Luận văn Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

Chương 1: CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM

1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

1.3. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. Tổng quan về thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam

2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong những năm gần đây

2.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO

3.1. Mục tiêu phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam

3.2. Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

3.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

 

doc98 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3255 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. BH Phi nhân thọ 1. Tổng DT phí BH Tỷ đ 700 1.606 1.766 2.158 2.624 3.875 4.768 5.486 6.360 2. Tốc độ tăng trưởng % - - 10 22 20 48 23 15 16 II. BH nhân thọ 1. Tổng DT phí BH Tỷ đ - 485 1.285 2.778 4.368 6.575 7.711 8.130 8.500 2. Tốc độ tăng trưởng % - - 165 161 57 50 22.1 4 4.42 III. Toàn thị trường 1. Tổng DT phí BH Tỷ đ 700 2.091 3.051 4.936 6.992 10.390 12.479 13.616 14.860 2. Tốc độ tăng trưởng % - 72 46 62 40,3 45,7 22,4 8,6 20,21 4. Nguồn vốn đầu tư Tỷ đ 100 2.998 4.364 6.721 11.224 14.602 23.002 26.276 35.000 Nguồn: [48]; [47]. Biểu 2.4: Thị phần của DNBHPNT và BHNT theo khối doanh nghiệp năm 2006 Đơn vị tính: % Loại hình doanh nghiệp Thị phần Doanh nghiệp trong nước Doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài Bảo hiểm phi nhân thọ 94,88 5,14 Bảo hiểm nhân thọ 36,55 63,48 Nguồn: [48]. Bên cạnh sự tăng trưởng về doanh thu phí BH thì chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh BH cũng được cải thiện rõ rệt thể hiện ở chỗ số lượng sản phẩm BH tăng lên nhanh chóng. Trước năm 1993, thị trường BH chỉ có trên 20 sản phẩm chủ yếu tập trung vào lĩnh vực BHPNT truyền thống thì đến năm 2007 đã có trên 800 loại sản phẩm BH khác nhau, trong đó có khoảng trên 700 sản phẩm BHPNT, hơn 100 sản phẩm BHNT, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế - xã hội và tạo ra sự lựa chọn đa dạng cho khách hàng. Các kênh phân phối sản phẩm BH phát triển ngày càng sâu rộng (8 doanh nghiệp môi giới BH, 100.000 đại lý BHNT, 50.000 đại lý BHPNT) nhằm tuyên truyền giới thiệu DNBH và đưa sản phẩm BH đến tận tay người tiêu dùng [21, tr.3]. Năng lực tài chính của các DNBH được nâng lên rõ rệt: 90% DNBH có vốn chủ sở hữu cao gấp nhiều lần vốn pháp định. Năm 2006 hầu hết các DN đều tăng vốn chủ sở hữu, đưa tổng vốn chủ sở hữu của ngành BH lên tới 10.000 tỷ VNĐ. Các quỹ dự phòng nghiệp vụ, tổng tài sản và đầu tư vào nền kinh tế tăng nhanh, luôn đảm bảo khả năng thanh toán của các DNBH. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn đã huy động để đầu tư trở lại nền kinh tế tăng nhanh qua từng năm: nếu như năm 1996 giá trị đầu tư chỉ là 156 tỷ VNĐ, thì đến năm 2004 đã đạt 32.002 tỷ VNĐ, năm 2005 đạt 26.276 tỷ VNĐ - tăng 160 lần. Đến cuối năm 2006 đạt tới 35.000 tỷ VNĐ chiếm 4,07% GDP, nếu so với năm 2001 con số này chỉ là 1,06%GDP. Đóng góp cho ngân sách nhà nước trên 1.000 tỷ VNĐ ( bao gồm: thuế VAT, thuế thu nhập cá nhân của cán bộ và đại lý BH). Cơ cấu đầu tư trong những năm gần đây cũng đã có sự chuyển dịch dần từ đầu tư ngắn hạn sang đầu tư dài hạn dưới các hình thức: mua trái phiếu Chính Phủ, đầu tư trực tiếp vào cơ sở hạ tầng.., tuy nhiên tỷ trọng đầu tư vào tiền gửi ngân hàng và các tổ chức tín dụng vẫn cao. Tổng số tiền bồi thường mà các DNBH đã chi cho các tổ chức kinh tế và dân cư từ năm 2000 - 2005 đạt trên 12.300 tỷ VNĐ. Trước đó hàng loạt các vụ tổn thất lớn cũng đã được các Công ty BH bồi thường như: chi phí bồi thường vụ phụt giếng khoan dầu "Lan Tây" năm 1993 là 58,2 triệu USD, bồi thượng vụ cháy chợ Đồng Xuân năm 1995 là 8,2 triệu USD... Trong 6 tháng đầu năm 2005, các DNBHPNT đã giải quyết bồi thường hàng trăm ngàn vụ, với tổng số tiền bồi thường ước đạt trên 900 tỷ đồng, trong đó đáng chú ý có những vụ tổn thất lớn như: vụ chìm tàu Zhe Hai ước thiệt hại về hàng hóa khoảng 2,3 triệu USD, vụ đắm tàu Sea Bee ước thiệt hại tới 2 triệu USD, vụ đâm va giữa tàu Mimosa với tàu Trinity ước thiệt hại trên 2 triệu USD. Riêng năm 2006 ngành BH đã bồi thường 2.500 tỷ VNĐ cho những thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra và đang thụ lý hồ sơ giải quyết bồi thường với số tiền trên 1.500 tỷ VNĐ. BHNT đã trả 3.226 tỷ VNĐ trong đó có 2.050 tỷ VNĐ trả cho quyền lợi BH, 1.176 tỷ VNĐ trả cho giá trị hoàn lại. Các cơ sở kinh tế bị bão lụt, hỏa hoạn, tai nạn đường biển, đường bộ đã được bồi thường kịp thời và đầy đủ để nhanh chóng khôi phục sản xuất kinh doanh. Với những gì đã đạt được có thể khẳng định rằng: cho đến nay ngành BH Việt Nam đã bước một bước tiến dài, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khẳng định được vị thế của mình là một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế, góp phần đảm bảo ổn định tài chính. Trong thời gian tới thị trường BH Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục phát triển mạnh và vững chắc trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế đất nước, thực sự là tấm là chắn cho sự phát triển của xã hội. 2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong những năm gần đây 2.2.1. Khái quát về tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Viêt Nam trong thời gian qua Việc đa dạng hoá thị trường cùng với xu thế hội nhập quốc tế, việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường DVBH đã làm cho số lượng các DNBH tăng lên nhanh chóng phá vỡ cơ chế độc quyền, tạo nên cơ chế cạnh tranh gay gắt và đặt các DNBH hoạt động trên thị trường DVBH Việt Nam nói chung và thị trường BHPNT nói riêng trước những thách thức không nhỏ. Các DNBHPNT Việt Nam không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn phải tự khẳng định vị thế của mình, nâng cao năng lực cạnh tranh để đối phó với các tập đoàn BH lớn ở nước ngoài sẽ tham gia vào thị trường DVBH Việt Nam trong thời gian tới theo các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã tham gia và ký kết. Đi cùng với sự tăng trưởng cao trong kinh doanh, mức lợi nhuận hấp dẫn là sự cạnh tranh sống còn giữa các DN. Trong thời gian vừa qua, mặc dù các cơ quan quản lý đã có nhiều biện pháp để kiểm soát tình hình cạnh tranh trên thị trường nhưng thực tế vẫn tồn tại nhiều hình thức cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là trên thị trường BHPNT. Tại cuộc họp giao ban giữa Bộ tài chính với 37 DNBH ngày 24/4/2007 vừa qua, Vụ Bảo hiểm đã đánh giá: "Bên cạnh sự tăng trưởng ổn định trong năm 2006, thị trường BHPNT nước ta vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm như cạnh tranh hạ phí, tăng chi phí khai thác, chưa kiểm soạt được trục lợi bảo hiểm, một số vấn đề về thỏa thuận trong khai thác bảo hiểm tàu biển, hàng hóa... chưa được thực hiện triệt để" [40, tr.13]. Những hình thức cạnh tranh không lành mạnh giữa các DNBHPNT đang diễn ra ngày càng gay gia tăng tập trung chủ yếu trên một số mặt sau: * Cạnh tranh về phí bảo hiểm: Trong vòng 5 năm trở lại đây, tình trạng cạnh tranh trên thị trường BHPNT thông qua hình thức giảm tỷ lệ phí BH đã diễn ra hết sức quyết liệt. Tỷ lệ phí BH liên tục giảm ở hầu hết các nghiệp vụ như: BH hàng hóa vận chuyển, BH thân tàu, BH kỹ thuật..., trừ nghiệp vụ BH hàng không vì tỷ lệ phí BH của nghiệp vụ này do thị trường thế giới quyết định. Theo số liệu thống kê của Tổng công ty Cổ phần tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam, tỷ lệ phí BH của nghiệp vụ hàng hoá xuất nhập khẩu bị giảm nhiều nhất (30%), cá biệt có những mặt hàng như sắt thép nhập khẩu, tỷ lệ phí BH giảm chỉ còn 50% - 60% phí áp dụng của một năm trước đó. Năm 2003 tỷ lệ phí BH mặt hàng này trung bình khoảng 0,14% tổng giá trị lô hàng, nhưng đến năm 2004 một DN đã "liều mình" đưa ra mức phí 0,08%. Và ngay sau đó, một số DN khác đã hạ phí xuống 0,06%. Phí BH phân bón “rơi tự do” từ 0,6% xuống 0,3 - 0,35%. Tiếp đến là phí BH hoả hoạn và rủi ro đặc biệt giảm trung bình gần 30% so với năm 2005. Nghiệp vụ BH thân tầu cũng giảm phí đáng kể. Đằng sau việc hạ phí thấp, các DNBH đã sử dụng những chiêu thức gây bất lợi cho người tham gia BH. Chẳng hạn: một Công ty cần BH nhiều loại như: BH hàng hoá xuất nhập khẩu, cháy nổ, tai nạn xe cộ, rủi ro..., nếu phí BH hàng hoá xuất nhập khẩu giảm xuống thì phí BH của nhiều loại khác tăng lên. Ngoài ra, phí BH thấp thường đi kèm với dịch vụ kém chất lượng, cụ thể như tổn thất không được bồi thường kịp thời, thoả đáng. Để đối phó với tình trạng hạ phí, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã chủ trì tổ chức cho các DNBHPNT ký thoả thuận về phí BH ở một số nghiệp vụ. Tuy nhiên vì cạnh tranh, các DNBH vẫn tiếp tục hạ phí thấp hơn mức phí tối thiểu đã cam kết. Hiện nay các công ty BH trong nước chỉ được khoản 20% tổng giá trị hàng xuất và 30% tổng giá trị hàng nhập. So với tiềm năng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và lưu lượng hàng hoá vận chuyển trong nước thì số phí BH này còn quá thấp (có đến gần 90% kim ngạch hàng xuất khẩu và 70% kim ngạch hàng nhập khẩu vẫn chưa được các nhà BH trong nước khai thác). Thế nhưng, thay vì quảng bá tiếp thị để các công ty xuất nhập khẩu mua BH trong nước, các DNBHPNT chỉ lo hạ tỷ lệ phí và giành khách hàng của nhau. Có thể nói việc giảm phí ở các nghiệp vụ để giành dịch vụ như hiện nay đang là nguy cơ rất lớn đe doạ tới sự phát triển an toàn của các DNBHPNT nói riêng và cả thị trường BH nói chung bởi vì: các DNBHPNT hạ phí thường không dựa trên cơ sở số liệu thống kê về tình hình tổn thất của nghiệp vụ và kỹ thuật tính phí mà chủ yếu vì mục đích lôi kéo khách hàng. Song song với điều đó, các DN không tiến hành khảo sát rủi ro kỹ lưỡng, không chú trọng công tác hạn chế tổn thất. Tỷ lệ phí BH giảm nhưng tình hình tổn thất đang ngày càng xấu đi, tỷ lệ bồi thường tăng, chi phí khai thác tăng làm cho lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh BH ngày càng thấp. Có DN doanh thu cả 1.000 tỷ VND/năm nhưng lãi chỉ còn 1 tỷ VNĐ. Lý giả về tình trạng hạ phí, Tổng giám đốc Bảo Việt Việt Nam phát biểu: Khi một công ty mới gia nhập vào thị trường hoặc muốn giành khách hàng từ các công ty khác để tăng thị phần thì phương pháp cạnh tranh phổ biến nhất là hạ tỷ lệ phí và tăng chi phí hoa hồng trong khai thác. Tuy nhiên việc làm này sẽ gây khó khăn trong việc thu xếp tái bảo hiểm ra nước ngoài và có thể dẫn tới rủi ro là doanh nghiệp không thu xếp tái bảo hiểm được và phải gánh chịu toàn bộ tổn thất nếu xảy ra, có trường hợp sẽ vượt quá khả năng thanh toán của doanh nghiệp [40, tr.13]. * Cạnh tranh về chi trả hoa hồng Hoa hồng là khoản chi phí mà các công ty trả cho đại lý để bù đắp các chi phí tìm kiếm, khai thác dịch vụ. Tỷ lệ hoa hồng chi trả cho đại lý khai thác dịch vụ BH được qui định tại Thông tư số 99/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 của Bộ Tài chính. DNBH không được phép chi trả hoa hồng trực tiếp cho khách hàng tham gia BH, tuy nhiên trên thực tế hầu như không có DNBH Việt Nam nào thực hiện nghiêm túc qui định này. Để thu hút khách hàng, các DNBHPNT chi trả hoa hồng trực tiếp cho khách hàng dưới các hình thức khác nhau và với tỷ lệ cao hơn nhiều so với mức Bộ Tài chính qui định. Và để hợp lý hoá khoản chi này, nhiều DN đã biến tướng hoa hồng thành nhiều dạng khác nhau. Về mặt hình thức, các DN ký hợp đồng với các đại lý thực chất không tham gia khai thác dịch vụ để làm trung gian nhận hoa hồng cho phù hợp với qui định; về mặt nội dung, phần tỷ lệ hoa hồng cao hơn so với mức qui định được các DNBH lấy từ khoản chi khác (chi giao dịch, tiếp khách..,) để bù đắp, điều này làm tăng tỷ lệ chi phí hoạt động kinh doanh BH, giảm sức cạnh tranh của DN, tạo thói quen xấu đối với thị trường và người tham gia BH. Mới đây, nhằm ngăn chặn tình trạng và chi trả hoa hồng sai đối tượng, Bộ tài chính đã quyết định nâng tỷ lệ hoa hồng BH hàng hoá gấp 3 lần, từ 2% lên 6%. Tuy nhiên, hoa hồng BH vẫn còn khá thấp, chưa đủ sức tạo ra những đại lý BH chuyên nghiệp thực sự. * Cạnh tranh về sản phẩm bảo hiểm Do không còn tình trạng độc quyền nên các DNBH đã chú trọng hơn đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm quyền lợi cho các khách hàng tham gia BH, nghiên cứu phát triển thêm nhiều sản phẩm mới, trách nhiệm và nghĩa vụ của người tham gia BH cũng được phân định rõ ràng. Sự thay đổi trên đã mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Có thể nói cạnh tranh bằng sản phẩm BH là biểu hiện lành mạnh của thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay các DNBH đã cung cấp nhiều sản phẩm không đúng với phạm vi nghiệp vụ BH; có điều kiện chỉ áp dụng cho một loại nghiệp vụ nhất định thì các DN đã áp dụng cho nhiều nghiệp vụ khác hoặc có những sửa đổi, bổ sung không cần thiết. Ví dụ: Kết hợp cả BH thân vỏ Conteiner của người chuyên chở với hàng hóa của chủ hàng. Trong bối cảnh thị trường đang phát triển, trình độ hiểu biết và nhận thức của khách hàng về BH còn hạn chế nhưng điều kiện để tiếp cận thông tin và lựa chọn sản phẩm của các DNBH đối với khách hàng vô cùng phong phú, nếu các DNBH tiếp tục chào bán các sản phẩm tuỳ tiện, không đúng với bản chất của từng loại nghiệp vụ BH sẽ để lại hậu quả xấu cho thị trường. * Cạnh tranh trong khâu giải quyết bồi thường Giải quyết bồi thường là quá trình DNBH thực hiện cam kết của mình đối với khách hàng khi xảy ra sự kiện BH. Thông qua chất lượng công tác bồi thường, DNBHPNT khẳng định vị thế và uy tín của mình, tăng cường và thắt chặt mối quan hệ với khách hàng. Tuy nhiên, nhiều khách hàng lợi dụng tình trạng cạnh tranh gay gắt trên thị trường BH để gây sức ép, đòi hỏi DNBH giải quyết bồi thường hơn mức tổn thất thực tế hoặc tìm cách để được bồi thường ngay cả khi tổn thất không thuộc phạm vi BH. Trong trường hợp này để cạnh tranh và giữ khách, các DNBH thường sử dụng đến giải pháp “bồi thường thương mại” - tức là DNBH vẫn giải quyết bồi thường khi hồ sơ khiếu nại của khách hàng còn chưa đầy đủ hoặc có tổn thất trong thực tế nhưng không thuộc phạm vi BH. Việc đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng trong khiếu nại đòi bồi thường cũng chính là một hình thức tiếp tay cho việc trục lợi BH. Đây là một việc làm tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh nhưng thực tế trên thị trường vẫn tồn tại tương đối phổ biến hiện tượng này, đặc biệt đối với các DNBHPNT nhỏ. Bên cạnh những chiêu thức cạnh tranh nói trên thì hiện nay các DNBHPNT còn cạnh tranh với nhau thông qua sự can thiệp hành chính. Các DNBH trong ngành thường được ngành tạo điều kiện và lợi thế để cung cấp dịch vụ BH cho các DN khác trực thuộc ngành hoặc qua mối quan hệ tạo điều kiện qua lại; một số DNBH đã được lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh BH thông qua sức ép hành chính xuống các đơn vị trực thuộc. Điều này hạn chế khả năng tiếp cận khách hàng của các DNBH khác, đồng thời các DNBH được hỗ trợ sẽ sử dụng lợi thế của mình để hoạt động mà không quan tâm đến việc cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng phục vụ, tăng cường năng lực cạnh tranh, mở rộng phạm vi hoạt động phục vụ lợi ích chung của nền kinh tế. Nhìn vào thực tế những gì đang diễn ra trên thị trường BHPNT, có thể thấy còn có không ít những động thái trong hoạt động kinh doanh không lành mạnh và đi trái với thoả thuận đã được các bên cùng cam kết. Tình trạng này là do rất nhiều nguyên nhân như: Hệ thống pháp lý về kinh doanh BH còn thiếu và chưa đồng bộ; các biện pháp chế tài còn chưa đủ mạnh nên dẫn tới hiện tượng các DNBHPNT vẫn vi phạm các thoả thuận về hợp tác và vẫn có hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh; Chế độ báo cáo thống kê định kỳ chưa được các DN thực hiện triệt để; Quản lý Nhà nước về kinh doanh BH chưa theo kịp sự phát triển của thị trường, phương thức kiểm tra, giám sát còn nặng về hành chính, Tuy nhiên tất cả những nỗ lực nhằm bổ sung và hoàn thiện môi trường pháp lý trong hoạt động kinh doanh BH, tất cả những cố gắng của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đều sẽ không mang lại hiệu quả thực sự nếu mỗi DNBH không thực hiện nghiêm những qui định của pháp luật và những thoả thuận mà các DN đã cùng nhau thống nhất. Nếu cứ kéo dài thực trạng cạnh tranh như hiện nay, các DNBH cũng sẽ “kiệt sức” và tất yếu nảy sinh các hành vi tiêu cực. 2.2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam hiện nay Năng lực cạnh tranh của các DNBH được cấu thành bởi các yếu tố : Thương hiệu DN (thể hiện qua doanh thu, thị phần, tốc độ tăng trưởng), năng lực tài chính, nguồn lực con người và kinh nghiệm hoạt động khai thác sản phẩm và đầu tư. Thông qua việc đánh giá các yếu tố này có thể thấy rõ năng lực cạnh tranh của các DNBHPNT Việt Nam trong thời gian vừa qua. Cụ thể như sau: 2.2.2.1. Doanh thu, thị phần, tốc độ tăng trưởng Sau hơn 10 năm hoạt động, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào tăng nhanh, đến cuối năm 2006 thị trường BHPNT Việt Nam đã có 21 công ty tham gia kinh doanh bao gồm: 1 doanh nghiệp Nhà nước, 11 công ty cổ phần, 4 công ty liên doanh, 5 công ty 100% vốn nước ngoài. Các DNBHPNT của Việt Nam tương đối nhanh nhạy trong việc nắm bắt nhu cầu đa dạng của thị trường, hàng loạt các sản phẩm BHPNT mới được ra đời, kết quả là doanh thu phí BHPNT ngày một tăng, đóng góp đáng kể vào GDP. Nếu năm 2003 doanh thu BH gốc toàn thị trường là 3.875 tỷ VNĐ, năm 2005 là 5.486 thì đến năm 2006 đã đạt tới 6.360 tỷ VNĐ tăng 16% so với năm 2005 (chưa tính đến doanh thu của Công ty bảo hiểm Toàn Cầu: 46 tỷ và AIG). Trong đó dẫn đầu là Bảo Việt Việt Nam với 2.217 tỷ VNĐ, tiếp đến là Bảo Minh 1.386 tỷ VNĐ, PVI là 1.163 tỷ VNĐ... Riêng trong 3 tháng đầu năm 2007 đạt tới 1.794 tỷ VNĐ, tăng 20,25% so với cùng kỳ năm 2006. Có thể thấy rõ doanh thu và tốc tăng trưởng của thị trường BHPNT Việt Nam qua Bảng 2.5 sau đây: Biểu 2.5: Doanh thu và tốc độ tăng trưởng của DNBPNT Việt Nam giai đoạn 2003-2006 Doanh nghiệp 2003 2004 2005 2006 Qúy I 2007 I. Doanh thu (tỷ đồng) 3.875 4.768 5.486 6.360 1.794 Bảo Việt 1.618 1.929 2.119 2.217 444 Bảo Minh 873 1.058 1.178 1.386 357 PJICO 334 600 710 670 165 PVI 538 552 710 1.163 543 PTI 156 208 265 281 58 Bảo Long 57 93 113 111 27 Các DN còn lại 299 328 391 532 200 II. Tốc độ tăng trưởng (%) 48 23 15 16 20,25* Bảo Việt - 19 0,98 4,63 - Bảo Minh - 21 11 17,64 - PJICO - 79,6 18 -5,69 - PVI - 0,26 28,6 63,79 - PTI - 33 27 5,91 - Bảo Long - 63 21 -1,65 - Các DN còn lại - 0,96 19 36,06 - Ghi chú: Tốc độ tăng trưởng 3 tháng đầu năm 2007 tăng 20,25 so với cùng kỳ năm 2006 Nguồn: [48]; [13, tr.72-73]; [14, tr.32-33]. Thương hiệu của các DNBHPNT ngày càng được chú trọng hơn, điều đó được thể hiện thông qua cuộc bình chọn các thương hiệu mạnh do Thời báo Kinh tế Việt Nam tổ chức, trong đó PJICO hai năm liền (2004, 2005) là DN được bình chọn, và đến năm 2006 PVI "lên ngôi".. Ngoài ra, ở Việt Nam có 4 DNBHPNT là: Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO và PVI được cấp chứng chỉ ISO 9000 - bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất lượng nhằm đưa ra các chuẩn mực cho hệ thống chất lượng. Việc DNBHPNT Việt Nam được bình chọn thương hiệu mạnh và cấp chứng chỉ ISO 9000 thể hiện khả năng của DN đó đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời nâng cao vị thế của DN trên thị trường. Chính thương hiệu mạnh đã góp phần mang lại thị phần lớn cho các DNBHPNT. Có thể thấy rõ thị phần của các DNBHPNT Việt Nam qua biểu số liệu 2.6 sau: Biểu 2.6: Thị phần của các DNBHPNT giai đoạn 2003 - Qúy 1/2007 TT Doanh nghiệp Thị phần( %) 2003 2004 2005 2006 Qúy I 2007 1 Bảo Việt 41,75 40,46 38,63 34,87 24,77 2 Bảo Minh 22,53 22,19 21,75 21,80 19,90 3 PJICO 8,62 12,58 13,37 10,54 9,24 4 PVI 13,88 11,58 12,48 18,31 30,28 5 PTI 4,03 4,36 4,66 4,42 3,25 6 Bảo Long 1,47 1,95 1,92 1,76 1,53 7 Các DN còn lại 7,72 6,88 7,19 8,3 11,03 Nguồn: [47]; [13, tr.73]; [14, tr.33]. Từ kết quả bảng trên có thể thấy, doanh thu và thị phần của hai DN lớn là Bảo Việt và Bảo Minh rất cao, chiếm tới 57% tỷ trọng toàn thị trường (năm 2006). Nhưng chỉ trong 3 tháng đầu năm 2007 PVI đã vượt lên dẫn đầu toàn thị trường với 30,28% thị phần. Điều đó cho thấy thương hiệu của các DN này trên thị trường BHPNT Việt Nam. Tuy nhiên, việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường DVBH đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của thị trường BH Việt Nam. Cùng với số lượng tăng lên của các sản phẩm BH, sự xuất hiện của những gương mặt mới trên thị trường DVBH kể từ năm 1994 đã làm thay đổi thị phần trên thị trường này. Năm 1995, thị phần của Bảo Việt là 82%, Bảo Minh là 16%, 2% còn lại là của các DNBH khác, đến nay thị phần của hai DN này đã giảm đi đáng kể, đó cũng là quy luật tất yếu. Ngoài ra các DNBH cổ phần lớn như PJICO, PTI ...cũng đang dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Có thể nói, hiện nay doanh thu của các DNBHPNT Việt Nam chiếm thị phần đa số (khoảng 90% doanh số của toàn thị trường). Sở dĩ các DNBHPNT Việt Nam trong những năm gần đây đạt được mức phí BH cao như vậyclà do nhiều nguyên nhân trong đó có hai nguyên nhân cơ bản là: do số lượng các DNBHPNT nước ngoài trên thị trường Việt Nam còn ít (chỉ có 5 DN 100% vốn nước ngoài) và do hiện nay các DNBHPNT nước ngoài bị hạn chế phạm vi kinh doanh trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ BH, họ chỉ được khai thác một số sản phẩm BH nhất định. Tất cả những điều này trong thời gian tới sẽ không còn nữa vì Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, các DN Việt Nam trong thời gian tới sẽ đứng trước áp lực cạnh tranh rất lớn bởi vì khi đó Chính phủ Việt Nam phải tuân theo những lộ trình mở cửa như đã cam kết. Đối với nhiều lĩnh vực BH như: BH trách nhiệm, BH cho những công trình trọng điểm, BH cho lĩnh vực có vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và một số loại hình BH kỹ thuật trong những năm vừa qua không cho phép các DNBHPNT nước ngoài khai thác thì chắc chăn rằng đến ngày 01/10/2007 khi hiệp định song phương BTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được 6 năm, đồng nghĩa với việc thị trường BH nước ta phải “mở toang cánh cửa” để cho các công ty BH Hoa Kỳ và DNBH các nước khác cạnh tranh “sòng phẳng” với các DNBHPNT của nước ta. Vì vậy các DNBHPNT Việt Nam cần phải nhìn lại mình cũng như phải chấp nhận cuộc chơi với các DNBH nước ngoài trước thềm hội nhập. Đồng thời các cơ quan chức năng và các DNBHPNT Việt Nam cũng cần phải chủ động đánh giá lại những vấn đề còn tồn tại. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước cần phải hoàn thiện khung pháp lý của hoạt động kinh doanh BH cho phù hợp với đặc thù và bản chất của lĩnh vực dịch vụ đặc biệt này nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và giám sát DNBH. 2.2.2.2. Năng lực tài chính Năng lực tài chính của DNBH được xem xét chủ yết qua các chỉ tiêu như: khả năng về vốn, trích lập các qũy dự phòng và hoạt động tái BH. Cụ thể như sau: * Khả năng về vốn của các DNBH: Hiện nay, quy mô vốn của các DNBHPNT Việt Nam còn hạn chế, tương quan về vốn và thị phần giữa các DNBHPNT có vốn nước ngoài và các DNBHPNT của Việt Nam có sự chênh lệch tương đối đáng kể. Theo quy định của "Luật kinh doanh bảo hiểm", yêu cầu về vốn pháp định đối với các DNBH như sau: TT Loại hình doanh nghiệp Mức vốn pháp định 1 2 3 DNBHPNT DNBHNT Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 140 tỷ VNĐ hoặc 10 triệu USD 70 tỷ VNĐ hoặc 5 triệu USD 4 tỷ VNĐ hoặc 300.000 USD Trước năm 2002, một số DNBHPNT hoạt động trên thị trường có mức vốn điều lệ dưới 70 tỷ VN đồng (Bảo Long: 24 tỷ, PJICO: 55 tỷ, PTI: 64 tỷ). Sau khi “Luật kinh doanh bảo hiểm” có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn thi hành luật được ban hành, để đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định, đồng thời để tăng khả năng về tài chính, các DN đã chú trọng tới việc tăng vốn điều lệ dưới nhiều hình thức như phát hành cổ phiếu... Dưới đây cho biết tiềm lực về vốn của các DNBHPNT Việt Nam. Biểu 2.7: Thực trạng về vốn của các DNBHPNT trên thị trường bảo hiểm Việt Nam Đơn vị: tỷ VNĐ TT Doanh nghiệp Vốn điều lệ 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1 Bảo Việt Việt Nam 586 586 - 900 900 900 2 Bảo Minh - - - 1.100 1.100 1.100 3 PJICO 55 70 70 70 70 140 4 PVI - - - 100 100 150 5 PTI 64 70 70 70 70 105 6 Bảo Long 24 50 50 70 70 160 Nguồn: [48]; [31, tr.33]. Như vậy, các DNBHPNT đã đáp ứng được yêu cầu của Nghị định 43/2001/NĐ-CP quy định các DNBH có số vốn thấp hơn mức vốn pháp định trong thời hạn 03 năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực (ngày 15/08/2001) phải bổ sung vốn điều lệ không thấp hơn vốn pháp định. Với số vốn như trên, thì ngoài các DNBH là Bảo Việt, Bảo Minh và PVI thì các DNBHPNT còn lại mới chỉ đáp ứng được yêu cầu về vốn pháp định. Mà lượng vốn để cho các DN hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhằm tăng khả năng cạnh tranh và năng lực tài chính thì cần phải lớn hơn rất nhiều. So với các DN Nhà nước và các DN có vốn đầu tư nước ngoài thì khả năng về vốn của các DNBH cổ phần còn rất khiêm tốn. Chính điều này đã khiến cho khách hàng chưa thực sự yên tâm khi tham gia bảo hiểm. Sở dĩ có tình trạng trên là do những nguyên nhân sau: - Một là, do mức vốn pháp định trước đây quy định nhỏ (20 tỷ VNĐ hoặc 2 triệu USD đối với DNBH Việt Nam và Công ty liên doanh - Điều 22 Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993) . Điều này đã hạn chế qui mô về vốn của các DNBH, khiến các DN này khó có thể theo kịp yêu cầu về vốn khi “Luật kinh doanh bảo hiểm” được ban hành có hiệu lực. - Hai là, các DNBH chưa chú trọng tới việc tăng vốn mà chỉ mới chú trọng tới việc khai thác, mở rộng thị phần. Cho tới hiện nay, việc tăng vốn điều lệ của các DNBH thực hiện phần nào còn mang tính đối phó, chỉ cần huy động vốn đủ theo yêu cầu của "Luật kinh doanh bảo hiểm". Ngoài ra các DNBH cổ phần còn phải chịu sức ép duy trì và tăng trưởng ổn định lợi tức cổ phần của các cổ đông, đây là khó khăn đối với các DNBHPNT cổ phần khi muốn tăng vốn chủ sở hữu để tăng năng lực tài chính của DN mình. Đặc biệt là đối với các DNBHPNT cổ phần, số vốn nhỏ đã hạn chế khả năng nhận BH và tỷ lệ phí giữ lại còn thấp. DNBH còn phải phụ thuộc nhiều vào tái BH khi khai thác dịch vụ. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các DN. * Tình hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan