Luận văn Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu

MỤC LỤC

5 7 TLỜI CẢM ƠN5 7 T . 2

5 7 TMỤC LỤC5 7 T . 3

5 7 TPHẦN MỘT: DẪN LUẬN5 7 T. 5

5 7 T1. Lý do chọn đề tài.5 7 T.5

5 7 T2. Lịch sử vấn đề5 7 T .7

5 7 T3. Phạm vi nghiên cứu5 7 T .16

5 7 T4. Phương pháp nghiên cứu.5 7 T.16

5 7 T5. Cấu trúc luận văn.5 7 T .17

5 7 TPHẦN HAI: NỘI DUNG5 7 T . 19

5 7 TCHƯƠNG I: TRUYỆN NGẮN VÀ VẤN ĐỀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN

VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN5 7 T .19

5 7 T1. Truyện ngắn là gì?5 7 T.19

5 7 T1.1. Khái niệm5 7 T.19

5 7 T1.2. Đặc trưng5 7 T .20

5 7 T2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện

ngắn5 7 T.22

5 7 T2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật5 7 T .22

5 7 T2.1.1. Nhân vật văn học5 7 T.22

5 7 T2.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học5 7 T.24

5 7 T2.2. Vấn đề nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn5 7 T.27

5 7 TCHƯƠNG II: CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN

MINH CHÂU5 7 T .30

5 7 T1. Xét từ góc độ phẩm chất, đặc điểm tính cách nhân vật và việc truyền đạt lý tưởng

của nhà văn, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu khắc họa thành công nhân vật chính

diện và nhân vật phản diện.5 7 T.30

5 7 T1.1. Nhân vật chính diện - nguồn cảm hứng và tấm lòng yêu mến của Nguyễn Minh

Châu.5 7 T.30

5 7 T1.2. Nhân vật phản diện - niềm căm phẫn của ngòi bút Nguyễn Minh Châu5 7 T.34

5 7 T2. Dựa vào nội dung cốt truyện, trong xu hướng vận động của nhân vật, truyện ngắn

sau 1975 của Nguyễn Minh Châu tập trung vào nhân vật bình thường trong cuộc

sống đời thường và nhân vật số phận5 7 T .36

5 7 T2.1. Nhân vật bình thường trong cuộc sống đời thường - một cách tiếp cận cận nhân

tình của Nguyễn Minh Châu5 7 T.36

5 7 T2.2. Nhân vật số phận - nỗi trăn trở của Nguyễn Minh Châu5 7 T.40

pdf75 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 11/09/2024 | Lượt xem: 31 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trần bản tính của "thủ trưởng Toàn". Tất cả hành động, thái độ của hắn, quả đúng hắn làmột con quỷ, "quỷ già đời" có một trái tim đá và lối sống làm thiệt hại đến bao người. Nối gót Toàn là đại đội trưởng Đỉnh, một con "quỷ tập sự". Y đã ích kỷ vì chút lợi lộc của bản thân mà phản lại bạn bè với thái độ bợ đỡ, hèn nhát. Y đã nhanh chóng trở mặt tuy còn hơi rụt rè. Chỉ vì muốn giành cái ghế tiểu đoàn phó mà y đã trở thành một cái máy nghèo nghĩ suy dưới bàn tay điều khiển của Toàn. Chỉ vì miếng ăn ngon mà y chấp nhận bị sĩ nhục dù có hơi e ngại. Việc làm nhơ nhớp của y - Nguyễn Minh Châu đã kinh tởm trên từng con chữ, ông đã mạnh dạn vạch trần sự thật đau lòng. Bên Đỉnh, bên Toàn còn có Thái, một chính ủy trung đoàn trong những ngày đầu kháng chiến nhưng sau đó lại có một thời gian chẳng mấy tốt đẹp gì. Rồi Thái lại lóp ngóp ngoi lên chuẩn bị sang cái ghế "chính ủy sư đoàn." Với câu nói cửa miệng "Tốt, tốt quá!", hắn như cái hình nộm biết cách luồn lách để tạo chỗ đứng cho mình. Qua cái vẻ đĩnh đạc, đàng hoàng giả tạo bên ngoài, con người thật của hắn bị lôi tuột ra ánh sáng hết sức bỉ ổi, cùng một xuồng. Nguyễn Minh Châu khi xây dựng nhân vật phản diện, ông đã bửa thẳng vào họ những nhát búa kinh hoàng. Nhà văn đã không ngần ngại vạch trần bản chất thối tha của lũ người hèn hạ ấy, qua đó người đọc thấy ở ông một tấm lòng đau đời, đau người đến uất ức, muốn vỡ tung trên từng câu chữ. 2. Dựa vào nội dung cốt truyện, trong xu hướng vận động của nhân vật, truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu tập trung vào nhân vật bình thường trong cuộc sống đời thường và nhân vật số phận 2.1. Nhân vật bình thường trong cuộc sống đời thường - một cách tiếp cận cận nhân tình của Nguyễn Minh Châu Nếu như trong thời chiến, cảm hứng ngợi ca dâng trào trên ngòi bút Nguyễn Minh Châu thì sau chiến tranh, quan điểm sáng tác của ông dần dần biến chuyển. Trở về cuộc sống thường nhật, tiếp xúc với những va chạm vụn vặt hàng ngày, với một khả năng nhạy cảm, quan sát tinh tế, Nguyễn Minh Châu đã đưa những mẩu chuyện rất bình thường, những điều hết sức quen thuộc, rõ ràng trước mắt vào trang văn, mà có khi, chính những điều dung dị ấy khiến người đọc giật mình. Nguyễn Minh Châu luôn yêu thương, trân trọng con người. Ông khát khao một cuộc sống mà mọi người, ít nhất, cần biết quan tâm đến nhau, sống có tình nghĩa. Với truyện Hương và Phai, nhà văn đã xây dựng những nét hồn nhiên, nhí nhảnh, giàu tưởng tượng và cũng rất láu lỉnh, ranh mãnh, tinh vi một cách dễ thương của hai cô bé. Chúng nhận định, phán xét và giải quyết mọi chuyện đều thông minh, bất ngờ nhưng cũng rất đáng yêu kiểu trẻ thơ. Anh Định và chị Phấn nên duyên chồng vợ là nhờ công mai mối, dàn cảnh rất khôn khéo của Hương và Phai. Song, điều đọng lại trong lòng người đọc không phải ở những nét ngây thơ đó mà là ở việc làm xuất phát từ tấm lòng của Phai. Trong ngày cưới chị, ngập tràn trong niềm vui vì hí hửng đã lập được "công trạng", được ăn ngon, được tha hồ xem cô dâu nhưng Phai cũng thoáng buồn vì hiếu rằng chị từ nay không ở nhà mình nữa. Với sự cảm nhận về cái phút cuối chị Phấn còn được ở trong gia đình mình, Phai trong suy nghĩ trẻ thơ đã muốn làm một cái gì đó để giữ chị lại. Và trong chuỗi mạch suy nghĩ, em đã quyết định cùng bạn mua cho chị bát bún riêu cua trước giờ chị lên xe hoa. Tâm lòng của hai em đã được người chị hiền lành đón nhận một cách trân trọng, quý mến. Sâu thẳm bên trong đó là những giây phút thấm đẫm tình người, là trái tim trong nhịp đập nghĩa tình của đứa trẻ khiến người đọc không khỏi xúc động, thương yêu. Nguyễn Minh Châu đã viết với tất cả tấm lòng yêu mến của mình. Ngòi bút của ông đã khắc họa thành công những nét tâm lý của trẻ con, qua cách nghĩ, cách xử sự hồn nhiên mà sâu sắc của hai đứa trẻ. Lũ trẻ ở dãy K là ước mơ có một cuộc sống bình yên, đầm ấm của tác giả. ở khu tập thể ấy, từ già tới trẻ đều sống chan hòa, vui vẻ bên nhau, tối lửa tắt đèn có nhau. Các thế hệ nối tiếp ra đời đều hấp thu môi trường ngọt lành ấy: trẻ con kính trọng người lớn, người lớn rất thương yêu trẻ con. Đấy là cậu bé Hùng ngoan ngoãn xách ghế mời bà Thanh ngồi, rót nước mời bà uống; là cô Loan hồn nhiên chơi đùa với lũ trẻ và cún con, là ông lão Sỹ nâng niu cháu nội của mình, rất thương yêu con dâu ngay cả lúc cô bỏ nhà chồng về với mẹ ruột. Nổi bật trong khu tập thể là cô Hoằng. Cô chân thành, tốt bụng, luôn quan tâm đến mọi người, thậm chí quan tâm đến mức sốt sắng. Nguyễn Minh Châu cho rằng "người ta có thể hồn nhiên như trẻ con - điều đó chẳng có hại gì." Cô trở thành cái tâm cho mọi người chú ý, cô yêu chiều chồng, yêu bản thân, yêu trẻ con và loài vật - con "nhị thể" của cô trở thành niềm vui chung cho mọi nhà. Trong tâm hồn trong trẻo của cô, cô đã làm mọi điều tốt bằng tấm lòng của mình, cô dành mọi tình thân để gắn bó với khu tập thể. Như "nhịp cầu nối những bờ vui", cô đã đưa Huấn trở về với cuộc sống đời thực và giúp anh nhận chân cuộc sống. Phải chăng nhà văn muốn đề nghị: "Hãy đem lại niềm vui cho người khác và bạn sẽ thấy niềm vui tạo ra niềm vui."? Tuy nhiên, không hẳn thiện ý nào cũng tạo được kết quả tốt. Chính sự vô tư của cô Hoằng đã làm cho cả khu tập thể cuống quýt kéo nhau đi chích ngừa vì tim con "nhị thể" bị dại; và cũng do sự đỏm dáng, hồn nhiên quá mức của cô đã làm cho người chồng phải "khổ sở và xấu hổ". Dường như Nguyễn Minh Châu qua những điều tủn mủn ấy, ông cũng cảnh báo rằng: lòng tốt, tình yêu của con người nếu không ý thức được giới hạn của nó, đôi khi sẽ gây ra điều phiền nhiễu ngoài ý muốn. Nhân vật bình thường trong dòng chảy đời thường hồn nhiên trong cách sống, cách nghĩ của mình ở môi trường quen thuộc. Họ sống vô tư đến mức thờ ơ vì dường như cảm thấy điều đó quá đỗi thông thường, phổ biến, quá vụn vãnh để khỏi phải mất công quan tâm, sửa đổi. "Đôi lúc con người ta tàn ác một cách hồn nhiên." Nguyễn Minh Châu đã nói thế trong truyện Đứa ăn cắp. Câu chuyện xoay quanh nhan vật Thoan - một con người "hồn nhiên và vô tâm, quá đỗi hồn nhiên và vô tâm", sống xung quanh môi trường có những người đàn bà cũng cùng một giuộc. Họ dễ xúc động, dễ chuyện bé xé ra to, hay thêm mắm thêm muối vào một tin tức cỏn con, lại chóng quên - một cách sông thiếu suy nghĩ, thừa sinh chuyện và không lường hậu quả. Cái chết của Thoan là kết quả của hàng loạt lời ra tiếng vào một cách không ý thức và cũng bắt nguồn từ sự thiếu thật thà ban đầu của Thoan. Truyện như một điều vu vơ mà đọc xong nghe thật xót xa. Người đọc bỗng chột dạ: hình như mình có lúc cũng đã thế này... Ở một mảng sinh hoạt khác, Nguyễn Minh Châu đã đề cập đến một vấn đề sâu xa, đấy là đạo lý làm người. Trong nhịp sống xô bồ, con người ta không khéo sẽ trở nên ích kỷ mà cứ ngỡ điều ấy bình thường. Mẹ con chị Hằng là một câu chuyện phổ biến trong thực tế, đó là sự thật nghiệt ngã: "Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng kể ngày." Chị Hằng là nhân vật tiêu biểu cho cách sống thông thường, đáng trách của người phụ nữ vô tâm. Chị rất yêu chồng, thương con, tình yêu đó quá cá nhân vì chỉ biết vun vén cho gia đình bé nhỏ của mình. Chị lo cho chồng con từng li từng tí một nhưng chính sự yêu thương nuông chiều con quá mức, chị đã vô tình làm chỗ dựa cho con hư. Chính sự dễ dãi của chị và của người chồng đã biến một đứa bé thành một thằng oắt con hỗn hào, cộc lốc. Một bên chồng con, một bên mẹ, chị cứ xử sự như trong một vòng xoay nhân quả. Chị không phải là đứa con bất hiếu nhưng cách sống của chị chẳng khá gì hơn. Bằng một sự liên tưởng, cho dù có khập khiễng, ta thấy chị có một điểm giống với Thị Nở: khi yêu thương Chí Phèo, bỗng một lúc Thị giật mình rằng hình như mình còn có một bà cô ở trên đời, còn chị Hằng ở đây, khi bản thân ở trong cảnh neo đơn mới "sực nhớ ra mình vẫn có một bà mẹ"! Chị chỉ nghĩ đến mẹ khi lúc đó cảm thấy mẹ cần cho mình. Sự cách biệt tâm lý, cách biệt thế hệ đã làm chị khó chịu, cáu gắt trước cái vụng về của người mẹ, cho dù có những giờ phút chị cũng cảm nhận cái ấm áp của tình mẫu tử thiêng liêng. Lẽ ra tuổi già phải được tịnh dưỡng, con cháu chăm sóc, an ủi thì ngược lại, người mẹ phải trở thành "đại sứ lưu động" phục vụ cho gia đình những cô con gái thiếu suy nghĩ. Chị có thương mẹ, thương em nhưng tình cảm ấy không vượt qua được thói ích kỷ: ngay cả lúc hối hả lo cho mẹ ra thăm em, chị cũng không quên đòi cái áo len mà cô em đã tự động mang đi của chị. Những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống hiện lên trang văn nghệ thật thấm thìa, xót lòng. Câu chuyện khép lại trong sự chiêm nghiệm buồn bã của bà cụ Huân; "Đời con người ta vay của cha mẹ rồi trả cho con cái. Cho nên tui cũng không hề phàn nàn con cháu Hằng mô!" Chính câu nói "không hề phàn nàn" ấy đã làm cho nội dung triết lý càng cay đắng, sâu sắc hơn. Đó cũng là bức thông điệp Nguyễn Minh Châu muốn nhắn gửi: đừng làm cho cha mẹ phải đau lòng vì sự vô ơn, bạc bẽo của những người con vô tình hóa vô tâm. 2.2. Nhân vật số phận - nỗi trăn trở của Nguyễn Minh Châu "Con người ta từ khi lọt lòng đã được nhận một thứ mã số" về tính cách và cũng như con dâu đóng vào từng số phận riêng tư, cứ thế mà mang lấy đến suốt đời." Nguyễn Minh Châu đã nghiệm thấy điều đó trong những ngày cuối đời "ngồi buồn mà viết mà chơi". Chính sự trăn trở đó khiến nhà văn luôn suy tư về số phận con người. Truyện Cỏ lau tập trung vào vấn đề con người trong tất cả mọi quan hệ trớ trêu của số phận. Lực - nhân vật chính của tác phẩm - là người gánh chịu nhiều nỗi bất hạnh, oan khiên nhất trong cả cuộc đời. Anh đã xả thân vì nước, dốc tất cả tuổi trẻ cho công cuộc kháng chiến không chút mảy may hối tiếc nhưng số phận cứ mãi đẩy đưa, "nó như một nhát dao phạt ngang mà cả hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền như cũ. Nhưng đau hơn cả là hai nửa cuộc đời tôi cũng không bị cắt lìa hẳn." Khi cuộc sống vợ chồng chưa kịp bén hơi quen tiếng, anh đã sớm từ giã hạnh phúc riêng để lên đường chiến đấu, từ giã người vợ hết mực yêu anh và được anh yêu. Đấy chưa phải là sự bất hạnh tột cùng vì lúc ấy họ sống cho lý tưởng, cho tương lai hòa bình, độc lập của dân tộc. Chiến tranh qua đi, Lực trở thành nạn nhân của những mất mát quá to lớn, cuộc đời anh thành một chuỗi bi kịch không gì giải tỏa. Anh trở về quê đón nhận sự thật phũ phàng: em trai hy sinh, tên mình được khắc trên bia mộ, người cha già cô độc sống nương nhờ trong một căn nhà xa lạ và người vợ yêu nay đã thành vợ người ta, đã có một gia đình bộn bề để lo toan, cáng đáng, một cuộc sống riêng mà lương tâm anh không cho phép xen vào. Như định mệnh đã an bày, anh đã chạy trốn sự may mắn đắng cay để không gây sự đổ vỡ cho người khác. Kết thúc câu chuyện là "hình ảnh người lính già sống suốt đời ở đây với ông bố" giữa "những người đàn bà bằng đá đầy cô đơn giữa trời xanh" như một điệp khúc buồn trong câu hát "bởi chiến tranh không phải trò đùa". Thai là người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh bởi sự tàn ác của chiến tranh. Không có gì đau khổ bằng sống với người mà mình không yêu mặc dù chị đã có một gia đình sung túc, được chồng con yêu quý. Trái tim thủy chung, trọn vẹn yêu thương của chị chỉ dành cho một người và mãi mãi. Chị sống bằng bổn phận và trách nhiệm nhưng cuộc đời đâu đã bình yên. Sự trở về của Lực đã làm đảo lộn cuộc sống của chị, bao nỗi đau dồn nén bấy lâu đã có dịp nổ bùng và những đòi hỏi tự thân được sống đích thực với tình cảm của mình bộc phát mãnh liệt. Nhưng sự thật nghiệt ngã không cho phép, mọi người đều phải mang theo mình những vết thương rỉ máu không thể xóa nhòa. Người chồng hiện tại của Thai - ông Quảng - cũng nằm trong vòng luẩn quẩn của số phận. Chiến tranh đã gây nên sự phản bội của người vợ đầu để lại cho ông một đứa con gái hư hỏng. Đến với Thai, ông phải sống với một người mà trái tim của họ luôn hướng về người khác, đây là một nỗi bất hạnh, một sự chịu đựng nhẫn nhục của ông. Thai không có lỗi nên nỗi đau ông càng dồn nén, phải cố gắng để dung hòa cuộc sống nhiều hơn. Đã không hạnh phúc trong cuộc sống vợ chồng, ông lại thêm nỗi lo sợ, phập phồng về sự tan vỡ gia đình vì sự xuất hiện của Lực. Cuộc tình tay ba với mối quan hệ chằng chịt và trách nhiệm của mỗi người không có một hướng giải quyết ổn thỏa, sự bù đắp cho người này là sự mất mát cho người kia. Họ tôn trọng dàn xếp với nhau nhưng không ai tránh khỏi sự tổn thất lớn lao về mặt tâm hồn, thấm thìa một nỗi đớn đau từ hậu quả của chiến tranh. Cuộc đời của những Lực, Phai, Quảng, Phi Phi... hình thành một "nhóm tượng đài về số phận con người". Người nằm xuống đã yên nghỉ trong lòng đất sâu nhưng sự thiệt thòi, mất mát của người đang sống không gì bù đắp nổi. Chiến tranh đã cướp mất người yêu của Phi Phi, biến cô trở thành một con người phá phách, phó mặc cuộc đời. Khi tình yêu duy nhất của cô đã không còn thì đời cô cũng chẳng còn ý nghĩa - đó là sản phẩm tàn bạo mà chiến tranh đã hình thành trong tâm hồn Phi Phi. Mọi số phận trong Cỏ lau đều dở dang, chua xót. Người đọc không khỏi rưng rưng trước những éo le, trắc trở của những kiếp người và dấy lên sự phẫn uất trước hậu quả khủng khiếp của chiến tranh gieo rắc cho bao người. Cùng với những mảnh đời trong Cỏ lau, còn biết bao nhiêu những kiếp người có cảnh đời ngậm ngùi như thế. Cả cuộc đời vị sư già Thiện Linh (Mùa trái cóc ở miền Nam) vắt mình qua hai cuộc chiến là những chuỗi ngày trải qua bao nhiêu khổ cực vì nạn đói, vì chạy vạy để chu toàn cuộc sống. Nhưng tai nạn kinh khủng nhất giáng xuống cuộc đời bà gây nên thương tích tâm hồn đến phút cuối cuộc đời là sự ngược đãi không thể tưởng tượng được của đứa con trai bất hiếu. Từ bỏ cuộc sống giàu sang, sung sướng để vào chùa tịnh dưỡng tâm hồn, tu nhân tích đức, những tưởng có thể thay đổi được, tìm lại được đứa con của mình nhưng sự thật hãi hùng đã dập chìm bà một lần nữa. Hình ảnh một bà già điên lang thang trên đường ăn mày tình thương thiên hạ, miệng lẩm bẩm "Con ơi" như một vết cứa xát lòng, là tiếng nấc nghẹn ngào trước nhân tình thế thái. Người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa cũng tiêu biểu cho loại nhân vật số phận. Vì cuộc sống áo cơm ghì sát đất, vì tư tưởng cam phận hình thành lâu đời đã khiến họ không thoát khỏi sự hành hạ thể xác, sự tê liệt tinh thần. Sự thô bạo, tàn nhẫn của người chồng vụt xuống lưng người vợ bằng những lằn roi thắt lưng là những đòn roi số phận quật vào cuộc sống tối tăm, tội nghiệp ấy. Dù bị đối xử tệ bạc, tàn sát, người đàn bà đó vẫn van xin được sống cuộc sống vốn có khi có sự can thiệp của chính quyền. Với họ, nghiệt ngã đã an bài. Nhân vật lão Khúng trong Phiên chợ giát là điển hình cho người nông dân lam lũ, suốt cuộc đời gắn với hòn đất, quần quật dãi nắng dầm sương, tích cóp cho cái gia đình cố hữu lâu đời. Qua giấc mơ nửa nhòe nửa thực, lão thấy mình là con bò, đó là nhận thức hoang sơ về kiếp người của lão. Trong những ý nghĩ mù mờ, rối rắm, lão đã có cảm giác muố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_nghe_thuat_xay_dung_nhan_vat_trong_truyen_ngan_cua.pdf
Tài liệu liên quan