang cho sự nghiệp phát triển của tỉnh 32

Chương 3. Bước phát triển mới của tỉnh An Giang từ 1996 ư 2010 và

những giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa vai trò đội ngũ trí thức của tỉnh 45

3.1. Bước phát triển mới của tỉnh An Giang từ 1996 ư 2010 45

3.2. Những giải pháp chủ yếu để trí thức An Giang tiếp tục phát huy

tốt vai trò của mình trong công cuộc đổi mới của tỉnh 54

Kết luận 75

Phụ lục 78

Danh mục Tài liệu tham khảo 84

 

pdf92 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2155 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh An Giang trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
l−ợng 1995: 518 tấn; 1997: 714 tấn. Ngoài ra các loại cây hoa màu, cây thực phẩm đều tăng [16, 67]. Riêng nghề nuôi cá bè, mỗi năm đ−a ra thị tr−ờng trên 8000 tấn, trong đó có 4000 tấn xuất khẩu (cá Ba Sa). Đàn bò lai phát triển đều hàng năm. - Xuất khẩu nông sản và nhập khẩu phục vụ sản xuất ngày càng phát triển, tăng từ 91.046 USD (1993) lên 155.261 USD (1996), 168.476 USD (1997), xuất khẩu trực tiếp tăng: 66.934 USD (1993) lên 124.983 USD (1996), 139.652 USD (1997). Chủ yếu xuất các mặt hàng: gạo, đậu xanh, đậu nành, đậu phộng, thuỷ sản đông lạnh... nhập khẩu tăng 90.664 USD (1993) lên 78.109 USD (1996), 62.257 USD (1997). Nhập các hàng chủ yếu nh−: xăng, dầu, phân bón, động cơ các loại, xi măng, sắt, thép. - Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng giống mới của trung tâm nghiên cứu sản xuất giống, hiện nay, trung tâm có 5 trại giống với qui mô gần 100 ha. Sở Nông nghiệp An Giang đã h−ớng dẫn áp dụng các giống mới vào sản xuất nh−: IR64B, 34 IR64NC, IR9729, IR6607. Nhờ các loại giống mới này mà năng suất lúa ngày càng cao, khả năng kháng rầy mạnh, nâng cao đ−ợc mặt hàng xuất khẩu gạo cho An Giang. - Cùng với phát triển nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn cũng phát triển. Các khâu làm đất t−ới tiêu, vận tải phục vụ nông nghiệp căn bản đã cơ giới hoá. Các máy móc chuyên dùng nh− máy gặt, máy sấy, máy tỉa hạt... đ−ợc đ−a vào phục vụ nông dân. Các ngành nghề địa ph−ơng đ−ợc khôi phục, các dịch vụ nh− cung cấp vật t− sản xuất, sửa chữa cơ khí, điện máy ngày càng phát triển. Sự phát triển của nền nông nghiệp An Giang sau những năm đổi mới đã có b−ớc chuyển biến quan trọng rõ nét. V−ợt qua nhiều khó khăn, trong bối cảnh của một đất n−ớc bị 30 năm chiến tranh tàn phá ch−a thoát khỏi đói nghèo, lại bị rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài, nền nông nghiệp An Giang đã đạt đ−ợc tốc độ tăng tr−ởng và hiệu quả t−ơng đối ổn định. Tốc độ tăng tr−ởng GDP bình quân là 9,9% (riêng năm 1995 là 1,5%), cao hơn mức bình quân của cả n−ớc cùng thời kỳ (8,2%). Khu vực I (nông, lâm, ng− nghiệp) do có những nỗ lực trên nhiều mặt nên tốc độ tăng bình quân là 4%, gần gấp 2 lần mức bình quân của cả n−ớc (4,52%). Những giải pháp đ−ợc thực hiện trong quá trình đổi mới đã có sự hoà nhập với nền kinh tế thị tr−ờng có sự quản lý của Nhà n−ớc và do vậy, đã và đang thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo ra đ−ợc b−ớc ngoặt của sự phát triển. An Giang đã chấm dứt đ−ợc thời kỳ độc canh tự túc, tự cấp và đang chuyển dần sang hàng hoá đa dạng, thị tr−ờng b−ớc đầu đ−ợc mở rộng và có cơ hội tìm thị tr−ờng lớn, chủ tr−ơng giảm nghèo, tăng giàu bắt đầu phát huy hiệu lực. Sự phát triển nông nghiệp đã trong những năm đổi mới cũng chính là kết quả rõ rệt của ch−ơng trình khuyến nông An Giang. Trên quan điểm xác định 35 khoa học công nghệ, giáo dục là quốc sách, thực hiện chuyển giao khoa học công nghệ cho ng−ời nông dân. Đ−ợc sự quan tâm của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, ngành nông nghiệp mở ch−ơng trình khuyến nông từ 1988. Hàng năm, Nhà n−ớc đầu t− hàng tỉ đồng cho ch−ơng trình này, đây là dịch vụ không có thu, thể hiện chính sách bảo trợ đối với nông nghiệp. Có thể hiểu khuyến nông là quá trình chuyển giao công nghệ cho nông thôn, là các kênh dẫn "chất xám nông nghiệp" về với đồng ruộng và nhà nông. Khuyến nông An Giang là điển hình của cả n−ớc, đ−ợc tổ chức thống nhất từ tỉnh đến xã. Bộ máy chủ yếu hoạt động khuyến nông chính là bộ máy của ngành nông nghiệp. Do đó, đội ngũ trí thức ngành nông nghiệp hoạt động chủ yếu là ở ch−ơng trình khuyến nông. Hiện nay, An Giang có 150 cán bộ khoa học có trình độ ĐH đang công tác ở ch−ơng trình khuyến nông cấp huyện và ở xã có 400 kỹ thuật viên nông nghiệp có trình độ ĐH, trung cấp, sơ cấp. Ngoài ra còn có màng l−ới hơn 1.440 nông dân đ−ợc công nhận là nông dân giỏi, là cộng tác viên của ch−ơng trình khuyến nông. Ch−ơng trình bao quát trên các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi thú y, thuỷ sản, cơ giới hoá nông nghiệp, chế biến và bảo quản nông sản, bảo vệ nguồn lợi và môi tr−ờng, thông tin nông nghiệp, đời sống nông dân, khuyến lâm, khuyến khích nông dân tham gia các hình thức sản xuất thích hợp. Có thể khẳng định rằng, ch−ơng trình khuyến nông trong đó sự hoạt động chủ yếu và tích cực của đội ngũ trí thức đã góp phần đáng kể trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua. Trên lĩnh vực công nghiệp, do đặc thù An Giang là một tỉnh chuyên nghề nông (83%), nên công nghiệp mang nặng tính chất công nghiệp nông thôn, mang nặng đặc tính tiểu thủ công nghiệp. Công nghiệp nông thôn An Giang phát triển theo 3 nhóm ngành ghề sau: chế biến nông, lâm, thuỷ, súc sản; chế biến và khai thác khoáng sản; các ngành nghề truyền thống. 36 Thị tr−ờng tiêu thụ chủ yếu của sản phẩm tiểu thủ công nghiệp nông thôn là phục vụ nông nghiệp, nông dân. Ngoài ra nó còn là nguồn cung cấp nguyên liệu (sản phẩm bán thành phẩm) cho các nhà máy lớn trong và ngoài tỉnh và xuất khẩu. Hiện nay đội ngũ trí thức hoạt động trong ngành công nghiệp có 544 ng−ời (trong đó 03 có trình độ trên ĐH). Ngoài ra còn có 2.355 cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ trung, sơ cấp (51,35). Số l−ợng còn ít so với một số ngành khác trong tỉnh (chiếm tỉ lệ 7,91% tổng số trí thức trong tỉnh), nh−ng trí thức ở lĩnh vực này đã đóng vai trò tích cực trong ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý nâng cao năng suất, chất l−ợng sản phẩm vào cơ khí sửa chữa và chế tạo; các ngành chế biến nông thuỷ sản; vật liệu xây dựng có một số sản phẩm tham gia cạnh tranh thị tr−ờng đ−ợc khách hàng −a chuộng. Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ IV xác định nhiệm vụ: "Tích cực phát triển công nghiệp chế biến. Vấn đề có tính quyết định là phải áp dụng các chính sách khuyến khích nhằm thúc đẩy các thành phần kinh tế sớm cải tiến, đổi mới trang thiết bị kết hợp giữa truyền thống và hiện đại nhằm không ngừng nâng cao năng suất, chất l−ợng sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Phấn đấu nắm bắt thị tr−ờng, mở rộng các nghề truyền thống và các dịch vụ sản xuất khác. Ngành cần tập trung là xay xát gạo có chất l−ợng cao, sấy và bảo quản nông sản, chế biến các loại nông - thuỷ - súc sản, làm giảm dần xuất khẩu ở dạng nguyên liệu thô". An Giang cũng đã ban hành chỉ thị 13/CT.UB (6/1992) nhằm thực hiện những chính sách và biện pháp phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất, chấn chỉnh lại tổ chức sản xuất, khắc phục dần tình trạng sản xuất thiếu ổn định, thích nghi dần với cơ chế mới, từng b−ớc ổn định để phát triển, đáp ứng yêu cầu và thị hiếu của thị tr−ờng. 37 Giá trị tổng sản l−ợng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo giá thực tế ngày càng tăng [31]. Phát triển công nghiệp trong thời gian qua cũng đã đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng h−ớng, tỉ trọng công nghiệp từ 6,55% năm 1990 đã tăng lên 9,92% năm 1998. (Trong tổng sản phẩm trong n−ớc của tỉnh tính theo giá hiện hành) [43] (xem phụ lục 4). Trong công nghiệp đã tập trung để có sự chuyển dịch cơ cấu trong các ngành công nghiệp và đã phản ánh tính hiệu quả trong quá trình chuyển đổi, giá trị sản xuất một số phân ngành công nghiệp có mức tăng tr−ởng khá, phát huy đ−ợc nguồn lực và tài nguyên trong tỉnh, đáp ứng cơ bản nhu cầu thị tr−ờng tăng thu cho ngân sách Nhà n−ớc. Khu vực công nghiệp có vốn đầu t− n−ớc ngoài. Tính đến năm 1998, trên địa bàn tỉnh An Giang có 5 liên doanh hoạt động, trong đó có 4 liên doanh đầu t− sản xuất công nghiệp với tổng số vốn đầu t− là 11,347 triệu USD; vốn pháp định là 5,586 triệu USD, phía Việt Nam góp 1,109 triệu USD chiếm tỉ lệ 20%, phía n−ớc ngoài góp 4,477 triệu USD chiếm tỉ lệ 80% (xem phụ lục 6). So với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, đầu t− n−ớc ngoài tại An Giang ở mức trung bình của khu vực. Cụ thể về tổng số vốn đầu t−, An Giang xếp hàng thứ 6; về số l−ợng dự án xếp hàng thứ 5 cùng với Đồng Tháp; về qui mô vốn đầu t− bình quân/1 dự án, An Giang xếp hàng thứ 7. Hoạt động đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài trên địa bàn tỉnh đã có một số thành tựu nhất định. Đã góp phần gia tăng một l−ợng vốn đầu t− n−ớc ngoài để phát triển công nghiệp của tỉnh và gia tăng xuất khẩu. Đã giải quyết một số lao động tại địa ph−ơng, góp phần tạo điều kiện và kinh nghiệm để tỉnh tiếp thu vốn đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài có hiệu quả hơn. Đội ngũ trí thức đã cùng với công nhân, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý... phát huy toàn lực vào việc phát triển hợp lý sản xuất công nghiệp đặc 38 biệt thông qua hoạt động ở ch−ơng trình khuyến nông là ch−ơng trình khuyến khích đầu t− phát triển sản xuất phục vụ h−ớng đi lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh. (Tỉnh An Giang là đơn vị đầu tiên trong cả n−ớc thành lập ch−ơng trình khuyến nông tháng 5 năm 1996). Ch−ơng trình khuyến nông không chỉ hỗ trợ cho ng−ời sản xuất về khoa học kỹ thuật, thông tin giá cả thị tr−ờng, tìm thị tr−ờng tiêu thụ mà còn đ−ợc trang bị các kiến thức về quản lý kinh doanh, tham gia học tập kinh nghiệm sản xuất lẫn nhau, đ−ợc hỗ trợ vốn để phát triển sản xuất... Đội ngũ trí thức hoạt động ở lĩnh vực này đã phối hợp với các tr−ờng ĐH Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh và các ngành chức năng chuyên môn trong tỉnh tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho các cơ sở sản xuất về các chuyên đề: kỹ thuật, chế biến l−ơng thực - thực phẩm, an toàn kỹ thuật lạnh, quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ...; tăng c−ờng trình độ, kiến thức cho các chủ doanh nghiệp giúp họ chủ động hoạch định kế hoạch phát triển sản xuất, tính toán hoạt động có hiệu quả, mức độ rủi ro thấp. Chất l−ợng lao động ở An Giang ch−a cao. Chủ yếu trình độ vẫn là lao động thủ công, mức độ cơ giới hoá còn thấp. Lực l−ợng trí thức chiếm tỉ lệ 0,77% trên tổng số lao động toàn ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tỉnh An Giang. Bình quân một cơ sở chỉ có 0,03 ng−ời. Trong đó, số trí thức ở khu vực doanh nghiệp Nhà n−ớc chiếm tỉ lệ 5,7%, khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỉ lệ 0,24% và doanh nghiệp có vốn đầu t− n−ớc ngoài chiếm 7,03%. Trong quá trình đổi mới, An Giang chú trọng phát triển giáo dục và đạo tạo: "Sự nghiệp giáo dục ngoài việc triển khai về nghiệp vụ chuyên môn theo hệ thống ngành dọc, bảo đảm cho trẻ em đến độ tuổi đều đ−ợc đi học, xoá ca ba. Tập trung khả năng để thực hiện phổ cập bậc tiểu học với hệ thống tr−ờng công và dân lập. Riêng phổ thông trung học, kiên quyết thi tuyển đúng chất l−ợng, đi đôi với mở rộng hệ bán công ở cấp này. Thực hiện tốt công tác tuyển sinh và trợ 39 cấp học bổng cho học sinh giỏi nhằm khuyến khích nhân tài, tăng dần thiết bị học đ−ờng. Phấn đấu bằng nhiều biện pháp từng b−ớc xây dựng tr−ờng lớp đ−ợc tốt hơn, nâng cao chất l−ợng dạy và học hệ tr−ờng công lên một b−ớc mới" [5, 19]. Về thực hiện đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo, ở An Giang, đến nay đã có một lực l−ợng trí thức khá đông so với tổng số trí thức của tỉnh: 2.933 (46,61%), trong đó 16 ng−ời có trình độ trên ĐH, tập trung ở tr−ờng CĐ s− phạm, tr−ờng Đảng Tôn Đức Thắng và Trung tâm Giáo dục th−ờng xuyên. Cụ thể là 569 ng−ời có trình độ ĐH là giáo viên phổ thông trung học và 2.364 có trình độ CĐ là giáo viên trung học cơ sở. Ch−a kể số giáo viên tiểu học là 6.504 ng−ời. Các lực l−ợng này đã góp phần rất quan trọng để ngành giáo dục và đào tạo có những chuyển biến mạnh mẽ cả về số l−ợng và chất l−ợng. Hệ thống tr−ờng, lớp ở các ngành học, cấp học trong toàn tỉnh đã đ−ợc sắp xếp hợp lý, phát triển đa dạng đúng qui định của Bộ Giáo dục và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội địa ph−ơng. Hình thành các tr−ờng trọng điểm chất l−ợng cao; tr−ờng dân tộc nội trú, tr−ờng trẻ em khuyết tật; các trung tâm: ngoại ngữ, giáo dục th−ờng xuyên kỹ thuật tổng hợp, h−ớng nghiệp dạy nghề... Mặt khác, kể từ khi có nghị quyết Trung −ơng 4 (khoá VII), các ngành học, bậc học tăng nhanh, công tác phổ cập tiểu học - xoá mù chữ có tiến bộ, bảo đảm thực hiện mục tiêu phổ cập tiểu học - xoá mù chữ tr−ớc năm 2000. Đã hình thành phong trào học tập trong cán bộ công nhân viên và thanh niên (học bổ túc văn hoá, tin học, ngoại ngữ, ĐH, học nghề...). Chất l−ợng giáo dục có chuyển biến tích cực. Nề nếp, kỷ c−ơng và hiệu quả dạy và học có tiến bộ hơn. Giáo dục công dân, đạo đức, thể chất, h−ớng nghiệp, dạy nghề phổ thông đ−ợc tăng c−ờng. Tỷ lệ học sinh ham học và học khá giỏi tăng lên. L−u ban bỏ học giảm đáng kể. Công tác quản lý đ−ợc cải tiến có hiệu quả. Sự kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo 40 lãnh thổ có tiến bộ. Đẩy mạnh công tác thanh tra tạo đ−ợc những tác động tích cực đến toàn ngành. Cơ sở vật chất và các ph−ơng tiện phục vụ dạy và học đ−ợc tăng c−ờng. Phong trào xã hội hoá giáo dục phát triển khá. Đội ngũ trí thức đã đi đầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ trọng tâm cấp bách của tỉnh và phát triển giáo dục đào tạo phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặc biệt là đội ngũ trí thức ở các tr−ờng chuyên nghiệp, dạy nghề trong tỉnh đã kiên trì, nỗ lực nâng cao chất l−ợng đào tạo bồi d−ỡng cho tỉnh nhà một đội ngũ cán bộ có trình độ CĐ, trung cấp đông đảo (nhất là ở lĩnh vực y tế và s− phạm), đã giải quyết đ−ợc tình trạng thiếu giáo viên hiện nay. Tuy nhiên, so với yêu cầu ngày càng cao về phát triển kinh tế - xã hội, thì giáo dục - đào tạo còn nhiều bất cập. Qui mô vẫn còn nhỏ, với 21,5% dân số đi học. Cơ cấu lệch. Hệ giáo dục chuyên nghiệp - dạy nghề quá ít, yếu. Chất l−ợng giáo dục toàn diện còn thấp. Chế độ chính sách đãi ngộ đội ngũ trí thức giảng dạy ch−a hợp lý, nên thiếu khuyến khích đối với giáo viên phấn đấu dạy giỏi và tâm huyết. Trên lĩnh vực y tế, ở An Giang cũng đ−ợc chú trọng đầu t−, phát triển với nhiệm vụ chủ yếu là: "Triển khai tốt ch−ơng trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chú ý vùng nông thôn và đồng bào dân tộc, chủ động phòng chống dịch bệnh trong nhân dân. Củng cố mạng l−ới y tế xã, nâng dần chất l−ợng điều trị và cơ sở vật chất cho các bệnh viện huyện, trung tâm và khu vực. Tích cực mở rộng mạng l−ới y học cổ truyền, phổ biến rộng rãi sử dụng thuốc nam để trị bệnh. Từng b−ớc xây dựng quĩ bảo hiểm sức khoẻ để tăng thêm kinh phí cho y tế. Quản lý các hoạt động kinh doanh mua bán thuốc trị bệnh và những y bác sĩ, l−ơng y có cơ sở trị bệnh thu tiền, bảo đảm yêu cầu phục vụ cho nhân dân đ−ợc tốt hơn" [5, 17] và: "Nâng cao y đức trong ngành, khám chữa bệnh ngay cho những ng−ời cần cấp 41 cứu và chấn th−ơng ngoại, củng cố công tác phục vụ ng−ời bệnh tại bệnh viện..." [18]. ở An Giang mấy năm trở lại đây, do thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai lũ lụt xảy ra liên tiếp, bên cạnh đó mức độ ô nhiễm môi tr−ờng ngày càng trầm trọng do các chất thải và việc sử dụng thuốc - phân bón hoá học trong nông nghiệp, đã tạo điều kiện cho một số dịch bệnh phát triển nh− tả, tiêu chảy, sốt xuất huyết, th−ơng hàn... làm ảnh h−ởng trực tiếp đến sức khoẻ nhân dân. Mặt khác, do ảnh h−ởng từ các mặt tiêu cực của nền kinh tế thị tr−ờng và tệ nạn xã hội đã làm một số bệnh tật gia tăng nh−: huyết áp, ung th−, các bệnh mãn tính, bệnh nghề nghiệp, nhiễm HIV/AIDS, lao, tai nạn, tự tử... Đội ngũ trí thức hoạt động trên lĩnh vực y tế An Giang hiện có 1.838 ng−ời (26,71%). Là đơn vị có lực l−ợng trí thức đông sau ngành giáo dục. Trong tổng số 1.838 trí thức, có 3 ng−ời có trình độ trên ĐH (TS, PTS), 659 bác sĩ, 46 d−ợc sĩ ĐH, 18 ĐH khác, 1115 y sĩ, ngoài ra còn có 240 d−ợc sĩ trung học, 327 nữ hộ sinh và 1.472 cán bộ khác [44]. Mặc dù có nhiều khó khăn thách thức, ngành y tế An Giang cùng với đội ngũ trí thức của mình, đã liên tục phát huy truyền thống của tỉnh có phong trào y tế cơ sở mạnh ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, luôn hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu kế hoạch Nhà n−ớc giao, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa ph−ơng. Đội ngũ cán bộ ngành y đ−ợc tăng c−ờng. Hiện nay có 1.838 y, bác sĩ (tăng 28,66 so với năm 1986), 100% trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản, trên 71% xã có bác sĩ, có 37 bác sĩ làm trạm tr−ởng trạm y tế xã. Bình quân đầu t− 27.465 đồng/ng−ời dân/năm cho y tế. Trung tâm y tế các huyện thị xã đ−ợc củng cố về chức danh, bổ sung một số trang thiết bị hiện đại, hoạt động có hiệu quả qua kết quả kiểm tra, phúc tra cuối năm, 100% các trung tâm y tế đều đ−ợc phân 42 loại tốt. An Giang là tỉnh duy nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long có Trung tâm tim mạch hiện đại. Việc chủ tr−ơng đa dạng hoá và xã hội hoá công tác y tế, kết hợp giữa y học hiện đại với y học cổ truyền b−ớc đầu phát huy đ−ợc tác dụng, không những đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu tr−ớc mắt cho nhà dân mà còn cho những năm sắp tới. Mạng l−ới ngành d−ợc hiện có đủ đến y tế cơ sở: mỗi trạm y tế có tủ thuốc cấp cứu và cấp thuốc miễn phí cho ng−ời nghèo, đối t−ợng chính sách; ở các xã, các cụm dân c− đều có đại lý bán thuốc cho công ty d−ợc phẩm tỉnh. Với mạng l−ới cung cấp thuốc đều khắp bảo đảm thuốc tại chỗ cho nhân dân hoạt động khá tích cực. Từ sự nghiên cứu thực trạng trên của đội ngũ trí thức ở những lĩnh vực cơ bản (nông nghiệp, công nghiệp, giáo dục, y tế), chúng ta nhận thấy: trí thức An Giang giàu lòng yêu n−ớc; tr−ởng thành trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có quan hệ gắn bó với nhân dân với đất n−ớc, luôn tin t−ởng vào đ−ờng lối đổi mới của Đảng; đã đóng góp nhiều công sức to lớn vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà. Trong sự phát triển của đội ngũ trí thức của tỉnh An Giang, bên cạnh những kết quả đạt đ−ợc, thì vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém nh−: số l−ợng còn ít; chất l−ợng ch−a đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; cơ cấu thiếu đồng bộ; phân bố không đều giữa các ngành, các địa ph−ơng; còn nhiều bất hợp lý trong chế độ đào tạo, sử dụng, đãi ngộ đối với trí thức... Thực trạng trên đang đặt ra hàng loạt vấn đề cần đ−ợc giải quyết thông qua các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò đội ngũ trí thức ở tỉnh An Giang. 43 Ch−ơng 3 B−ớc phát triển mới của tỉnh An Giang đến năm 2010 và những giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa vai trò đội ngũ trí thức của tỉnh 3.1. B−ớc phát triển mới của tỉnh An Giang đến năm 2010 3.1.1. Quan điểm chung, ph−ơng h−ớng, mục tiêu phát triển của tỉnh B−ớc phát triển mới của An Giang đ−ợc đề ra trong "Qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội An Giang thời kỳ 1996 - 2010" của uỷ ban nhân dân tỉnh [48]. Trong bản Qui hoạch này có mấy vấn đề l−u ý sau: a/ Qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh là phải tìm ra con đ−ờng phát triển và sự bố trí theo lãnh thổ phù hợp với các điều kiện khách quan và với các qui luật phát triển chung để đạt đ−ợc các mục tiêu do Đảng đề ra, đồng thời thúc đẩy tăng tr−ởng nhanh nền kinh tế của tỉnh. Do vậy, quan điểm chung nhất của qui hoạch tổng thể là: - Phải đ−a nền kinh tế An Giang chuyển sang thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển với nhịp độ tăng nhanh hơn tr−ớc, hiệu quả cao, bảo đảm sự phát triển bền vững, ổn định theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự phát triển hợp lý và hiệu quả trong mối quan hệ t−ơng tác với các địa ph−ơng trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và các vùng khác trong tổng thể phát triển của cả n−ớc theo đ−ờng lối và định h−ớng phát triển thống nhất của Đảng và Nhà n−ớc. - Huy động tối đa mọi nguồn lực nội tại là nhân tố quyết định hàng đầu cho công cuộc phát triển sắp đến, nhất là phát huy nguồn nhân lực, tăng tiết kiệm đầu t− và phát huy khả năng, tiềm năng của các thành phần kinh tế trong tỉnh. 44 Đồng thời, phải tranh thủ tối đa mọi khả năng, mọi nguồn lực có thể có ở ngoài tỉnh, thông qua liên kết và tăng c−ờng giao l−u với các địa ph−ơng khác và sự hỗ trợ của Trung −ơng cũng nh− nguồn lực ngoài n−ớc. - Cùng với sự phát triển nguồn lực, phải phát huy đúng mức vai trò của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đó là một trong những động lực to lớn của sản xuất, trực tiếp thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở địa ph−ơng. Nh−ng những nhân tố này chỉ phát huy đ−ợc trên cơ sở thu hút tốt vốn đầu t− và sử dụng có hiệu quả. - Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị tr−ờng và mở cửa, phải quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ môi tr−ờng sinh thái và các vấn đề xã hội nhân văn. Kinh tế tăng tr−ởng phải gắn liền với công bằng tiến bộ xã hội và nâng cao chất l−ợng cuộc sống của con ng−ời; quan tâm đầy đủ đến vấn đề dân số, việc làm, nhà ở, nâng cao dân trí, cải thiện môi sinh và chăm sóc sức khoẻ; rút ngắn khoảng cách giàu nghèo; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. - Quá trình phát triển, các khu vực thị xã, thị trấn, khu cách mạng sẽ có tốc độ tăng tr−ởng nhanh hơn; đời sống kinh tế xã hội cao hơn. Điều đó đòi hỏi trong chỉ đạo chiến l−ợc cần có quan tâm đúng mức đến địa bàn nông thôn, vùng núi, biên giới... để bảo đảm có sự phát triển toàn diện, đồng đều giữa các vùng lãnh thổ. - Tỉnh An Giang có 95 km đ−ờng biên giới. Do vậy, phải chú ý giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng c−ờng khả năng quốc phòng, bảo vệ vững chắc biên giới trong điều kiện mở rộng hợp tác quốc tế. b/ Từ các quan điểm chung trên b−ớc phát triển mới của tỉnh là ra sức khai thác, phát huy mọi nguồn lực và lợi thế, khẩn tr−ơng khắc phục khó khăn thách thức; tập trung nỗ lực cao độ của toàn Đảng, toàn dân An Giang đ−a tỉnh lên một 45 thời kỳ phát triển mới: thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và theo h−ớng tổng quát sau đây: - Xuất phát điểm từ thực trạng kinh tế - xã hội địa ph−ơng, An Giang đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế mạnh vốn có là tiếp tục phát triển nông nghiệp toàn diện và dịch vụ đa dạng. - Tr−ớc hết, l−ơng thực vẫn là vấn đề chiến l−ợc của đất n−ớc và nhu cầu bức thiết của thế giới trong thời gian dài. Đó chính là cơ hội và trách nhiệm để An Giang tiếp tục đẩy mạnh sản xuất l−ơng thực theo h−ớng phát triển chiều sâu kết hợp với khai hoang phục hoá, mở rộng diện tích, tăng vụ. Đó cũng là quá trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, qui hoạch phát triển các vùng trồng cây chuyên canh cùng với việc nâng chăn nuôi và thuỷ sản lên thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp; tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định và dồi dào cho công nghiệp. - Cùng với phát triển nông nghiệp, cần phải phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là th−ơng mại, xuất nhập khẩu và du lịch... nhằm khai thác lợi thế của địa ph−ơng, thu hút một bộ phận lao động nông nghiệp, tăng nhanh tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. - Tập trung đầu t− phát triển nhanh công nghiệp hơn thời kỳ tr−ớc, mà mũi nhọn là công nghiệp chế biến, kế đến là khai khoáng và sản xuất vật liệu xây dựng. Chú trọng xây dựng các khu công nghiệp tập trung; đi đôi với quan tâm khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề truyền thống, nhất là ở các địa bàn nông thôn, miền núi, dân tộc. Nghiên cứu phát triển sản xuất một số ngành hàng, mặt hàng mới thay dần hàng nhập, phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. - Để tạo động lực phát triển, cần tiếp tục giải phóng lực l−ợng sản xuất xã hội: Vận hành nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị tr−ờng có sự quản lý 46 của Nhà n−ớc theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa; củng cố và tăng c−ờng kinh tế quốc doanh, hình thành xây dựng các hình thức tổ chức hợp tác phù hợp; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng, khả năng của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gia tăng đầu t− phát triển theo định h−ớng và pháp luật Nhà n−ớc. - Quan tâm tận dụng đầu t− cải tạo, nâng cấp, đổi mới thiết bị công nghệ; rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển đối với các địa ph−ơng khác; nâng cao chất l−ợng, phong phú và đa dạng hoá mẫu mã chủng loại; tăng thêm khối l−ợng, mặt hàng thâm nhập thị tr−ờng trong n−ớc, khu vực và thế giới, trên cơ sở mở rộng hợp tác và tăng c−ờng kinh tế đối ngoại. - Phát triển kinh tế phải gắn chặt với phát triển văn hoá và công bằng xã hội, để văn hoá xã hội thực sự vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế, mà cốt lõi là vì con ng−ời và do con ng−ời. Tr−ớc mắt, phải tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc về văn hoá xã hội đang gay gắt nóng bỏng nh−: dân số và việc làm, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ và phát huy văn hoá dân tộc, bảo vệ môi tr−ờng, thực hiện tốt các chính sách xã hội và đẩy lùi có hiệu quả tệ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác. Đó là những nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài. - Xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội theo h−ớng đẩy mạnh công nghiệp hoá, phải xem trọng nhiệm vụ chiến l−ợc là th−ờng xuyên quan tâm bảo vệ, cải thiện môi tr−ờng sinh thái. Đó là điều kiện quan trọng để bảo đảm phát triển kinh tế xã hội bền vững, có hiệu quả. Tr−ớc mắt, cần ra sức xử lý tình trạng ô nhiễm về thực phẩm, n−ớc uống, n−ớc thải, chất thải; giữ gìn môi tr−ờng sinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluanvan3.pdf
Tài liệu liên quan