MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN . . . . 4
LỜI MỞ ĐẦU . . . . 5
Chương 1 - TỔNG QUAN . . . 6
1.1. Than hoạt tính và cấu trúc bề mặt . . . 6
1.1.1 Than hoạt tính . . . 6
1.1.2 Cấu trúc xốp của bề mặt than hoạt tính . . 9
1.1.3 Cấu trúc hóa học của bề mặt . . . 12
1.2 Nhóm Cacbon-oxy trên bề mặt than hoạt tính . . 13
1.2.1 Nghiên cứu nhiệt giải hấp . . . 16
1.2.2 Trung hòa kiềm . . . 18
1.3 Ảnh hưởng của nhóm bề mặt cacbon-oxi lên tính chất hấp phụ . 19
1.3.1 Tính axit bề mặt của cacbon. . . . 20
1.3.2 Tính kị nước . . . 20
1.3.3 Sự hấp phụ hơi phân cực . . . 21
1.3.4 Sự hấp phụ từ các dung dịch . . . 23
1.3.5 Sự hấp phụ ưu tiên. . . . 24
1.4. Tâm hoạt động trên bề mặt than . . . 25
1.5 Biến tính bề mặt than hoạt tính . . . 29
1.5.1 Biến tính tính than hoạt tính bằng N2. . 30
1.5.2 Biến tính bề mặt than bằng halogen . . 31
1.5.3 Biến tính bề mặt than bằng sự lưu huỳnh hóa. . . 31
1.5.4 Biến tính than hoạt tính bằng cách tẩm . . 33
Chương 2 - THỰC NGHIỆM . . . 35
2.1 Đối tượng nghiên cứu. . . 35
2.2 Mục tiêu nghiên cứu. . . 35
2.3 Danh mục thiết bị, hóa chất cần thiết cho nghiên cứu. . . 35
2.4 Phương pháp nghiên cứu . . . 36
2.4.1 Phương pháp biến tính than hoạt tính . . 36
2.4.2. Phương pháp khảo sát các đặc trưng của than biến tính . 37
2.4.3. Phương pháp xác định các ion trong dung dịch . . 40
2.5 Phương pháp tính toán tải trọng hấp phụ của vật liệu . . 43
Chương 3 - KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN . . 45
3.1 Oxi hóa than hoạt tính ở nhiệt độ thường . . 45
3.1.1 Khảo sát khả năng hấp phụ amoni của than hoạt tính . . 45
3.1.2 Khảo sát khả năng hấp phụ của than hoạt tính được oxi hóa trong các
khoảng thời gian khác nhau . . . 45
3.1.3 Trung hòa than oxi hóa bằng NaOH . . 47
3.1.4 Khảo sát khả năng hấp phụ của than hoạt tính biến tính với các nồng độ axit
khác nhau . . . . 49
3.2 Khảo sát khả năng hấp phụ amoni của than được biến tính ở nhiệt độ 70độC. . 53
3.3 Khảo sát khả năng hấp phụ của than oxi hóa bằng HNO3ở nhiệt độ 100độC . 55
3.4 Khảo sát khả năng hấp phụ một số kim loại nặng của than biến tính . 58
3.4.1.Khả năng hấp phụ Mangan. . . 58
3.4.2. Khả năng hấp phụ cadimi (Cd2+) . . 60
3.5 Xác định một số đặc trưng của than biến tính . . 61
3.5.1 Xác định diện tích bề mặt riêng của than . . 61
3.5.2 Xác định các nhóm chức có thể có trên bề mặt các loại than . 64
3.5.3 Xác định tổng số tâm axit trên bề mặt than . . 65
3.5.4 Khảo sát pHpzc của các loại than. . . 68
3.5.5 Bước đầu nghiên cứu cơ chế hấp phụ amoni của than biến tính . 69
3.6 Khảo sát khả năng xử lý amoni bằng mô hình động . . 72
3.6.1 Khảo sát khả năng trao đổi của than biến tính với amoni . 72
3.6.2 Khảo sát khả năng tái sinh của vật liệu. . 73
KẾT LUẬN . . . . 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO . . . 77
79 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6991 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu biến tính than hoạt tính làm vật liệu hấp phụ xử lý amoni và kim loại nặng trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
O2.. Giá trị tải trọng hấp phụ nhỏ hơn trong trường hợp của methanol so với
nước có thể do bán kính lớn hơn của nhóm không phân cực trong methanol. Một nhóm
metyl có bán kính 0.2 nm bị hấp phụ trên một nguyên tử oxy có đường kính 0.13 nm,
nằm phẳng, có thể cản trở sự tiếp cận của nhóm metyl tới các nguyên tử oxy lân cận.
Tương tự, sự hấp phụ của các amin bởi than hoạt tính được xác định bằng lượng nhóm
bề mặt cacbon-oxy mang tính axit. Khi những nhóm bề mặt này bị rời khỏi bề mặt, độ
hấp phụ của amin cũng giảm.
1.3.4 Sự hấp phụ từ các dung dịch
Sự hấp phụ những hợp chất hữu cơ và vô cơ từ các dung dịch của chúng cũng
cho thấy khả năng hấp phụ của than bị ảnh hưởng bởi việc có mặt của các nhóm oxi -
cacbon. Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu sự hấp phụ của một vài thuốc nhuộm cation
và anion trên than chì cũng như các loại muội than khác nhau, đã thấy rằng sự hấp phụ
đó, mặc dù được xác định bởi diện tích mặt của cacbon, vẫn bị ảnh hưởng mạnh bởi sự
24
hiện diện của các oxit có tính axit trên bề mặt. Khả năng hấp phụ những chất nhuộm
cation tăng cùng với sự tăng số lượng của nhóm oxi bề mặt trong quá trình ôxi hóa than
và giảm khi những ôxit bề mặt này bị loại bỏ trong quá trình giải hấp bằng nhiệt trong
chân không. Trong trường hợp của những thuốc nhuộm anion, sự hấp phụ giảm theo
mức độ ôxi hóa, độ giảm này tùy thuộc vào sự tăng về số lượng của các nhóm axit bề
mặt. Goyal và những cộng sự cũng đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhóm oxy -
cacbon tới khả năng hấp phụ một vài ion kim loại như Cr(III), Cr(VI), Co(II), Cu(II),
và Ni(II) trên một vài cacbon hoạt tính có sự khác nhau về diện tích bề mặt và khác
nhau về số nhóm chức oxy - cacbon trên bề mặt. Những nhà khoa học này đã tìm ra
rằng sự hấp phụ này không chỉ liên quan đến diện tích bề mặt, mà còn phụ thuộc vào
số lượng của các nhóm oxi và có thể là một vài nhóm oxit acid khác. Sự hấp phụ cation
tăng đối với trường hợp than đã thực hiện quá trình ôxy hóa và giảm trong quá trình
loại khí, kết quả này được giải thích là quá trình oxi hóa tạo thành các nhóm axit bề
mặt mà sự ion hóa trong nước có thể tạo ra ion H+, chuyển trực tiếp vào pha lỏng, để
lại bề mặt than có các tâm tích điện, ở đó sự hấp phụ các cation có thể xảy ra. Khi các
tâm tích điện âm được loại trừ bằng loại khí, thì bề mặt than sẽ giảm xu hướng hấp phụ
cation.
Sự hấp phụ của những hợp chất hữu cơ như phenol và P. nitrophenol cũng bị
ảnh hưởng bởi những nhóm oxi - cacbon này. Mặc dù sự có mặt của những nhóm oxi
axit làm giảm đi sự hấp phụ phenol, nhưng sự có mặt của những nhóm quinon lại làm
tăng cường khả năng hấp phụ.
1.3.5 Sự hấp phụ ưu tiên.
Kipling và các cộng sự, trong khi nghiên cứu sự hấp phụ từ những hỗn hợp hai
chất trong pha lỏng, đã thấy rằng sự có mặt của oxi bị hấp phụ hóa học, đã mang tính
phân cực của nó lên than để chúng hấp phụ ưu tiên hơn đối với thành phần phân cực
hơn trong hỗn hợp. Như vậy, Spheron-6 chứa oxi liên kết, metanol được ưu tiên hơn
trong dung dịch chứa nó so với benzen. Graphon cơ bản là không chứa oxi, lại ưu tiên
25
benzen hơn. Tương tự, Spheron-6 ưu tiên benzen hơn trong dung dịch của nó với n-
heptan, và graphon ưu tiên n-heptan hơn. Sự tương tác này được cho là do sự có mặt
của các nhóm oxy - cacbon, chúng tương tác với thành phần phân cực hơn trong dung
dịch chứa hai chất khác nhau. Puri và các đồng sự, và Bansal và Dhami, trong khi
nghiên cứu đường đẳng nhiệt hấp phụ các dung dịch benzen-metanol, benzen-etanol
trên những loại than chì khác nhau với lượng oxi liên kết khác nhau, đã chỉ ra bản chất
của những nhóm oxi thậm chí quan trọng hơn tổng lượng oxi trong việc xác định tương
tác bề mặt của than với các chất tan trong những trường hợp trên. Những đường đẳng
nhiệt trong hấp phụ hỗn hợp benzen-metanol của than chì có nguồn gốc từ gáo dừa
khác nhau, cho thấy than chì ban đầu có lượng CO2 thoát ra trên bề mặt lớn hơn cho
thấy sự ưu tiên hơn đối với ethanol và methanol phân cực hơn benzen. Vì một phần của
các nhóm bề mặt này được loại bỏ trong chân không tại 400°C, nên khả năng hấp phụ
rượu cũng giảm xuống đáng kể. Khi các nhóm này được loại bỏ hoàn toàn bằng sự loại
khí ở than chì tại 750° C, thì gần như sẽ có một sự đảo ngược của quá trình ưu tiên bởi
vì benzen được ưu tiên mặc dù khá nhỏ, hơn là etanol hay metanol.
Than chì được loại khí tại 750°C vẫn giữ lại một lượng đáng kể oxi được kết
hợp có khả năng tạo ra CO. Than chì không hấp phụ ưu tiên etanol và metanol, và ưu
tiên hơn với benzen đối với những mẫu than đã loại khí ở 100°C, khi mà chúng gần
như là đã không còn oxi. Điều đó có vẻ là những nhóm quinon đã tạo thành một phần
các nhóm bay hơi CO để đẩy mạnh quá trình ưu tiên cho các nhóm benzen. Như vậy,
một phần của oxi liên kết (được coi như là một phức chất của CO2) đã đẩy mạnh sự
hấp phụ ưu tiên các nhóm rượu , và một phần khác giống như là một phức chất của CO
lại đẩy mạnh sự hấp phụ ưu tiên benzen. Như vậy, điều cần xác định ở đây không chỉ là
tổng lượng oxi mà còn cả dạng của nó để có thể đánh giá một cách chính xác tính đặc
trưng và trạng thái bề mặt của nhóm cacbon - oxy.
1.4. Tâm hoạt động trên bề mặt than[5, 13]
Than hoạt tính có cấu trúc gồm nhiều lớp của những hệ vòng thơm ngưng tụ
26
đính với nhau trong những lớp không phân cực. Những lớp này có những kích thước
giới hạn, do đó tạo thành các góc. Bên cạnh đó, những lớp này có những chố khuyết,
biến dị vào gián đoạn. Những nguyên tử carbon ở những vị trí này có những cặp
electron không ghép đôi và những hóa trị thừa ra, có thế năng cao hơn. Do đó, những
nguyên tử cacbon này có hoạt tính cao, tạo thành những tâm hoạt động. Rất nhiều
nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu số lượng và bản chất của các tâm hoạt động này vì
những tâm hoạt động này quyết định độ hoạt động của bề mặt, những phản ứng bề mặt
và khả năng xúc tác của than hoạt tính. Bởi vì xu hướng cacbon hấp phụ hóa học oxy
lớn hơn các chất khác nên nhiều nghiên cứu đã kết luận tâm hoạt động này là từ sự hấp
phụ hóa học oxy.
Giả thiết đầu tiên là than hoạt tính gắn với nhiều loại khác nhau những tâm hoạt
động, từ nghiên cứu của Rideal và Wright sự oxi hóa bề mặt than với khí oxy, họ thấy
3 loại tâm hoạt động khác nhau đã tương tác khác nhau ở những áp suất khác nhau và
cho thấy tốc độ hấp phụ hóa học khác nhau oxy ở 200°C. Allardice khi nghiên cứu
động học của hấp phụ hóa học oxy trên than chì ở nhiệt độ giữa khoảng 25°C và 300°C
dưới áp suất 100 đến 700 torr, thấy một quá trình hấp phụ có 2 bước mà ông cho rằng
đó có sự hiện diện của 2 loại tâm hoạt động khác nhau. Dietz và Mc Farlane trong khi
nghiên cứu sự hấp phụ hóa học oxy trên than hoạt tính có bề mặt lớn ở nhiệt độ giữa
100°C và 300°C và áp suất oxy là bậc của 100 millitor, quan sát thấy một quá trình hấp
phụ ban đầu nhanh và sau đó là một quá trình hấp phụ chậm hơn nhiều. Carpenter và
những đồng nghiệp đã oxy hóa rất nhiều loại than ở những nhiệt độ khác nhau, nhận
thấy hấp phụ hóa học oxy chỉ tuân theo phương trình Elovich trong thời gian 5 phút
đầu tiên. Khi thời gian oxy hóa tăng lên, lượng oxy hấp phụ hóa học vượt quá lượng
được tính từ phương trình Elovich. Việc này có thể là do sự tạo thành của những tâm
hấp phụ mới bởi quá trình giải hấp oxy khi CO2, CO và hơi nước được giải phóng. Puri
và Bansal, khi nghiên cứu sự clo hóa than đường và than gáo dừa ở những nhiệt độ
khác nhau trong khoảng 30 đến 1200°C, nhận thấy rằng hydro bị hấp phụ hóa học được
27
giải phóng ở một số bước, phụ thuộc vào nhiệt độ. Những nhà nghiên cứu này cho rằng
hydro trong than chì được liên kết với những dạng tâm khác nhau bằng năng lượng
hoạt hóa. Lussow và các đồng nghiệp nghiên cứu động học quá trình hấp phụ của oxy
trên một mặt graphon hoạt hóa tới những mức độ đốt cháy trong khoảng 0-35% ở trong
khoảng nhiệt độ 450°C đến 675°C. Lượng oxy hấp phụ hóa học tăng khá mạnh ở nhiệt
độ trên 400°C, lớn hơn gần 2 hoặc 3 lần. Người ta cũng thấy rằng khi áp suất oxy tăng
từ 0.5 đến 700 torr, lượng oxy hấp phụ hóa học gần như là tăng gấp đôi. Những kết quả
này chỉ ra sự tồn tại của nhiều hơn 1 loại vùng năng lượng hoạt hóa. Ở những nghiên
cứu sau này, Walker và các cộng sự khi nghiên cứu tốc độ hấp phụ hóa học của oxy
trên graphon hoạt hóa, với 14.4% bị đốt cháy ở nhiệt độ trong khoảng 300°C tới
625°C với áp suất oxy là 0.5 torr, quan sát thấy 2 tốc độ hấp phụ khác nhau , một trên
và một dưới 250°C. Hơn nữa còn có sự tăng nhanh lượng oxy bão hòa ở nhiệt độ trên
250oC hay trong khoảng thời gian dài hơn. Điều này chỉ ra sự có mặt của 2 loại tâm
hoạt động khác nhau ở năng lượng hoạt hóa của chúng. Năng lượng hoạt hóa của quá
trình hấp phụ ở những tâm tương đối hoạt đông hơn được tìm ra là khoảng 30 kJ/Mol.
Bansal nghiên cứu động học của quá trình hấp phụ hóa học của hydro trên cùng
mẫu graphon với áp suất oxy và nhiệt độ hấp phụ. Tốc độ hấp phụ hóa học của hydro là
rất thấp so với oxy. Chỉ 4 loại tâm hoạt động được tìm ra khi nhiệt độ hấp phụ là
600oC. Những thí nghiệm hấp phụ hóa học hydro không thể thực hiện được ở nhiệt độ
cao vì mặt graphon bị đốt cháy sinh ra khí có thể làm nhiễu phép đo động học.
Puri và các đồng nghiệp và Bansal đã thu được những chứng cứ khá thuyết phục
cho sự tồn tại của những tâm hoạt động hoàn toàn khác nhau, chúng được gọi là tâm
chưa bão hòa. Những tâm này có thể được xác định bởi sự tương tác của than với dung
dịch hòa tan brom trong KBr. Những tâm này được tạo ra khi những nhóm oxy -
cacbon tạo ra CO2 bị loại khỏi bề mặt than bằng sự loại khí ở nhiệt độ trong khoảng
350 oC đến 750oC. Một mol tâm không bão hòa được tạo ra bằng việc loại bỏ 2 mol
oxy hấp phụ hóa học dạng CO2.
28
Nồng độ của những tâm hoạt động trên bề mặt than hoạt tính được đo theo ngôn
ngữ diện tích mặt phẳng họat động (ASA). ASA, theo các nhà khoa học, là một chỉ số
của độ hoạt động hóa học của bề mặt than, quyết định khả năng xúc tác và phản ứng bề
mặt của than. ASA được xác định từ lượng oxy hấp phụ hóa học ở 300oC trong 24h ở
áp suất oxy ban đầu là 0.5 torr. Giả sử rằng một phân tử oxy được hấp phụ hóa học tại
mỗi nguyên tử carbon, mà mỗi nguyên tử carbon chiếm diện tích 0.083 nm, lượng oxy
hấp phụ hóa học có thể được chuyển đổi sang ASA. Các nhà khoa học này đã hoạt hóa
graphon với những mức độ đốt cháy khác nhau để tạo ra một lượng tương ứng ASA và
thấy rằng ASA tăng cùng với độ đốt cháy và có thể liên hệ độ hoạt động của graphon
với oxy. Tuy nhiên, ngày nay người ta đã tìm ra rằng than có gắn với vài loại nhóm
tâm hoạt động, mỗi nhóm lại gắn với một lượng phụ thuộc năng lượng hoạt hóa. Tóm
lại, cần thu được dữ liệu từ những điều kiện thích hợp để có thể chắc chắn rằng những
sự hoạt động của bề mặt không phải là không chịu ảnh hưởng bởi phản ứng trên những
vùng ít hoạt động hơn. Hoffman khi nghiên cứu sự hấp phụ hóa học một vài
hydrocarbon như propylen, ethylen, propan và methan trên graphon hoạt động, nhận
thấy rằng độ hấp phụ của mỗi hydrocarbon tăng ứng với các graphon có mức độ đốt
cháy nhiều hơn, do tăng ASA của graphon. Tuy nhiên, ASA ở những hydrocarbon này
nhỏ hơn nhiều khi so với ASA bởi oxy ở mọi mức độ đốt cháy. Hơn nữa, propylen có
ASA lớn hơn ethylen, methan và n-butan. Điều này có thể do kích cỡ lớn hơn của
những phân tử hydrocarbon này, khi được hấp phụ trên một tâm hoạt động như là đã
che những tâm bên cạnh, làm chúng không thể tham gia hấp phụ hóa học. Do vậy,
ASA có ý nghĩa duy nhất liên quan đến sự hấp phụ hóa học của những thành phần
riêng biệt.
Dentzer nghiên cứu khả năng hấp phụ và giải hấp các phức bạc diamin từ dung
dịch amoni trên graphit được hoạt hóa với những mức độ cháy khác nhau và thấy rằng
lượng bạc hấp phụ tăng khi mức độ đốt cháy tăng. Một quan hệ tuyến tính giữa lượng
bạc bị hấp phụ và ASA như được xác định bằng phương pháp Walker. Điều này có thể
29
do những tương tác khử của bạc diamin với những tâm họat động trên than tạo ra bạc
kim loại bị hấp phụ trên những tâm hoạt động.
Bansal và các cộng sự cho rằng sự tồn tại những tâm hoạt động này là do sự
khác nhau trong sự sắp xếp không gian của những nguyên tử carbon bề mặt. Khi bề
mặt than có các phân tử khí đi vào, những phức hoạt động được tạo ra giữa những
nguyên tử khí và những nguyên tử cacbon trên 2 bề mặt có thể có cấu hình thế năng
khác nhau, phụ thuộc vào khoảng cách giữa những nguyên tử carbon, tạo ra sự phụ
thuộc của năng lượng hoạt hóa của quá trình hấp phụ hóa học.
Sherman và Eyring đã tính toán lý thuyết năng lượng hoạt động của hấp phụ
hóa học hydro trên mặt than và tìm ra giá trị phụ thuộc vào khoảng cách C-C. Một
phép so sánh những giá trị lý thuyết của Sherman và Eyring và giá trị thực nghiệm thu
được bởi Bansal đã được đưa ra. Sự thống nhất giữa giá trị thực nghiệm và lí thuyết đã
cho thấy một điều rằng khoảng cách C có tác động như các loại tâm hoạt động khác
nhau trên đó sự hấp phụ hóa học có thể xảy ra.
1.5 Biến tính bề mặt than hoạt tính[5, 13, 24]
Đặc điểm quan trọng và thú vị nhất của than hoạt tính là bề mặt có thể biến tính
thích hợp để thay đổi đặc điểm hấp phụ và làm cho than trở nên thích hợp hơn trong
các ứng dụng đặc biệt . Sự biến tính bề mặt than hoạt tính có thể được thực hiện bằng
sự tạo thành các dạng nhóm chức bề mặt khác nhau. Các nhóm chức này bao gồm các
nhóm chức oxy – cacbon được tạo thành khi oxy hóa bề mặt than với các khí hoặc các
dung dịch oxy hóa. Nhóm chức bề mặt cacbon – hydro tạo thành bằng quá trình xử lý
than hoạt tính với khí hydro ở nhiệt độ cao. Nhóm chức cacbon – lưu huỳnh bằng quá
trình xử lý than hoạt tính với lưu huỳnh nguyên tố, CS2, H2S, SO2. Cacbon – nitơ trong
quá trình xử lý than hoạt tính với amoniac. Cacbon – halogen được tạo thành bằng quá
trình xử lý than hoạt tính với halogen trong pha khí hoặc dung dịch. Vì các nhóm chức
này được liên kết và được giữ ở cạnh và góc của lớp vòng thơm, và bởi vì thành phần
các cạnh và góc này chủ yếu là bề mặt hấp phụ, nên người ta hi vọng khi biến tính than
30
hoạt tính sẽ thay đổi đặc trưng hấp phụ và tương tác hấp phụ của các than hoạt tính
này. Thêm vào đó, sự biến tính bề mặt than cũng được thực hiện bằng quá trình khử
khí và bằng việc mang kim loại lên bề mặt. Ảnh hưởng của các nhóm chức bề mặt oxy
– cacbon lên đặc trưng và tính chất bề mặt đã được thảo luận ở 1.3. Trong phần này
chủ yếu đề cập đến ảnh hưởng của các biến tính khác lên đặc điểm chất hấp phụ của
than hoạt tính.
1.5.1 Biến tính tính than hoạt tính bằng N2
Than hoạt tính chứa lượng không đáng kể nhóm chức nitơ. Tuy nhiên, phản ứng
pha khí với dimethylamin ở 1500C trong 1h, hoặc với NH3 khô ở 3000C hoặc hơn, tạo
ra một lượng đáng kể nhóm chức C-N trên bề mặt. Boehm và các cộng sự cũng như
Rivera-Utrilla và các cộng sự, thấy rằng khi than hoạt tính đã oxy hóa được đun nóng
với NH3 khô, nhóm nitơ được tạo thành trên bề mặt. Ở nhiệt độ thấp sự cố định Nitơ
cân bằng với số nhóm oxy axit trên bề mặt và được cho là sự tạo thành muối amoni.
Tuy nhiên, ở nhiệt độ cao sự thay thế các nhóm hydroxyl bằng nhóm amin đã được
thừa nhận, than trở nên kỵ nước và giảm đáng kể khả năng hấp phụ xanh methylen.
Puri và Mahajan thấy rằng sự tương tác giữa than đường với khí NH3 khô liên
quan đến sự trung hòa nhóm chức axit trên bề mặt và sự cố định thêm một số lượng
NH3 ở dạng không thể thủy phân. Nhưng những nhà nghiên cứu không cho rằng sự cố
định NH3 với nhóm bất kỳ nào trên bề mặt than. Tuy nhiên, Puri và Bansal thấy rằng
quá trình xử lý than đường đã khử trùng clo với NH3 ở nhiệt độ 3000C thu được sự thay
thế một phần clo bằng nhóm amin. Than thu được thể hiện khả năng hấp phụ tăng đối
với axit. Sự tăng lên về khả năng hấp phụ axit tương ứng với lượng nitơ được cố định,
chỉ ra một sự trao đổi C-Cl bằng liên kết C-NH2. Sự tương tác của khí NH3 với sợi
cacbon trước và sau oxi hóa đã cho thấy rằng NH3 phản ứng với nhóm lacton và
anhydrid, dẫn đến sự tạo thành cấu trúc imid. Zwadski xử lý than với NH3 trước và sau
sự oxi hóa với HNO3, và sử dụng phổ IR, thấy rằng không có sự hấp phụ nhóm amide,
phổ IR cũng chỉ ra có phản ứng của NH3 với cấu trúc lactone trên lớp cacbon.
31
1.5.2 Biến tính bề mặt than bằng halogen
Đặc điểm bề mặt của than, than hoạt tính và muội được biến tính bằng một số
phương pháp xử lý với halogen. Sự hấp phụ halogen gồm cả hấp phụ vật lý và hấp phụ
hóa học, quá trình thông qua một số cơ chế bao gồm cộng hợp ở các tâm chưa bão hòa,
trao đổi với H2, hấp phụ hóa học và sự oxi hóa bề mặt than. Các cơ chế phụ thuộc vào
bản chất của bề mặt than, hàm lượng oxy, hydro của than, điều kiện thí nghiệm và bản
chất của từng loại halogen. Halogen được cố định trên bề mặt than ở dạng hợp chất
cacbon-halogen có độ bền nhiệt cao và không thể loại bỏ bằng xử lý nhiệt trong chân
không cho tới 10000C nếu than không còn dư hydro. Tuy nhiên, một phần halogen có
thể trao đổi với nhóm OH khi xử lý với kiềm và trao đổi với nhóm NH2 khi xử lý với
khí NH3. Do đó, các dạng hấp phụ hóa học hay hấp phụ vật lý này có thể biến tính
hoàn toàn đặc điểm bề mặt và phản ứng bề mặt của than. Ví dụ, sự cố định Clo hoặc
Brom có thể tạo ra sự phân cực nhưng không phải là liên kết hydro mà là tương tự với
liên kết phổ biến trên than là liên kết với nhóm oxi bề mặt. Liên kết C-Cl hoặc C-Br có
thể trao đổi với các nhóm chức khác tạo ra loại hợp chất bề mặt mới.
Puri và Bansal đã nghiên cứu đặc trưng bề mặt và tương tác bề mặt của than
đường, than gáo dừa được biến tính với halogen. Tỷ khối của than tăng tuyến tính khi
tăng lượng clo cố định trên than. Tuy nhiên, độ axit bề mặt của than còn lại nhiều hoặc
ít thay đổi. Người ta thấy rằng sự cố định clo dẫn đến nhiều dạng cấu trúc lỗ xốp và sự
phân bố kích thước mao quản, hoặc sự thay đổi vị trí hoặc mật độ tâm hoạt động.
Thay thế clo hấp thụ trên bề mặt bằng các nhóm chức khác đã được Puri và các
cộng sự và Boehm nghiên cứu bằng cách đun hồi lưu than đã clo hóa với NaOH 2,5M
và xử lý với amoniac để thay thế nhóm clo bằng nhóm amin. Sự có mặt của nhóm amin
đã làm bề mặt than có tính chất kiềm, điều này làm tăng đáng kể khả năng hấp phụ
axit.
1.5.3 Biến tính bề mặt than bằng sự lưu huỳnh hóa.
Các hợp chất cacbon-lưu huỳnh trên bề mặt được nghiên cứu rộng rãi trên than
32
gỗ, than hoạt tính, muội than. Các hợp chất này được tạo thành trong suốt hoặc sau quá
trình tạo thành than. Trong trường hợp của cacbon hoạt tính, chúng thông thường được
tạo thành bởi đun nóng than trong sự có mặt lưu huỳnh nguyên tố hoặc các chất khí có
lưu huỳnh như CS2, và SO2. Những hợp chất lưu huỳnh trên bề mặt này không hợp
thức trong khoảng rộng về thành phần phụ thuộc vào bản chất than, các điều kiện thực
nghiệm, và độ lớn của bề mặt than. Những hợp chất này thường chứa một lượng đáng
kể lưu huỳnh, có thể lên tới 40-50%. Những hợp chất lưu huỳnh trên bề mặt này không
thể chiết với các dung môi hoặc bị phân hủy một cách hoàn toàn bằng xử lý nhiệt trong
môi trường trơ, tuy nhiên chúng có thể bị loại bỏ hầu như hoàn toàn khi được xử lý
trong khoảng 500-700 ْC với H2. Sự hấp phụ hóa học lưu huỳnh lên bề mặt than bao
gồm sự liên kết với các nguyên tử cacbon bên ngoài, cộng tại vị trí nối đôi, thâm nhập
vào bên trong cấu trúc mạng, và trao đổi lấy hydro cũng như oxygen còn liên kết với
bề mặt cacbon. Như các nguyên tử cacbon ngoại vi, do các hóa trị không thỏa mãn của
chúng quyết định các đặc điểm hấp phụ của than hoạt tính, đó là lý do để tin rằng sự có
mặt của các chất lưu huỳnh bề mặt sẽ ảnh hưởng tới tính chất bề mặt của những vật
liệu này.
Sự ảnh hưởng của các hợp chất lưu huỳnh bề mặt lên sự hấp phụ các chất hơi
phân cực và không phân cực có kích thước phân tử thay đổi đã được nghiên cứu bởi
Puri và Hazra. Sự hấp phụ hơi nước đã tăng một các đáng kể khi áp suất tương đối thấp
hơn 0.4 và giảm ở áp suất cao hơn. Lượng lưu huỳnh liên kết tăng làm tăng ảnh hưởng
và được cho là do thay đổi sự phân bố kích thước lỗ xốp gây ra bởi cố định lưu huỳnh
dọc theo thành lỗ. Đường đẳng nhiệt hấp phụ hơi metanol và hơi benzen chỉ ra rằng các
phân tử lớn hơn này đã tìm các bề mặt càng càng nhỏ vì càng nhiều lưu huỳnh được
liên kết trong lỗ.
Cacbon Saran lưu hóa đã than hóa tại 900 ْC và đã thêm vào những lượng lưu
huỳnh khác nhau trong khoảng 1-12 % đã được sử dụng bởi Sinha và Walker để loại
bỏ hơi thủy ngân từ không khí hay hơi nước. Khi hơi nước bị nhiễm bẫn được đưa qua
33
lớp than tại 150 ْC và lượng thủy ngân tích lũy trong dòng hơi nước rất thấp so với than
chưa lưu hóa. Điều này dẫn tới phản ứng giữa thủy ngân với lưu huỳnh trên bề mặt
than, tạo thành thủy ngân sunphua. Các nhà nghiên cứu Lopez-Gonzalev đã phát hiện
ra rằng than hoạt tính đã được lưu hóa là các chất hấp phụ tốt hơn để loại bỏ HgCl2
khỏi dung dịch nước.
1.5.4 Biến tính than hoạt tính bằng cách tẩm
Than hoạt tính được tẩm kim loại và các oxit của chúng đã phân tán ở dạng các
hạt nhỏ đã và đang được sử dụng rộng rãi trong một vài phản ứng pha khí cả trong
công nghiệp và để bảo vệ con người chống lại các khí và hơi độc. Những loại than này
được sử dụng lần đầu tiên trong chiến tranh thế giới thứ nhất để bảo vệ hệ hô hấp của
các binh lính chống lại chiến tranh khí. Hơn nữa, việc mang các kim loại lên các vật
liệu có cacbon làm giảm các đặc điểm khí hóa và thay đổi cấu trúc lỗ của các sản phẩm
cacbon cuối cùng. Vì vậy, việc mang các chất lên than hoạt tính như vậy cũng được sử
dụng để thu được than hoạt tính có một cấu trúc vi lỗ xác định.
Than hoạt tính được tẩm KI và các hợp chất tương tự, với amine, bao gồm
pyridin đã được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp hạt nhân để duy trì các hợp chất
phóng xạ của iot từ các tác nhân làm lạnh và hệ thống thông gió. KI mang trên than
hoạt tính phản ứng với nhóm oxi - cacbon trên bề mặt than và thay đổi trạng thái hấp
phụ của chúng, do đó cải thiện khả năng của than hoạt tính để duy trì metyliot phóng
xạ. Tính chất hấp phụ của than hoạt tính đã được làm thay đổi khi mang lên nó 5
pyridin. Khả năng phản ứng của than có mang clo-xianua đã tăng cùng với việc tăng
lượng chất mang. Tuy nhiên, khả năng phản ứng thay đổi từ pyridin này tới pyridine
khác nhưng không nhất thiết theo thứ tự tính nucleophilvà tính bazơ của chúng.
Barnir và Aharoni đã so sánh sự hấp phụ clo-xianua trên than hoạt tính trước và
sau khi mang lên Cu(II), Cr(VI), Ag(I), và NH4+ trong một tỉ lệ cho trước. Sự hấp phụ
clo-xianua là thuận nghịch trong trường hợp của than hoạt tính, đã trở thành không
thuận nghịch sau khi tẩm mặc dù khả năng hấp phụ không đổi. Reucroft và Chion cũng
34
so sánh trạng thái hấp phụ của than hoạt tính BPL trước và sau khi tẩm với Cu(II),
CrO42-, và Ag(I) cho clorofor, cynogen chlorua, phosgen và hydrogen xyanua. Cacbon
được tẩm đã cho thấy cả khả năng hấp phụ hóa học và khả năng hấp phụ vật lý, khả
năng hấp phụ hóa học được giải thích rõ hơn trong phosgen, cynogen clorua và hygro
xyanua. Tất cả các than được tẩm đều giữ lại lượng đáng kể ba chất được mang lên sau
khi qua sấy chân không ở 1500C. Sự hấp phụ hơi nước mà hỗn hợp hơi nước với HCN
tăng gấp mười lần so với than hoạt tính thông thường.
35
Chương 2 - THỰC NGHIỆM
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là than hoạt tính từ gáo dừa do Công
ty Cổ phần Trà Bắc sản xuất.
2.2 Mục tiêu nghiên cứu
Biến tính than hoạt tính từ bản chất bề mặt không phân cực thành bề mặt phân
cực, có khả năng hấp phụ các cation trong nước.
Trong nghiên cứu này chúng tôi tập trung vào xử lý amoni trong nước, sử dụng
phương pháp hấp phụ, trao đổi ion bằng than hoạt tính biến tính.
Than hoạt tính oxi hóa là sản phẩm oxi hóa than hoạt tính bằng axit HNO3 trong
các điều kiện khác nhau về nồng độ axit, thời gian và nhiệt độ oxi hóa, nhằm mang lên
trên bề mặt than hoạt tính các nhóm chức có tính axit, có khả năng trao đổi ion với ion
amoni và các cation trong nước.
Than oxi hóa sau khi được lựa chọn để xử lý amoni trong nước, sẽ được khảo
sát khả năng xử lý các ion kim loại nặng trong nước như Mn2+, Cd2+.
2.3 Danh mục thiết bị, hóa chất cần thiết cho nghiên cứu.
Bảng 1. danh mục dụng cụ thiết bị cần thiết cho nghiên cứu
STT Tên Dụng cụ, thiết Bị Mục đích
1 Tủ hút Oxi hóa than
2 Bếp điện Đun
3 Máy điều nhiệt Giữ nhiệt độ phản ứng không đổi
4 Tủ sấy hút chân không Sấy vật liệu
5 Máy lắc Khảo sát khả năng hấp phụ của vật liệu bằng
phương pháp hấp phụ tĩnh
6 Máy đo quang Xác định nồng độ NH4+, Mn2+
36
7 Máy AAS Xác định nồng độ dung dịch, Cd2+ và các kim
loại khác
8 Máy Đo Phổ hồng ngoại Xác định các nhóm chức trên bề mặt vật liệu
9 Máy đo BET Xác định diện tích bề mặt than
10 Các dụng cụ thủy tinh phổ
biến trong PTN
Tiến hành các thí nghiệm phụ trợ
Bảng 2. danh mục các Hóa chất cần thiết cho nghiên cứu
STT Tên hóa chất Mục đích
1 HNO3 Oxi hóa than
2 NaOH Trung hòa bề mặt vật liệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- a1.PDF