MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài. 8
2. Mục đích yêu cầu. 9
3. NhiÖm vô nghiªn cøu . 10
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. 10
5. Tình hình nghiên cứu đề tài. 11
6. Phương pháp nghiên cứu. 14
7. Cấu trúc luận văn. 14
Chương 1 : Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài. 15
1.1. Cơ sở nhận thức luận . 15
1.2.1. Chất và Lượng . 15
1.2.2. Thời gian và Không gian . 16
1.2.3. Vận động và Phát triển . 17
1.2. Chỉ tiêu : Diễn giải, cấu trúc, phương pháp xử lí dữ liệu . 19
1.2.1. Nội hàm và ngoại diên khái niệm 19
1.2.2. Diễn giải và cấu trúc . 20
1.2.3. Phương pháp xử lí dữ liệu . 21
1.3. Tiêu chí hóa trong nghiên cứu vùng lãnh thổ dân cư, xã hội 30
1.3.1. Trong nghiên cứu vùng địa lí tự nhiên . 30
1.3.2. Trong nghiên cứu vùng địa lí dân cư, xã hội . 33
1.4. Chỉ tiêu hóa trong dạy học Địa lí 9 theo hướng tích cực hóa . 37
1.4.1. Nội dung dạy học phần vùng trong CT & SGK Địa lý 9 37
1.4.2. Nội dung dạy học Mục III : Đặc điểm dân cư, xã hội theo vùng
trong SGK Địa lý 9 .38
1.5. Tiêu chí hóa trong nghiên cứu tái định dạng Địa - Kinh tế .41
1.5.1. Nội dung tổng quát . 41
1.5.2. Một số khái niệm cơ bản . 43
Tiểu kết chương 1 44
Chương 2 : Cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội
theo vùng lãnh thổ trong Địa lí 9 . 46
2.1. Nhận thức chung về cơ sở vùng của các chỉ tiêu dân cư, xã hội . 46
2.1.1. Quan niệm về vùng . 46
2.1.2. Phân hóa vùng dưới tác động của quá trình CNH-HĐH . 47
2.2. Quan điểm và nguyên tắc chung . 52
2.2.1.Quan điểm 52
2.2.2. Các nguyên tắc cập nhật . 53
2.3. Cập nhật nội dung theo các chỉ tiêu phát triển DCXH . 55
2.3.1. Mật độ dân số 55
2.3.2. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số . 58
2.3.3. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị / thiếu việc làm ở nông thôn 60
2.3.4. Tỉ lệ hộ nghèo và vấn đề xóa đói giảm nghèo . 62
2.3.5. Đánh giá sự phát triển con người các chỉ số HDI. 63
2.3.6. Thu nhập bình quân đầu người.65
2.3.7. Tỉ lệ người lớn biết chữ (%) 67
2.3.8. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam (năm) . 68
2.3.9. Tỉ lệ dân thành thị / nông thôn (%) . 70
2.4. Cập nhật các chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng . 71
2.4.1. Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ 71
2.4.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng.73
2.4.3. Vùng Bắc Trung Bộ.76
2.4.4. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. 78
2.4.5. Vùng Tây Nguyên 80
2.4.6. Vùng Đông Nam Bộ. . 82
2. 4.7. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 84
2.4.8. Cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển DCXH vùng Biển - Đảo Việt Nam.86
Tiểu kết Chương 2 91
Chương 3. Thực nghiêm sư phạm .92
3.1. Các nguyên tắc chung 92
3.1.1. Mục đích và đối tượng thực nghiệm . 92
3.1.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm . 92
3.1.3. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm . 92
3.2. Đối tượng và Phương pháp thực nghiệm .93
3.2.1. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 93
3.2.2. Các bước thực nghiệm sư phạm . 94
3.2.2.1. Chọn trường, chọn giáo viên, chọn lớp thực nghiệm . 94
3.2.2.2. Điều tra cơ bản, đánh giá và chiến lược . 94
3.2.2.3. Thiết kế kịch bản tích hợp hệ thống chỉ tiêu 96
3.3. Triển khai và đánh giá 100
3.3.1. Triển khai thực nghiệm.100
3.3.2. Phương pháp đánh giá . . .101
3.3.3. Phân tích kết quả thực nghiệm . 101
Tiểu kết Chương 3 104
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 106
Tài liêu tham khảo . 109
Phụ lục .
127 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1922 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu cập nhật hệ thống chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội theo vùng và vận dụng trong dạy học Địa lí 9, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
và các Chương trình TB, TN, Tây Nam Bộ, thể hiện qua các kịch bản quy
hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của cấp tỉnh, thành; đồng thời phải có sự
chỉ đạo, từ trung ương đối với việc thực hiện nghiêm minh các quy hoạch, kế
hoạch đó, nhằm đạt được những kết quả thực tế về liên kết nội vùng, liên
vùng theo tỉnh, thành phố.
Cần xây dựng một số chủ trương, chính sách có tính đặc trưng cho mỗi
vùng, và có khả năng kết nối liên vùng; đồng thời xác định quyền hạn, trách
nhiệm cho một số tỉnh, thành có chức năng điều phối liên kết nội vùng. Thí dụ
Hà Nội đang xây dựng chiến lược KTXH "vùng Hà Nội" bao quát cả vùng
kinh tế động lực phía Bắc; tương tự là vai trò của TP Hồ Chí Minh đối với
vùng kinh tế động lực phía Nam; vai trò của Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi với
Dung Quất và Khánh Hòa với Nha Trang trong chuỗi hoặc dải kinh tế động
lực miền Trung.
Ba là, xây dựng, thực hiện một số chương trình thúc đẩy liên kết nội
vùng, liên vùng trên các phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa, và thúc đẩy
phát triển nhanh ở một số vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, biên giới, hải đảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
thực sự khó khăn trên cơ sở rà soát và phối hợp với các chương trình, dự án
hiện có. Hiện nay, ngoài các chương trình TB, TN, Tây Nam Bộ, vùng KTTĐ
(hay động lực) Bắc, Trung, Nam còn có các chương trình khác liên quan
nhiều đến sự phát triển các vùng, như : Chương trình 135, chương trình trồng
5 triệu ha rừng, Chương trình xây dựng biên giới, hải đảo, Chương trình bảo
tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số... Do đó, cần thiết phải rà
soát, phối hợp các chương trình này vào thực hiện phương hướng liên kết nội
vùng, liên vùng.
2.2. QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC CHUNG
2.2.1.Quan điểm
Tiếp cận vùng lãnh thổ có vai trò cơ bản trong mọi nghiên cưu về địa lí
nói chung và địa DCXH nói riêng. Đến lượt mình, nội dung địa lí DCXHđược
coi như là các yếu tố trụ cột trong nghiên cứu các vùng lãnh thổ KTXH.
Vùng lãnh thổ DCXH được xem xét trên ba khía cạnh : nền tảng tự nhiên -
Địa lí tự nhiên / nền tảng dân tộc học - Địa lí các tộc người, trong đó vai trò
chủ thể thuộc về cộng đồng các dân tộc cư trú trên địa bàn lãnh thổ nền tảng
trình độ phát triển con người - Trình độ phát triển nhân văn lấy con người là
chủ thể.
-Tính liên thông đồng bộ với các vùng trong nước, và ở chừng mực nhất
định, phải tuân thủ với các qui định quốc tế. Trong điều kiện Việt Nam, các
vùng DCXH cần được xem xét trên ba khía cạnh: Nền tảng tự thân của vùng;
Các quan hệ liên vùng trong khuôn khổ quốc gia Việt Nam / Các mối liên hệ
quốc tế - trong khuôn khổ hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó suy ra, các tiêu chí
phát triển DCXH phải là đồng nhất làm thước đo chung cho mọi vùng có tính
tới các nghiên cứu mơi nhất của các tổ chức quốc tế, trước hết là theo các tiêu
chí chung của WB, IMF, UNESCO, UNDP…:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
- Phải tôn trọng mặt bằng chung cả nước về các vấn đề DCXH. Mỗi
vùng là bộ phận hợp thành chung của hệ thống vùng lãnh thổ dân cư xã hội cả
nước. Mỗi vùng cụ thể không tách rời chiến lược phát triển đất nước thời kì
CNH - HĐH và hội nhập quốc tế; từ dó suy ra, các tiêu chí cũng như các chỉ
tiêu hợp thành phải cùng đơn vị đo, ít nhất phải cùng một nguồn dữ liệu cơ
sở, tốt nhất dựa trên các số liệu trong Niên giám thống kê quốc gia của Tổng
cục thống kê thuộc Bộ KH&ĐT.
- Coi trọng sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuối HS, vừa sức với
trình độ hiểu biết của HS, đặc biệt là HS ở trình độ học lực trung bình, có
tính tới một số học sinh ở các trương thành phố cũng như nhiều HS ở các
vùng khó khăn chậm phát triển. Với tinh thần đó, vấn đề được làm nổi bật với
HS THCS chủ yếu và trước hết là hệ thống các chỉ tiêu đo bằng số liệu cụ thể, có
tính đại diện. Với HS các bậc THPT, CĐ và ĐH thì nội dung các tiêu chí chủ
yếu là các đại lượng đo bằng các thang bậc cao và trừu tượng hơn, thể hiện bằng
% hoặc các cấp so sánh như kém phát triển, phát triển, rất phát triển v.v…
- Việc lựa chọn khách quan các tiêu chí và nội dung tiêu chí thường là
phức tạp, đồi hỏi phải có nguồn tư liệu thống kê chính thống. Điều này rất
khó thực hiện trong điều kiện thống kê của Việt Nam. Do vậy người GV phải
biết lựa chon các chỉ tiêu chí tiêu biểu đồng thời phải đảm bảo rằng các chỉ
số, chỉ tiêu với thước đo định lượng là có căn cứ và khả thi.
2.2.2. Các nguyên tắc cập nhật
Trong quá trình giảng dạy các bài về vùng, tuỳ từng bài, GV phải tôn trọng
các nguyên tắc sau :
- Nguyên tắc thứ nhất là vừa phải đảm bảo những nội dung cơ bản của
của bài học Địa lí, đồng thời tích hợp nội dung mới nhưng phải phù hợp với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
bài học đồng thời phải đảm bảo tính hệ thống và đặc trưng của môn học, tránh
mọi sự gượng ép ảnh hưởng đến việc lĩnh hội kiến thức của bộ môn.
- Nguyên tắc thứ hai là truyền thụ các nội dung mới về các tiêu chí cần
tiến hành đồng thời một cách tự nhiên, không gò bó, gắn bó hữu cơ với nhau
tạo nên một thể thống nhất trọn vẹn.
- Nguyên tắc thứ ba là việc đưa nội dung mới trong các tiêu chí phải
được chọn lọc, tập trung; điều đó có nghĩa là không phải chương nào, bất kỳ
bài nào cũng đưa vào để giảng dạy. Trong quá trình dạy học, GV phải chọn
những tiêu chí phù hợp, không trùng lập, không quá tải, gây phản cảm với
cái "cũ' tuy vẫn có giá trị lịch sử. Trong nghiều trường hợp, chính việc tích
hợp các chỉ tiêu mới lại làm phức tạp thêm tình hình (!?). Ví dụ : Chỉ số thu
nhập bình quân đầu người (GDP / người) những năm gần đây giảm mạnh do
lạm phát và một số nguyên nhân khách quan khác. Ba nguyên tắc trên đây
được coi là cơ bản trong cập nhật các chỉ tiêu mới trong các tiêu chí phát triển
DCXH trong chương trình phổ thông. Có thể vận dụng các nguyên tắc và
cách tiếp cận bằng hai cách : (1) tích hợp trong khi giảng đối với những bài có
nội dung gần với nội dung của tài liệu dạy học, (2) liên hệ thực tế quê hương
với nội dung tương ứng trong bài giảng. Những kiến thức mục III tại các bài
học về vùng trong CT&SGK Địa lí 9 sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn những khái
niệm địa lí, bổ xung và cụ thể hoá những kiến thức tiếp thu trên lớp gây cho
học sinh sự hứng thú, lòng ham hiểu biết, muốn đóng góp sức mình vào việc
làm cho địa phương giàu có, tiến bộ. Để gắn với kiến thức mục III với các bài
học về ĐLĐP vào nội dung bài giảng GV phải xuất phát từ những kiến thức
cụ thể của SGK và nội dung khoa học của bài giảng. Theo tinh thần đó, GV
không những phải cập nhật mục III theo các vùng mà còn theo mục tương
ứng trong ĐLĐP tỉnh / thành phố quê hương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
2.3. CẬP NHẬT NỘI DUNG THEO CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN DÂN CƢ,
XÃ HỘI
2.3.1. Mật độ dân số (ngƣời / km
2
)
Mật độ dân số là số người trên đơn vị diện tích, thông thường có thể
tính cho một vùng, một thành phố, một quốc gia, một đơn vị lãnh thổ hay toàn
bộ thế giới. Dân số của Việt Nam hiện nay là 86,5 triệu người, đứng thứ 13
trên thế giới, thuộc nhóm nước có dân số đông trên thế giới, mật độ trung
bình là 227 người /km2, nhưng mật độ dân cư phân bố không đồng đều giữa
các vùng và giữa các khu vực.
UNDP đã tính toán rằng, để cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1km2,
chỉ nên có từ 35 đến 40 người. Mật độ dân số nước ta năm 2008 lên tới gần
260 người/km2. Như vậy, ở Việt Nam, mật độ dân số đã gấp khoảng 6 - 7 lần
"mật độ chuẩn". Trên thế giới, chỉ có 4 nước (ấn Độ, Nhật Bản, Băng-la-đét, Phi-
líp-pin) có dân số nhiều hơn và mật độ dân số cao hơn nước ta. Có thể khẳng
định rằng Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số rất lớn. Tuy nhiên, dân số
nước ta vẫn tăng mạnh : trong 5 năm gần đây, mỗi năm dân số nước ta vẫn tăng
thêm khoảng 1,1 triệu người, nghĩa là bằng dân số một tỉnh loại trung bình (nước
ta có 39 tỉnh có dân số từ 1,1 triệu trở xuống).
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, năm 2024, dân số nước ta sẽ vượt
100 triệu người, mật độ dân số sẽ lên tới 335 người/km2. Quy mô dân số rất
lớn, mật độ dân số rất cao và vẫn đang tăng mạnh như trình bày ở trên, bên
cạnh việc tạo ra thị trường tiêu dùng qui mô lớn, nguồn lao động dồi dào, giá
rẻ, có sức hấp dẫn đầu tư, cũng góp phần không nhỏ làm trầm trọng thêm
những khó khăn trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện tình
trạng y tế, giáo dục, nhà ở, xóa bỏ tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông.
Vì vậy, nâng cao chất lượng dịch vụ dân số và sức khỏe sinh sản (DS-
SKSS) một nội dung cần ưu tiên hàng đầu trong chính sách dân số nói riêng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
và chính sách kinh tế - xã hội nói chung ở nước ta. Cụ thể là cần có những
chính sách, luật pháp điều chỉnh vấn đề sinh sản, đẩy mạnh tuyên truyền, bảo
đảm dịch vụ, phương tiện có chất lượng cao nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời
nhu cầu của người dân. Coi kỹ thuật DS-SKSS là một trong những lĩnh vực
kỹ thuật hàng đầu của nước ta. Các chính sách phát triển phải hướng mạnh
đến tạo việc làm, đa dạng hóa ngành nghề, chuyển đổi cơ cấu lao động từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện tốt việc điều chỉnh quy
mô dân số trên phạm vi toàn quốc cũng như từng vùng, miền, bao gồm DS-
SKSS, di cư và đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Trong hơn 20 năm qua bức tranh về sự phân bố dân cư có sự thay đổi
trong phạm vi cả nước dân số ở miền núi đã tăng lên rõ rệt, vùng đồng bằng
có sự giảm nhẹ. Sự thay đổi trong bản đồ phân bố dân cư trong thời gian ngắn
đã gắn với việc phân bố sản xuất và cân đối phân bố nguồn tài nguyên.
ĐBSH và DHMT là hai vùng mà nhà nước chủ trương giãn dân , giảm
sức ép dân số, số người chuyển đến ít hơn số người chuyển đi. TN và ĐNB là
hai địa bàn chủ yếu chuyển dân tới, đặc biệt để xây dựng các vùng kinh tế
mới, các nhóm dân cư mới đến định cư đem theo những yếu tố mới cho cộng
đồng làm cho nó trở nên năng động hơn nhưng đồng thời cũng đòi hỏi phải có
thời gian mới trở nên ổn định đựơc.
Tuy nhiên trong thực tế đại bộ phận những người chuyển cư là nông
dân sống dựa vào đất, nhưng bình quân đất nông nghiệp của nước ta không
quá chênh lệch giữa các vùng. Do vậy việc di dân nông nghiệp giữa các vùng
có xu hướng thu hẹp quy mô. Hướng phân bố lao động tại chỗ cùng với việc
ổn định dân số tại chỗ sẽ ngày càng tăng ý nghĩa .
Mặt khác thay cho di dân nông nghiệp phải là di dân công nghiệp gắn
với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển các khu công nghiệp và
dịch vụ, gắn với đô thị hóa trên các vùng của đất nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
ĐBSH với diện tích 14.685,5 km2 mật độ dân số cao có quan hệ trực
tiếp với nền nông nghiệp thâm canh lúa nước và cơ cấu nghành nghề đa dạng,
sự hiện diện của các thành phố, trung tâm công nghiệp, các dịch vụ lớn cũng
góp phần vào việc làm tăng mật độ dân số của đồng bằng.
ĐBSCL với diện tích 39.569,9 km2 là vựa lúa lớn nhất nước ta, phần
lớn dân cư sinh sống ở khu vực tam giác châu và dọc theo 2 nhánh sông
chính, những tỉnh có mật độ dân số cao như Tiền Giang (686 người/km2),
Vĩnh Long (680 người/km2 ).
Hiện nay hệ thống đồng bằng duyên hải miền Trung nhỏ hẹp, tiềm
năng nông nghiệp không lớn như hai đồng bằng trên, nên mật độ dân số
không cao lắm.
Trong điều kiện diện tích tự nhiên và đất nông nghiệp ở các vùng đồng
bằng có hạn, mật độ dân số cao đã rất khó khăn cho việc tạo đủ công ăn việc
làm, đảm bảo nhu cầu cảu đời sống và phúc lợi xã hội. Với dân số lớn và tỉ
suất tăng dân số vẫn tiếp tục diễn ra hằng năm ở mức trên 1% cho tới năm
2019, thì tình hình trên ngày càng trầm trọng hơn.
Theo kết quả dự báo dân số Việt Nam tới năm 2024 (dự án
VIE/97/P14) thì đến năm 2019 vùng ĐBSH sẽ tăng thêm 2,91 triệu người và
mật độ dân số sẽ tăng lên 1.408 người/km2, tương tự như vậy vùng ĐBSCL sẽ
tăng lên 4,84 triệu người và mật dộ dân số sẽ là 554 người/km2 .
Vì vậy, ngay từ những năm 60 thế kỉ trước, nhà nước đã tiến hành việc
di dân và phân bố lại dân cư - lao động theo hướng từ đồng bằng lên miền núi
và trung du. Sau 1975, phong trào này tăng nhanh về số lượng và cường độ .
Nước ta có 3/4 diện tích là đồi núi, mặc dù khu vực này có nhiều nguồn
lực để phát triển kinh tế, nhìn chung địa hình chia cắt phức tạp, mật độ dân số
càng thấp, tuy nhiên giữa các vùng trung du và miền núi mật độ có khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
Ở ĐB dân cư đông đúc hơn như Bắc Giang (390 người /km2), Phú Thọ (361
người/km2), Thái Nguyên (293 người /km2), tuy nhiên còn một số tỉnh như
Bắc Kạn, Lào Cai, Hà Giang mật độ thấp hơn. Ở vùng núi TB, địa hình hiểm
trở, dân cư phân tán, quá thưa thớt so với mật độ trung bình cả nước.
Ở vùng TN, có tài nguyên phong phú nhưng sự phân bố dân cư không
tương xứng với nguồn tài nguyên. Kon Tum là tỉnh có mật độ dân số thấp
nhất cả nước (32 người/km2).
2.3.2. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số (%)
Trong điều kiện đất chật người đông, kinh tế kém phát triển, thì dân số
đông, tốc độ tăng dân số cao là một trong những nguyên nhân làm trầm trọng
và căng thẳng thêm tình trạng đói nghèo, gây ra hàng loạt khó khăn trong
phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó cũng là nguồn gốc của
sự căng thẳng xã hội, gia đình, tính gay gắt của các vấn đề thất nghiệp, môi
trường, giáo dục và y tế . Kết quả là chất lượng dân số bị suy giảm.
Để đo lường mức sinh, người ta dùng nhiều chỉ tiêu, thông thường nhất
là "tỉ suất sinh thô". Tỉ suất này biểu thị số trẻ được sinh ra trong 1 năm, tính
trung bình trên 1.000 dân. Tỉ suất sinh thô của Việt Nam năm 1957 là 44‰,
sau 50 năm đẩy mạnh KHHGĐ, tỉ suất này giảm xuống còn 17,2‰ vào năm
2007. Tuy "tỉ suất sinh thô" giảm nhiều nhưng với số dân lớn nên số trẻ em
sinh ra trong một năm hiện nay gần 1 triệu khoảng 1,5 triệu.
Số con trung bình của mỗi phụ nữ Việt Nam cũng không ngừng giảm
xuống. Từ chỗ mỗi phụ nữ đến hết tuổi sinh đẻ trung bình có 6 đến 7 con,
mấy năm nay gần đây, chỉ sinh 2 con tức là đã đạt "mức sinh thay thế". Việc
mỗi phụ nữ chỉ sinh 2 con, chắc chắn có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến sức
khỏe, học vấn, việc làm, thu nhập, địa vị xã hội của họ mà còn ảnh hưởng
theo hướng tích cực tới việc nuôi, dạy con cái, hạnh phúc gia đình, sự phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
triển của cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên, mức sinh ở các vùng còn khác
nhau: TB, TN có mức sinh cao khoảng gấp rưỡi vùng ĐBSH và ĐNB.
Hiện nay, cần chú trọng cung ứng đầy đủ và liên tục phương tiện và
dịch vụ DS &SKSS có chất lượng cao để giữ vững tỉ lệ tránh thai, mức sinh
đã đạt được, tức là đẩy mạnh Chương trình KHHGĐ đi vào chiều sâu hơn là
bề rộng. Chương trình DS &SKSS cần có sự tập trung, ưu tiên trước hết cho
TN, TB nói riêng và nông thôn nói chung; DS&SKSS ở miền núi phải đồng thời
với việc ưu tiên xây dựng và thực hiện chính sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em,
giảm thấp tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh nói riêng và tỉ lệ tử vong ở trẻ em nói chung.
Từ mức tăng trung bình 2,1% mỗi năm trong thập niên 80 và hiện nay
đã giảm xuống còn 1,2%, việc cải thiện mức sống vật chất cũng như môi
trường sống cởi mở hơn, là những yếu tố chủ yếu làm tăng tuổi thọ của người
dân từ 63,4 tuổi năm 1992 lên 76 tuổi năm 2007.
Quan niệm của người dân, đặc biệt của hàng triệu gia đình nông dân, về
hạnh phúc gia đình , về nuôi dạy con cái đã biến đổi, cách nghĩ “trời sinh voi,
trời sinh cỏ”, “đông con nhiều phúc”, “trọng nam khinh nữ” vốn đã từng chi
phối động thái dân số cảu Việt Nam, hàng ngàn năm đã bắt đầu thay đổi một
cách sâu sắc và nhanh chóng. Người dân đã thấy được lợi ích của việc giảm
mức sinh đẻ đối với chính gia đình mình trong tác động qua lại với cả xã hội.
Đặc biệt phụ nữ là người được hưởng lợi ích nhiều nhất từ việc giảm tỉ
lệ sinh đẻ, nhờ giảm số lần sinh, thời gian phụ nữ phải chịu đựng những vất
vả của việc mang thai và rủi ro sinh nở giảm xuống. Đồng thời do ít con nên
gánh nặng của việc nuôi dạy con mà họ phải gánh vác, phần lớn cũng bớt đi,
nhưng ở nông thôn, thời gian làm việc mỗi ngày của phụ nữ, thường từ 14 –
16 giờ, dài hơn của nam giới 4 – 6 giờ, ngoài ra họ còn phải đảm nhận các
công việc nội trợ và chăm sóc con cái, chính vì vậy nên quan tâm đến việc
giải phóng phụ nữ và tăng sự bình đẳng về giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Tóm lại thành tựu về giảm tốc độ tăng dân số ở Việt Nam trong những
năm vừa qua là to lớn, song cũng có nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là gánh
nặng nuôi dạy con và chăm sóc trẻ em trước mắt và áp lực việc làm, thất
nghiệp sẽ tăng trong tương lai.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, kinh tế của mỗi gia đình có phần
khá giả hơn thì lại có nghĩ, sinh thêm con để thừa hưởng tài sản để lại, nhất là
sinh con trai, nên gia tăng tự nhiên lại có phần nhích lên và một điều quan
trọng nữa là họ đã biết những chỗ sơ hở để lách luật, hiện nay Nhà nước đang
phải xem xét và sự chấn chỉnh pháp lệnh dân số.
2.3.3. Tỉ lệ thất nghiệp ở đô thị / thiếu việc làm ở nông thôn (%)
Thiếu việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam, luôn là một vấn đề chủ yếu
phải xử lí trong quá trình phát triển. Ba yếu tố chính có quan hệ nhân quả với
nhau dẫn đến tình trạng này, thứ nhất là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các
nguồn lực dân số trẻ, lao động dư thừa trong điều kiện khan hiếm các nguồn
các nguồn lực sản xuất như vốn, đất đai; thứ hai là hiệu quả sử dụng lao động
thấp chủ yếu do những khiếm khuyết về thể chế, chính sách kinh tế làm sai
lệch sự phân bố các nguồn lực; thứ ba là tình trạng thiếu lao động có kĩ năng
chuyên môn mặc dù lao động nói chung dư thừa.
Nhìn nhận một cách tổng thể, đổi mới kinh tế của Việt Nam là quá trình
mở rộng cơ hội việc làm và nâng cao hiệu quả lao động, hiện nay nền kinh tế
nhà nước đã đổi hướng, trao quyền tự chủ hơn cho các doanh nghiệp, khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, là
những khâu cơ bản trong việc hình thành chủ thể mới trong nền kinh tế.
Cho dù tác động của mỗi khâu này đến việc giải quyết vấn đề việc làm
với hai yêu cầu giải tỏa áp lực thất nghiệp và nâng cao hiệu quả lao động là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
khác nhau, song mục tiêu của tất cả các khâu là thống nhất, hình thành nên
một cơ chế phân bổ nguồn nhân lực mới .
Cơ cấu kinh tế đã bắt đầu hình thành trong các quan hệ thị trường lao
động, tạo ra việc phân bổ nguồn nhân lực có hiệu quả và phát huy tính năng
động của người lao động, xuất hiện sự cạnh tranh lao động, nhất là lao động
có chuyên môn và lao động tri thức giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước với
khu vực tư nhân và khu vực có nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Với việc
chuyển sang cơ chế thị trường, người lao động nhất là người nông dân, đối
diện với sự gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng của nhu cầu xã
hội, trong các rào cản về hành chính – địa lí giảm di chuyển lao động trở nên
tự do hơn.
Nhìn chung công cuộc Đổi mới đã giạm nhẹ sức ép của tình trạng thiếu
việc làm và thất nghiệp, trong giai đoạn 1991 – 1999 số lao động có việc làm
trong nền kinh tế tăng 30,8%, mức tăng GDP khá cao liên tục, làm giảm tỉ lệ
thất nghiệp ở thành thị, đặc biệt cơ cấu lao động đã có sự thay đổi đáng kể,
theo chiều hướng tích cực, số lao động hoạt trong khu vực NLN ngày càng
giảm, tăng lên ở khu vực CN và DV.
Tóm lại có hai điểm nổi bật về động thái tăng trưởng việc làm trong
thời kì đổi mới, một là chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở cửa khơi dậy
tiềm năng to lớn của cả xã hội, tạo điều kiện giúp người lao động lựa chọn việc
làm tự do và chủ động hơn; hai là, Nhà nước không còn đóng vai trò là kênh tạo
việc làm duy nhất, thì sự thích ứng hợp lí của Nhà nước với lực lượng thị trường
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc mở rộng cơ hội việc làm.
Tạo việc làm ổn định là điều kiện cần thiết để người dân vượt khó ,
nâng cao mức sống không ngừng hoàn thiện năng lực cá nhân thích ứng tốt
nhất với những cơ hội mới và tình hình phát triển mới. Thất nghiệp và thiếu
việc làm không chỉ làm giảm sản lượng, mà còn làm tăng chi phí xã hội và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
các vấn đề như di dân, bạo lực và các tệ nạn xã hội khác. Đây cũng chính là
nguy cơ tiềm tàng dẫn tới bất ổn định về kinh tế và xã hội .
Trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế đang gặp khó khăn do lạm
phát, thì để có một việc làm ổn đinh là vô cùng khó, đi đôi với nó là tình trạng
thiếu thợ có tay nghề cao, việc làm thì nhiều nhưng không phải ai cũng làm
được, một phần là do quá trình đào tạo chưa kĩ và còn do tác phong của người
Việt Nam vẫn mang hơi hướng tác phong nông nghiệp. Trong khi dư thừa lao
động lại phải đối mặt với vấn đề chất lượng lao động và có sự cạnh tranh với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tương quan giữa tỉ lệ lao động không có chuyên môn với tỉ lệ thiếu
việc làm khá chặt chẽ, tình hình đó đã hạn chế khả năng và hành vi lựa chọn
giữa học tiếp và đi làm của giới trẻ
2.3.4. Tỉ lệ hộ nghèo và vấn đề giảm nghèo (%)
Trong vòng 10 năm tới, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức
lớn về phát triển đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta coi việc xóa bỏ căn
bản tình trạng đói nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia vào năm 2010 như một
trong những mục tiêu của chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2001-2010.
Tính cấp thiết của công cuộc giảm nghèo càng được thể hiện sâu sắc vì
Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, chênh lệch giàu
nghèo đang có chiều hướng gia tăng và nguy cơ tái nghèo còn lớn, nhiệm vụ
tiến kịp các nước phát triển hơn là đầy thách thức ngay khi tình trạng đói
nghèo đang được khắc phục, mức tụt hậu về thu nhập, dẫn tới nguy cơ chênh
lệch về kết cấu hạ tầng hạn chế việc giải quyết thành công công cuộc phát
triển kinh tế xã hội và giảm nghèo.
Mặc dù đã có những thành tựu giảm nghèo đầy ấn tượng trong những
năm 90, nhưng Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
giới. Trên 70% dân số sống trong vùng nông thôn có thu nhập bình quân đầu
người dưới 500 USD. Trong khi tình trạng đói nghèo vẫn là một thách thức
đối với Việt Nam, thì vấn đề chênh lệch giàu nghèo lại có chiều hướng gia
tăng trong phạm vi cả nước, giữa thành thị và nông thôn, cũng như giữa các
tỉnh và địa phương trong cả nước. Đây là một thách thức mới cho quá trình
phát triển bền vững mang tính nhân văn ở Việt Nam.
Tình trạng nghèo sẽ liên quan đến nhiều chỉ số khác như chỉ số HDI,
HPI liên quan đến sự phát triển con người được thể hiện ở sự chênh lệch về
thu nhập. Phát triển con người được hiểu theo nghĩa rộng và đo lường qua chỉ
số phát triển con người cũng thể hiện sự chênh lệch sâu sắc, đặc biệt là giữa
các vùng trong cả nước. Ngoài Bà Rịa -Vũng Tàu là tỉnh theo thống kê có thu
nhập bình quân đầu người cao nhất do các nguồn thu từ khai thác dầu mỏ, các
tỉnh và thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng
đứng ở vị trí đầu bảng về thu nhập bình quân đầu người, đây cũng là các tỉnh
có chỉ số phát triển con người cao nhất. Tuy nhiên quan hệ giữa thu nhập và
phát triển con người không phải là hoàn toàn chặt chẽ, các tỉnh Điện Biên, Lai
Châu, Hà Giang, Kon Tum, Sơn La, Lào Cai và Bắc Kạn có thứ hạng thấp cả
về chỉ tiêu, nhưng Gia Lai và Cao Bằng có chỉ số phát triển con người thấp
hơn so với điều kiện thu nhập thực tế.
Chênh lệch trong xếp hạng về thu nhập với xếp hạng về HDI là rất lớn
các tỉnh Nam Định, Hà Tĩnh, Ninh Bình là những tỉnh có xếp hạng HDI cao
mặc dù xếp hạng về thu nhập lại thấp. Ngược lại An Giang, Tuyên Quang,
Bắc Giang và Phú Yên là những tỉnh có điều kiện tốt thu nhập chưa được tận
dụng để thúc đẩy thành quả về phát triển con người.
2.3.5. Đánh giá sự phát triển con ngƣời Việt Nam qua các chỉ số HDI
Theo đánh giá chung, HDI của Việt Nam đã được cải thiện từ mức dưới
0,69 lên khoảng gần 1%, như vậy sự phát triển con người đã có một bước tiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
đáng kể, đáng lưu ý mức tăng HDI là kết quả của sự gia tăng ở tất cả các chỉ
số cấu thành : GDP bình quân đầu người (theo USD PPP), tuổi thọ và trình độ
giáo dục qua đó phản ánh nỗ lực của Việt Nam nhằm phát triển toàn diện
cuộc sống của người dân.
Các chỉ số HDI của Việt Nam đều cải thiện đáng kể trong những năm
vừa qua, đáng chú ý là mọi chỉ số cấu thành của HPI và HDI đều được cải
thiện, cho tháy sự nghiệp phát triển con người được đẩy mạnh trên mọi khía
cạnh. Nói cách khác, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy sự nghiệp phát
triển con người một cách toàn diện. Các dịch vụ cơ bản như dịch vụ y tế đã dễ
tiếp cận hơn, qua đó góp phần nâng cao tuỏi thọ và chất lượng cuộc sống của
người dân. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ca
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16LV09_SP_LLampPPDHNguyenThiTrangNhung.pdf