MỤC LỤC
Trang phụbìa
Lời cam đoan
MỤC LỤC
Danh mục các bảng, hình vẽ
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG MỘT .1
NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ HỆ THỐNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG
LỰC CẠNH TRANH CỦA MỘT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN N7
1.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh.7
1.2 Hệthống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại cổphần.9
1.2.1 Các chỉtiêu đánh giá năng lực cạnh tranh nội tại của một ngân hàng thương mại.10
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTM.17
KẾT LUẬN CHƯƠNG MỘT.12
CHƯƠNG HAI .19
HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG TMCP SÀI
GÒN (SCB) ).19
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của SCB.19
2.1.1 Giới thiệu chung vềSCB.19
2.1.2 Lịch sửhình thành và phát triển.20
2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của SCB.21
2.2.1 Năng lực tài chính.21
2.2.2 Năng lực vềcông nghệ.31
2.2.3 Nguồn nhân lực.32
2.2.4 Năng lực quản lý và cơcấu tổchức.36
2.2.5 Mức độ đa dạng hóa sản phẩm dịch vụvà chất lượng phục vụkhách hàng42
2.2.6 Tình hình cạnh tranh và hợp tác giữa SCB với các ngân hàng thương mại trong nước.44
2.2.7 Phân tích những tác động hội nhập đến năng lực cạnh tranh của SCB.45
2.2.8 Những lợi thếvà thách thức vềmặt cạnh tranh trong quá trình hội nhập.47
KẾT LUẬN CHƯƠNG HAI.54
CHƯƠNG BA .55
GIẢI PHÁP CẢI THIỆN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN N.55
3.1. Tăng vốn điều lệ.55
3.2. Nâng cao chất lượng tài sản có.58
3.2.1 Đẩy mạnh giải quyết nợxấu.58
3.2.2 Tăng cường chất lượng tài sản có, đặc biệt là chất lượng tín dụng và nâng
cao chất lượng hoạt động quản tín dụng.58
3.2.3 Nâng cao mức sinh lời.59
3.3 Tăng cường khảnăng thanh khoản.60
3.4 Nâng cao năng lực công nghệ.61
3.5 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực .62
3.5.1 Xây dựng một hệthống phương pháp luận, các công cụ, phương tiện đánh giá
và tuyển dụng nhân sựminh bạch và khoa học.63
3.5.2 Xây dựng cơchếdãi ngộminh bạch nhằm khuyến khích nhân tốtích cực và giảm thiểu rủi ro.64
3.5.3 Nâng cao chất lượng, hiệu quảcủa công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học ứng dụng .65
3.5.4 Các giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng đội ngũnguồn nhân lực.66
3.5.5 Xây dựng một nền văn hóa ngân hàng thân thiện.67
3.6. Nâng cao năng lực quản lý .68
3.6.1 Nâng cao chất lượng độngũnhân sựquản lý.68
3.6.2 Nâng cao chất lượng và hiệu quảcông tác điều hành.69
3.7. Đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng phục vụkhách hàng .70
3.7.1 Đa dạng hóa sản phẩm.70
3.7.2 Giải pháp nâng cao chất lượng phục vụkhách hàng.71
3.8. Xây dựng chiến lược cạnh tranh cho ngân hàng.73
KẾT LUẬN CHƯƠNG BA.68
KẾT LUẬN CHUNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤLỤC
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn -Thực trạng và các giải pháp cải thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lãnh đạo SCB đã có sự nhận thức rõ hơn về vấn đề này và đã từng bước nỗ lực
chủ động trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Những quyết định về đầu tư đổi
mới và hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng, cải tiến
phương thức tổ chức quản lý là những minh chứng cho sự thay đổi tư duy này. Đây
là tiền đề quan trọng để SCB tiếp tục đổi mới và cải tiến nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình trong thời gian tới.
2.2.4.2 Cơ cấu tổ chức
Hình 4: Sơ đồ tổ chức Hội sở của SCB
(xin xem hình ở trang tiếp theo)
38
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2007 của SCB)
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT
TỔNG GIÁM ĐỐC
BAN THƯ KÝ
BAN ĐH
PHÒNG
MARKETING
PTGĐ
KHỐI KHÁCH
HÀNG DN
PTGĐ
KHỐI BÁN LẺ
KẾ TOÁN
TRƯỞNG
PTGĐ
KHỐI VẬN
HÀNH
PTGĐ
KHỐI CÁC
NGHIỆP VỤ HỖ
PTGĐ
KHỐI QUẢN
TRỊ RỦI RO
PHÒNG ĐẦU TƯ
P.TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP
P. NGHIÊN CỨU PTSP DN
PHÒNG TÍN DỤNG CÁ NHÂN
P. DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG
P. NGHIÊN CỨU PTSP CÁ NHÂN
P. CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
P. NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
P.HÀNH CHÍNH QUẢN TRỊ
P. PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI
PHÒNG PHÁP CHẾ
P. KẾ TOÁN TÀI CHÍNH TỔNG HỢP
P. QUẢN LÍ RỦI RO TÍN
P. QUẢN LÍ RỦI RO VẬN HÀNH
P. QUẢN LÍ RỦI RO THỊ TRƯỜNG
P. NGUỒN VỐN & KDNGOẠI HỐI
TRUNG TÂM THANH TOÁN
PHÒNG NGÂN QUỸ
P. NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
TRUNG TÂM
ĐÀO TẠO
PHÒNG TỔ
CHỨC NHÂN SỰ
PHÒNG KIỂM
SOÁT NỘI BỘ
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
39
Sau một thời gian dài triển khai áp dụng thí điểm mô hình tổ chức mới do
trung tâm đào tạo ngân hàng (BTC) và công ty tài chính quốc tế (IFC) tư vấn, SCB
đã không thành công và hiện tại đã điều chỉnh lại mô hình tổ chức mới phù hợp hơn
với quy mô và yêu cầu hoạt động của mình.
Mô hình tổ chức hiện nay của SCB còn nhiều mặt hạn chế. Có một số phòng,
ban đảm nhận một số ít nhiệm vụ mà đáng lẽ ra có thể gộp chức năng nhiệm vụ của
các phòng ban này vào một số các phòng ban khác. Việc làm này giúp cho bộ máy tổ
chức được tinh gọn, tiết kiệm bớt chi phí lương.
Một số Phó Tổng giám đốc chỉ phụ trách một đến hai phòng nghiệp vụ với
chức năng nhiệm vụ không phức tạp. Cần phải tinh giảm bớt số lượng chức danh
Phó Tổng giám đốc phụ trách các phòng ban này. Việc làm này cũng làm tinh gọn
hơn bộ máy lãnh đạo cao cấp, tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả hoạt động.
2.2.4.3 Cơ chế thưởng
Từ năm tài chính 2005, Hội đồng quản trị SCB đã xin chủ trương thưởng 20%
phần lợi nhuận trước thuế vượt kế hoạch chỉ tiêu cho Ban điều hành và Hội đồng
quản trị và đã được thông qua. Trên cơ sở này, Ban điều hành và hội dồng quản trị
cũng có chính sách tương tự sẽ thưởng 20% phần lợi nhuận trước thuế vượt chỉ tiêu
kế hoạch năm cho chi nhánh. Chính sách này rất hấp dẫn và có tác dụng rất tích cực
trong việc khuyến khích ban lãnh đạo các cấp và toàn thể nhân viên cố gắng làm việc
để đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch năm. Bên cạnh những tác động tích cực do chính
sách này mang lại thì bản thân nó cũng tiềm ẩn những nguy cơ tiêu cực nếu không đi
kèm với những biện pháp chế tài đối những cá nhân, tập thể có trách nhiệm liên quan
với việc thực hiện những hoạt động có mức độ rủi ro cao nhằm đạt được mức lợi
nhuận trước mắt trong năm tài chính và trong nhiệm kỳ ngắn của mình.
2.2.4.4 Công cụ và chính sách quản lý
Một điểm yếu rất lớn về năng lực quản lý của các ngân hàng thương mại Việt
Nam nói chung và của bản thân SCB nói riêng chính là việc thiếu trầm trọng những
công cụ và chính sách quản lý tiên tiến và hiệu quả. Điều này được thể hiện rất rõ
trong mảng tín nghiệp vụ tín dụng và đầu tư. Cho đến hiện nay, SCB vẫn chưa bắt
40
tay việc xây dựng một cuốn cẩm nang tín dụng theo hướng đưa ra những tiêu chuẩn
cụ thể để xét duyệt một khoản vay theo một chuẩn mực quốc tế một cách cụ thể, đầy
đủ và khoa học để áp dụng phổ biến cho tất cả các nhân viên tín dụng, làm kim chỉ
nam trong việc thẩm định tín dụng nhằm nâng cao chất lượng ra quyết định cấp tín
dụng từ đó góp phần kiểm soát, quản lý rủi ro tín dụng đồng thời nâng cao chất
lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho ngân hàng.
Hiện tại, SCB vẫn chưa hoàn tất việc xây dựng quy chế hoạt động của hội
đồng quản lý tài sản nợ và tài sản có (gọi tắt là hội đồng ALCO) để tham mưu giúp
ban điều hành nâng cao chất lượng ra quyết định trong công việc quản lý hàng ngày.
Hệ thống thông tin báo cáo còn chồng chéo, chưa đầy đủ, chưa kịp thời cung
cấp cho các cấp lãnh đạo những biến động liên quan và có ảnh hưởng đến giá trị tài
sản của ngân hàng. Chất lượng thông tin của các báo cáo còn thấp, không đáp ứng
yêu cầu phục vụ cho công tác quản trị điều hành. Chính điều này cũng gây nên
những thiệt hại không nhỏ trong tình hình kinh tế vĩ mô biến động thất thường và
phức tạp như trong thời gian vừa qua do chất lượng ra quyết định của ban lãnh đạo
thấp vì thông tin được cung cấp vừa thiếu vừa lạc hậu và vừa thiếu chính xác.
Hệ thống kiểm toán, kiểm tra-kiểm soát nội bộ hoạt động chưa thật sự hiệu
quả. Sự phân định chức năng, nhiệm vụ của bộ phận kiểm toán và kiểm tra - kiểm
soát nội bộ chưa rõ ràng nên chưa phát huy được vai trò của các bộ phận này. Theo
các chuẩn mực quốc tế thì chức năng kiểm toán nội bộ và kiểm tra - kiểm soát nội bộ
có sự tách bạch rất rõ ràng. Kiểm tra - kiểm soát nội bộ là công cụ của ban điều hành
nhằm đảm bảo việc tuân thủ những chính sách và thủ tục, ngăn chặn những hành
động lạm dụng và vi phạm quy chế, quy trình cũng như tăng cường công tác quản lý
rủi ro và điều hành trong toàn hệ thống. Còn nhiệm vụ của bộ phận kiểm toán nội bộ
là đảm bảo tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính do bộ phận kế toán lập
để cung cấp cho ban điều hành theo định kỳ hoặc tiến hành những cuộc kiểm tra cụ
thể theo yêu cầu của ban điều hành để bảo đảm chất lượng của các báo cáo tài chính
thường niên. Hiện tại, chức năng, nhiệm vụ của bộ phận kiểm toán nội bộ và bộ phận
kiểm tra - kiểm soát nội bộ của SCB có những mảng bị chồng chéo nhau, dẫn đến sự
41
lãng phí cũng như sự phiền hà cho các đối tượng bị kiểm tra, làm giảm hiệu quả hoạt
động của hai bộ phận này. Hoạt động của bộ phận kiểm tra-kiểm soát nội bộ ở cấp
chi nhánh chưa hoạt động thực sự hiệu quả nên công tác báo cáo còn nhiều bất cập.
Các cơ chế riêng biệt cho hoạt động quản lý rủi ro, kiểm tra-kiểm soát nội bộ và các
hệ thống báo cáo chưa được củng cố, hoàn thiện nhằm đảm bảo sự tuân thủ các quy
chế, quy trình nhằm ngăn chặn sự vi phạm và lạm dụng của các bộ phận tác nghiệp.
Nhiều mảng quy trình nghiệp vụ hướng dẫn cụ thể cũng chưa được ban hành.
Đặc biệt là quy trình liên quan đến hoạt động giám sát và quản lý rủi ro, mặc dù đã
SCB có khối quản trị rủi ro do một Phó Tổng giám đốc phụ trách.
Chiến lược kinh doanh còn chung chung, công tác lập kế hoạch và chiến lược
kinh doanh còn chưa được tiến hành một cách bài bản và chuyên nghiệp. Sự phát
triển của bất kỳ một ngân hàng nào cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc ngân hàng đó
có khả năng hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh và cạnh tranh đúng đắn
hay không. Kế hoạch và chiến lược kinh doanh càng cụ thể, rõ ràng thì càng dễ dàng
được nhận thức và được cụ thể hóa bằng những chiến thuật, chính sách và giải pháp
kinh doanh khả thi và hiệu quả.
SCB chưa có định hướng rõ ràng và nhất quán về thị trường mục tiêu và chiến
lược phát triển bằng việc cụ thể hóa đối tượng khách hàng, loại hình sản phẩm cơ
bản, địa bàn cơ bản cho kế hoạch kinh doanh của mình.
Một thực tế là trong thời gian qua, do tiềm năng phát triển của thị trường
tương đối lớn, mức độ cạnh tranh trên thị trường chưa cao nên hầu hết các ngân hàng
trong đó có SCB đều thực hiện một chiến lược kinh doanh tương đối đơn giản là
cung cấp những sản phẩm dịch vụ mình sẵn có, khai thác những nguồn lực sẵn có
hiện hữu và nắm bắt những cơ hội ngẫu nhiên xuất hiện trên thị trường mà chưa thực
sự chú trọng đến nhu cầu của khách hàng cũng như chiến lược đầu tư lâu dài. Do đó
dẫn đến chiến lược kinh doanh của SCB vẫn còn mang tính thụ động, ứng phó tình
huống mà chưa có tính dài hơi.
Công tác xây dựng chiến lược kinh doanh và cạnh tranh ở SCB chưa thực sự
được chú trọng và tiến hành một cách bài bản. Hiện nay, ở SCB có bộ phận phân tích
42
thị trường và lập kế hoạch kinh doanh nhưng lại hoạt động riêng lẻ. Công tác phân
tích thị trường còn mang tính thụ động, nguồn thông tin phục vụ công tác phân tích
còn chưa đầy đủ và hầu hết là các thông tin thức cấp (qua báo chí và qua các báo cáo
của các cơ quan liên quan), công cụ phân tích còn nghèo nàn, lạc hậu. Chính vì thế
mà chất lượng thông tin mà ngân hàng có được thiếu về số lượng, yếu về chất lượng,
không mang tính hệ thống. Việc dựa trên những dữ liệu như thế để lập kế hoạch kinh
doanh và chiến lược kinh doanh là rất khó khăn. Công tác điều tra nghiên cứu thị
trường cho đến nay vẫn chưa được tiến hành một cách thường xuyên và bài bản,
mang tính chất manh mún, thiếu tính hệ thống, nhất là những nghiên cứu toàn diện
để phục vụ công tác lập chiến lược kinh doanh dài hạn.
2.2.4.5 Mạng lưới chi nhánh
Tính đến 31/12/2007, toàn hệ thống SCB có 42 điểm giao dịch bao gồm Hội
sở chính, 01 Sở giao dịch, 17 chi nhánh và 23 phòng giao dịch. Nếu so sánh với các
ngân hàng thương mại cổ phần khác thuộc nhóm 10 ngân hàng hàng đầu thì mạng
lưới của SCB cũng còn khá khiêm tốn. Với trình độ phát triển tương đối thấp của
ngành ngân hàng Việt Nam, cung cấp những sản phẩm dịch vụ truyền thống mà chủ
yếu là nhận tiền gửi và cho vay thì kênh phân phối là các điểm giao dịch đóng một
vai trò hết sức to lớn, quyết định quy mô phát triển và khả năng cạnh tranh của mỗi
ngân hàng. Nhược điểm trong việc phát triển mạng lưới của SCB là chưa nghiên cứu
kỹ đặc điểm thị trường trước khi quyết định mở một điểm giao dịch tại một địa bàn
nào đó. Việc tập trung mở các điểm giao dịch ở các địa bàn kinh tế trọng điểm như
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai,…còn chưa được ưu tiên
trở thành một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển mạng lưới của mình.
2.2.5 Mức độ đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và chất lượng phục vụ khách
hàng
Một ngân hàng thương mại được đánh giá là tiên tiến nếu tỷ lệ thu nhập từ các
hoạt động dịch vụ phi tín dụng chiếm tối thiểu là 30% trong tổng thu nhập của ngân
hàng. Tính đến thời điểm 31/12/2007, tỷ lệ thu nhập từ các hoạt động dịch vụ phi tín
dụng của SCB chỉ chiếm 14,6%, nguồn thu nhập có nguồn gốc tín dụng vẫn chiếm tỷ
43
trọng lớn trong cơ cấu thu nhập của ngân hàng. Tỷ lệ này ở các ngân hàng liên doanh
và chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm đến 40%-50%. Hiện nay, số lượng sản
phẩm dịch vụ mà SCB cung cấp được còn chưa đa dạng và phong phú. Rõ ràng đây
là một điểm bất lợi của SCB so với các ngân hàng đối thủ trong thị trường nội địa.
Đa dạng hóa và sản phẩm dịch vụ và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng được
xem là chìa khóa vàng để các ngân hàng thương mại nước ngoài thâm nhập vào thị
trường trong nước. Rất nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng là thế mạnh của các ngân
hàng nước ngoài lại là những dịch vụ rất mới mẻ đối với các ngân hàng thương mại
Việt Nam nói chung và với SCB nói riêng.
Nhận thức được mối đe dọa hiện hữu và áp lực cạng tranh đó, SCB cũng đã
và đang cố gắng mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ, tăng cường ứng dụng các
dịch vụ hiện đại đặc biệt là dịch vụ ngân hàng bán lẻ thông qua ứng dụng công nghệ
thông tin để cung cấp những sản phẩm như thẻ ATM đi kèm với các tiện ích bổ trợ
như cung cấp các dịch vụ thanh toán cước phí điện thoại, internet, tiền nước, tiền
điện…; cho phép khách hàng có thể gởi tiền một nơi nhưng rút được tiền nhiều nơi;
phát triển các dịch vụ như internet banking, phone banking, home banking...
Nhìn chung, trong thời gian qua SCB đã có sự nổ lực cố gắng để đa dạng hóa
dạn mục sản phẩm dịch vụ và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng nhưng vẫn
còn nghèo nàn về số lượng sản phẩm dịch vụ, chất lượng phục vụ khách hàng cũng
còn nhiều hạn chế. Mặc dù, SCB đã triển khai mô hình giao dịch một cửa nhằm gia
tăng sự tiện lợi cho khách hàng bằng cách giảm bớt thời gian giao dịch nhưng hiện
tại mô hình này chũng mới chỉ được áp dụng thành công ở Sở giao dịch thành phố
Hồ Chí Minh mà chưa triển khai rộng rãi cho toàn hệ thống.
Công tác quản lý khách hàng tuy đã có những đổi mới nhất định thông qua
việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức theo hướng khối khách hàng nhưng mô hình tổ chức
này cũng mới chỉ triển khai được ở hội sở mà chưa triển khai được ở cấp chi nhánh.
Việc này dẫn công tác quản lý và phục vụ khách hàng sẽ hạn chế. Nguyên nhân của
tình trạng này là do SCB chưa thục sự quan tâm đến công tác khách hàng và chưa
chủ động xác lập chiến lược khách hàng một cách cụ thể và rõ ràng.
44
2.2.6 Tình hình cạnh tranh và hợp tác giữa SCB với các ngân hàng thương
mại trong nước
Có thể phân chia các ngân hàng thương mại Việt Nam thành ba nhóm chính:
nhóm các ngân hàng thương mại quốc doanh, nhóm các ngân hàng thương mại cổ
phần và nhóm các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo báo
cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến cuối tháng 12/2007, hệ thống ngân hàng
Việt Nam bao gồm: 5 ngân hàng thương mại nhà nước (trong đó Ngân hàng Ngoại
thương đã cổ phần hoá), Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển, 6 ngân
hàng liên doanh, 36 ngân hàng thương mại cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài. Xét về số lượng có thể nói lĩnh vực ngân hàng Việt Nam có tính cạnh tranh
tuy nhiên mức độ cạnh tranh chưa cao. Các ngân hàng thương mại Việt Nam nói
chung và SCB nói riêng đều có những điểm tương đồng trong chiến lược phát triển,
sự phát triển theo chiều ngang và không có trọng điểm đã dẫn đến tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng với nhau. Nằm trong tình trạng chung đó,
SCB cũng tập trung khai thác những phân đoạn thị trường giống nhau, cung cấp
những sản phẩm dịch vụ tương tự nhau đã dẫn đến công cụ cạnh tranh chủ yếu là lãi
suất và phí dịch vụ. Theo cách nói của Michael Porter, đây là những công cu cạnh
tranh sơ cấp, về lâu dài sẽ không có lợi cho việc cải thiện năng lực cạnh tranh của bất
kỳ một định chế tài chính trung gian nào.
Sự hợp tác giữa SCB và các ngân hàng trong nước còn rất nhiều hạn chế,
chưa đi vào chiều sâu hợp tác và còn mang nặng tính hình thức. SCB đã lần lượt ký
hợp đồng hợp tác với các ngân hàng thương mại quốc doanh như Ngân hàng đầu tư
và phát triển Việt Nam-BIDV, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam-Agribank, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam-VCB và Ngân hàng thương mại
cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam-Eximbank. Nội dung của các khung hợp tác giữa
SCB và các đối tác trên tập trung chủ yếu vào việc hỗ trợ trong dịch vụ thanh toán
qua ngân hàng, hỗ trợ phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế, liên kết phát triển dịch
vụ thẻ, hỗ trợ nguồn vốn liên ngân hàng để đảm bảo nhu cầu thanh khoản cấp thời.
Với nhược điểm là hệ thống mạng lưới chưa phủ kín khắp nước nên sẽ hạn chế rất
45
nhiều cho SCB trong việc phát triển dịch vụ thanh toán, nhờ sự liên kết với BIDV và
Agribank để triển khai mạng thanh toán song biên đã giúp cho SCB phát triển mạnh
dịch vụ thanh toán trong nước khá mạnh dựa trên hệ thống mạng lưới chi nhánh phủ
rộng khắp các vùng miền trong cả nước.
2.2.7 Phân tích những tác động hội nhập đến năng lực cạnh tranh của SCB
Đối với hoạt động ngân hàng nói chung và đối với hoạt động SCB nói riêng,
hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạt động
kinh doanh ngân hàng. Những lợi ích mang lại từ hội nhập là rất lớn, cho phép các tổ
chức tín dụng nói chung và bản thân SCB nói riêng có điều kiện tranh thủ vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, có khả năng theo
kịp yêu cầu phát triển thị trường tài chính trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên bên
cạnh đó những thách thức từ hội nhập là không nhỏ, mà SCB bắt buộc phải chuyên
môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn,
nhanh chóng tiếp cận và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Qua đó, khai thác và
áp dụng hiệu quả hơn ưu thế của mình nhằm mở rộng thị phần trên thị trường tài
chính trong nước. Trong đó nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân mỗi ngân
hàng là vấn đề quan trọng, bởi thách thức lớn nhất của quá trình hội nhập quốc tế đối
với lĩnh vực hoạt động ngân hàng là năng lực cạnh tranh còn thấp kém của SCB cần
phải vượt qua.
Những tác động của hội nhập đối với các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng:
Khi hội nhập diễn ra những rào cản về pháp lý nhằm hạn chế các hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài và liên doanh được gỡ bỏ. Trong đó các
cam kết về thành lập và phát triển loại hình ngân hàng con 100% vốn nước ngoài,
ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam theo tỷ lệ vốn 30% - 49% sẽ được thực
hiện theo đúng lộ trình cam kết.
Các ngân hàng nước ngoài, liên doanh sẽ được cung cấp hầu hết các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng như các ngân hàng trong nước, trước mắt theo hiệp định thương
mại Việt –Mỹ, các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ được phép cung cấp 12
phân ngành dịch vụ ngân hàng theo lộ trình 7 mốc. Lộ trình này chỉ rõ mức độ tham
46
gia các loại hình dịch vụ ngân hàng và hình thức pháp lý mà các nhà cung cấp dịch
vụ Hoa Kỳ được phép hoạt động tại Việt Nam. Điều này cũng đồng nghĩa với việc
yêu cầu cắt giảm bảo hộ về kinh doanh dịch vụ ngân hàng đối với các NHTM trong
nước.
Loại bỏ dần những hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài, cho phép họ
được tham gia với mức độ tăng dần vào mọi hoạt động ngân hàng tại Việt Nam,
trong số này có một số loại hình dịch vụ trùng với lĩnh vực hoạt động của các
NHTM Việt Nam như: thanh toán quốc tế, đầu tư dự án, tài trợ thương mại. Ngoài ra
là hàng loạt nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại Việt Nam mà các NHTM nước
ngoài sẽ cung cấp như môi giới tiền tệ kinh doanh các sản phẩm phái sinh. Nhìn
chung, trong cạnh tranh các NHTM nước ngoài có nhiều ưu thế về công nghệ và
trình độ quản lý hơn hẳn các NHTM Việt Nam.
Sức ép cạnh tranh đối với các NHTM Việt Nam trong đó có SCB sẽ tăng lên
cùng với việc nới lỏng các qui định về hoạt động của các ngân hàng nước ngoài, nhất
là những ràng buộc về việc nhận tiền gửi VND, phát hành thẻ tín dụng và các máy
rút tiền tự động. Trong bối cảnh đó, thị phần của các NHTM Việt Nam sẽ bị thu hẹp
dần, nhất là tại các thành phố lớn và vùng kinh tế trọng điểm, đòi hỏi phải chủ động
đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý, hiện đại hóa hệ thống thanh
toán nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, tác động của hội nhập đến năng lực cạnh tranh và mức độ cạnh
tranh sẽ tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực sau:
+ Thị trường tín dụng, kể cả bán sỉ và bán lẻ. Cạnh tranh về cho vay sẽ trở
nên gay gắt khi các ngân hàng nước ngoài đã hiểu rõ thị trường Việt Nam và môi
trường pháp lý đảm bảo cho họ xử lý rủi ro để thu hồi nợ trong trường hợp cần thiết.
Trong đó, việc cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia hoạt động tái cấp vốn,
tái chiết khấu, swap, forward từ Ngân hàng Nhà nước (sau 3 năm kể từ ngày Hiệp
định có hiệu lực) sẽ giúp họ bù đắp một phần vốn huy động còn bị hạn chế bởi lộ
trình.
47
+ Giao dịch thanh toán và chuyển tiền. Đây là lĩnh vực có ưu thế của các ngân
hàng nước ngoài cả về loại hình và chất lượng dịch vụ. Sau khi có uy tín các ngân
hàng này sẽ thu hút một lượng đáng kể khách hàng Việt Nam.
+ Dịch vụ tư vấn, môi giới kinh doanh tiền tệ, phát triển doanh nghiệp. Lĩnh
vực hoạt động này cũng thu hút sự quan tâm của khách hàng Việt Nam, đặc biệt là
dịch vụ liên quan đến chiến lược hoạt động của doanh nghiệp.
Theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, giai đoạn I thực hiện các cam kết sẽ
kết thúc vào tháng 12/2004, tức là trước khi Việt Nam gia nhập WTO, giai đoạn này
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó là cơ hội để Việt Nam đúc kết kinh nghiệm và rút
ra bài học về hội nhập. Đây là giai đoạn khó khăn nhất đối với hệ thống ngân hàng
Việt Nam do phần lớn công việc liên quan đến việc thực thi Hiệp định tập trung vào
giai đoạn này. Sự cọ sát với các ngân hàng nước ngoài cũng sẽ là động lực thúc đẩy
công cuộc đổi mới và cải cách ngân hàng, nhất là trong việc nâng cao năng lực quản
lý điều hành, thiết lập các qui định an toàn trong hoạt động ngân hàng theo chuẩn
mực quốc tế, thúc đẩy thị trường tài chính phát triển đầy đủ và hiệu quả hơn.
Sức ép về mở rộng mạng lưới hoạt động tại Việt Nam dưới mọi hình thức,
nhất là ngân hàng bán lẻ của các ngân hàng nước ngoài khi hội nhập diễn ra: Theo
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, các ngân hàng Hoa Kỳ không bị hạn chế về hình
thức hiện diện, bao gồm cả mua cổ phần của NHTM nhà nước và mở rộng không
gian lắp đặt hệ thống ATM như NHTM Việt Nam; về địa giới hành chính, về số
lượng cho từng loại hình, nên các ngân hàng Hoa Kỳ có điều kiện tốt nhất trong quá
trình thu hút nguồn vốn VND thông qua huy động tiết kiệm dân cư và vốn nhàn rỗi
tạm thời của tổ chức phi kinh tế. Mở rộng hoạt động mới, nhất là dịch vụ thu phí như
thanh toán, chuyển tiền, tư vấn, môi giới, lưu ký, quản lý danh mục đầu tư của khách
hàng.
2.2.8 Những lợi thế và thách thức về mặt cạnh tranh trong quá trình hội nhập
2.2.8.1 Những lợi thế
Các ngân hàng thương mại nói chung và SCB nói riêng có ưu điểm nổi bật là
hiểu biết sâu sắc tâm lý, phong tục tập quán, thu nhập, văn hóa xã hội của khách
48
hàng, có một mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam, tạo thuận lợi
cho việc triển khai các sản phẩm dịch vụ của mình rộng rãi trên phạm vi toàn quốc
và cho phép khách hàng giao dịch tại bất cứ chi nhánh nào.
Với mô hình hoạt động công ty cổ phần nên SCB có khả năng linh hoạt trong
việc điều chỉnh quy mô hoạt động phù hợp với sự phát triển và những biến động từ
phía nền kinh tế. Đồng thời với mô hình cổ phần đã tạo cho các ngân hàng thương
mại nói chung và SCB nói riêng có khả năng tăng vốn cao, nhờ mối liên hệ hữu cơ,
bản chất với thị trường chứng khoán, luôn chứa đựng yếu tố cạnh tranh, thúc đẩy để
phát triển, đó chính là lợi thế chung nhất mà các ngân hàng thương mại cổ phần có
được.
Tính năng động, tự chủ cao trong hoạt động kinh doanh của SCB là một trong
những ưu thế của cạnh tranh. Chính mô hình tổ chức đã tạo điều kiện cho ngân hàng
xử lý, quyết định nhanh chóng những vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
trong hoạt động quản lý và hoạt động tài chính, ít phụ thuộc vào cơ quan quản lý cấp
trên như các ngân hàng khác. Điều này tạo ra sự khác biệt về khả năng thích ứng với
thị trường, với những biến động của thị trường và mang lại hiệu quả cao cho hoạt
động kinh doanh của SCB, nhờ nắm bắt kịp thời cơ hội kinh doanh. Trong khi đó các
ngân hàng khác thường có quyết định chậm hơn, thay đổi chậm hơn do các vấn đề về
tổ chức, thủ tục hành chính nặng nề, do mọi sự quyết định đều từ tập thể hội đồng
quản trị.
Mô hình vốn cổ phần là mô hình mà trong đó trách nhiệm và quyền lợi của
các cổ đông gắn liền với hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sự sống còn
và lợi ích kinh tế gắn bó giữa các thành viên tạo nên động lực thúc đẩy sự quan tâm
đến việc tăng năng suất lao động, giảm các chi phí quản lý và các chi phí khác để đạt
đến hiệu qủa cao là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó SCB với các chế độ ưu đãi về
thu nhập, thăng tiến đối với người lao động tạo nên sức thu hút nguồn lực lao động
chất lượng cao là lợi thế mà các ngân hàng khác còn những vướng mắc chưa giải
quyết được do cơ chế hiện hành. Ngoài ra còn phải kể đến một số lợi thế khác của
SCB như máy móc thiết bị, quyền phán quyết của nhân viên, cán bộ các cấp, …
49
thoáng hơn nhưng cũng chặt chẽ hơn trong thi hành công việc, là những lợi thế mà
hiện các ngân hàng khác chưa có được.
2.2.8.2 Những thách thức
Những thách thức chủ yếu trong quá trình hội nhập được chia làm 2 nhóm,
một là, những thách thức từ nội tại của ngân hàng; hai là, những thách thức từ bên
ngoài, nhất là trong điều kiện của nền kinh tế hội nhập khu vực và thế giới.
2.2.8.2.1 Thách thức từ nội tại của ngân hàng
Cũng như các NHTM trong nước, những yếu kém của bản thân SCB được thể
hiện trên các yếu tố:
Năng lực tài chính của SCB còn yếu, sức cạnh tranh còn kém, mặc dù cbản
thân SCB đã có kế hoạch rất cụ thể về việc tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành
thêm trái phiếu chuyển đổi và phát hành thêm cổ phiếu mới, nhưng vốn tự có của
SCB vẫn còn nhỏ và rất thấp so với tiêu chuẩn quốc tế.
Hầu hết các NHTM Việt Nam nói chung và SCB nói riêng có mô hình tổ
chức theo kiểu truyền thống là phân định các phòng, ban theo loại hình nghiệp vụ,
trong khi ở các ngân hàng tiên tiến, các hoạt động hướng tới khách hàng của họ lạo
được phân theo tiêu thức đối tượng khách hàng, sản phẩm nhằm đáp ứng tốt các yêu
cầu của khách hàng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Khi ngân hàng phát
triển với quy mô ngày càng lớn, khối lượng và tí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVCHK15TRUONG DOAN QUOC DUNG.pdf