MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 2
Phần I. MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Đối tượng nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Phần II: NỘI DUNG - 5 -Chương 1. NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN VỀ MÁY XÚC VÀ GẦU XÚC CÔNG
DỤNG CHUNG KOMATSU PC220
1. Giới thiệu chung 5
1.1 Giới thiệu chung về các loại máy xúc thuỷ lực gầu ngược - 5 -1.2. Giới thiệu chung về các loại gầu xúc - 6 -2. Cấu tạo, nguyên lý làm việc của máy xúc Komatsu PC220 - 9 -3. Nghiên cứu về động học và động lực học quá trình làm việc cảu gầu xúc 15
3.1. Động học và động lực học gầu xúc 15
3.2. Phân tích lực tác động lên gầu xúc 29
Chương 2. NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ PHÁ HỎNG VÀ ĐỀ XUẤT PHưƠNG ÁN
CHẾ TẠO PHỤC HỒI34
1.Mòn vật liệu 35
1.1. Mòn kim loại và hợp kim 36
1.2. Ma sát và mòn chất dẻo 41
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới mòn 41
2. Các dạng hỏng và nguyên nhân 47
2.1. Đánh giá và phân loại các dạng hỏng 47
2.2. Cơ chế phá hỏng và nguyên nhân gây ra với một số chi tiết chủ yếu 51
3. Hiện trạng công nghệ chế tạo phục hồi gầu xúc tại Việt Nam 60
3.1 Các số liệu khảo sát từ thực tế 60
3.2. Nhận xét: 63
4. Đề xuất giải pháp công nghệ chế tạo phục hồi 66
4.1 Giới thiệu chung 66
4.2.Phân loại các dạng hỏng 68
4.3.Đề xuất phương pháp phục hồi chi tiết 70
5. Kết luận 72
Chương 3.NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ CHẾ
TẠO PHỤC HỒI GẦU XÚC KOMATSU PC22074
1.Chọn phương pháp sửa chữa và phục hồi chi tiết 74
2. Phục hồi chi tiết 75
2.1. Phục hồi bằng hàn đắp 75
2.2. Phục hồi bằng gia công cơ khí 79
2.3. Đúc mới răng gầu 80
3. Thử nghiệm 82
4. Kết luận 82
Phần 3. KẾT LUẬN CHUNG 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
112 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu chế tạo phục hồi gầu công dụng chung của máy xúc Komatsu PC220 nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch chuyển điểm có ứng suất tiếp cực đại
lên gần bề mặt hơn (hình 2.11) do đó vị trí hỏng do mỏi tiến gần bề mặt hơn. Sự
trượt thúc đẩy sự phá huỷ bề mặt do dính. Bôi trơn thích hợp có thể hạn chế đến tối
thiểu ảnh hưởng phá huỷ bề mặt do trượt trong điều kiện tiếp xúc này.
* Mỏi tiếp xúc trƣợt
Khi hai bề mặt trượt tương đối mòn xảy ra do dính và cào xước. Tuy nhiên
có thể thấy rằng các đỉnh nhấp nhô có thể tiếp xúc và trượt với nhau mà không bị
dính hoặc cào xước. ứng suất tiếp xúc ở đỉnh các nhấp nhô làm cho đỉnh các nhấp
nhô ở một hoặc cả hai bề mặt bị biến dạng dẻo. Sự biến dạng ở bề mặt hoặc dưới bề
mặt xảy ra theo chu kỳ là nguyên nhân xuất hiện các vết nứt (từ mầm vết nứt hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
những chỗ trống hoặc vết nứt tế vi có sẵn) ở trên bề mặt hoặc dưới bề mặt. Các vết
nứt này tiếp tục phát triển. Sau một số lần tiếp xúc nhất định, các nhấp nhô này bị
phá huỷ và tạo thành hạt mòn. Rất khó có thể chứng minh mỏi là nguyên nhân mòn
chính trong một tập hợp các điều kiện xác định. Archard và Hirst cho rằng kim loại
dính sang bề mặt đối tiếp (material transfer) cuối cùng tách ra thành những hạt mòn
do quá trình mỏi.
Hệ số k trong phương trình mòn do dính được giải thích là xác xuất của một
đỉnh nhấp nhô tiếp xúc tạo ra một mảnh mòn mà không có một giải thích nào về bản
chất vật lý của việc tạo nên mảnh mòn. Mặc dù lý thuyết mòn do dính giải thích
hiện tượng dính vật liệu sang bề mặt đối tiếp nhưng không giải thích được hiện
tượng hình thành hạt mòn rời, đặc biệt sự hình thành hạt mòn của vật liệu cứng hơn
khi hai bề mặt trượt trên nhau.
Tất cả những điều này có thể giải thích bằng giải thuyết rằng mòn là một quá
trình mỏi. yếu tố k có thể hiểu rằng một hạt mài được tạo ra khi một nhấp nhô có số
lần tiếp xúc và biến dạng đủ để tạo nên sự nứt vì mỏi. Khi điều này xảy ra, một hạt
mòn rời được tạo ra và tất nhiên cơ chế này dùng để giải thích cho sản phẩm của
các hạt mòn hình thành từ cả bề mặt vật liệu rắn hơn và mềm hơn. Cơ chế mòn do
mỏi không loại bỏ khả năng dính của vật liệu sang bề mặt đối tiếp bằng cơ chế dính
nhưng dường như phần lớn các hiện tượng mòn đều có thể giải thích về định tính
trên khía cạnh mòn do mỏi.
Kragelskii cố gắng xây dựng một lý thuyết mỏi định lượng dựa trên các kết
quả của Tavernelli và Coffin người đã chỉ ra rằng trong một dải rộng của vật liệu
biến dạng dẻo tạo ra trong mỗi chu kỳ mỏi có quan hệ với số chu kỳ phá huỷ N theo
công thức sau:
N
p
ailf
2
2
Trong đó: p là độ lớn biến dạng dẻo sau mỗi chu kỳ;
fail là biến dẻo khi phá huỷ trong kéo đúng tâm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Tuy nhiên Kragelskii dường như đã sử dụng tổng biến dạng chứ không phải
là chỉ biến dạng dẻo. Hơn nữa ông đánh giá xấp xỉ cường độ biến dạng theo hình
dạng hình học của nhấp nhô. Vì thế có thể thấy cho đến nay không có một lý thuyết
mòn do mỏi hoàn thiện nào tồn tại, mặc dù đây là cơ chế mòn dường như đáng tin
cậy hơn cơ chế của lý thuyết mòn do dính.
1.2.4. Mòn do va chạm
Mòn do va chạm gồm 2 loại chính: erosion gây ra bỏi các tia, dòng các hạt
rắn, các hạt chất lỏng và sự vỡ ra của bọt hình thành trong chất lỏng và mòn do va
chạm theo chu kỳ của các vật rắn.
1.2.4.1. Mòn do va chạm của hạt cứng (erosion)
* Khái niệm
Erosion là hiện tượng va chạm của các hạt cứng. Đây là một dạng của mòn
cào xước do hạt cứng gây ra nhưng có đặc trưng riêng đó là ứng suất tiếp xúc sinh
ra do năng lượng động lực học của các hạt khi va chạm vào bề mặt. Tốc độ của hạt,
góc va chạm kết hợp với kích thước
của các hạt tạo nên năng lượng va
chạm của chúng tỷ lệ với bình phương
vận tốc. Các hạt mòn do va chạm tách
ra khỏi bề mặt sau một số chu kỳ va
chạm nhất định.
Tương tự như mòn do cào xước
nguyên nhân của mòn do va chạm hạt
cứng là biến dạng dẻo và nứt tách phụ
thuộc vào vật liệu bị mòn và các thông
số của quá trình. Hình 2.12. chỉ ra sự
phụ thuộc của tốc độ mòn vào góc va
chạm, có thể thấy tốc độ mòn của vật liệu dẻo và dòn là rất khác nhau bởi chúng
xảy ra theo các cơ chế khác nhau (biến dạng dẻo và nứt tách). Hình dạng của các hạt
cứng ảnh hưởng đến kiểu biến dạng dẻo xảy ra quanh vị trí va chạm và có quan hệ
H×nh 2.12. Tèc ®é mßn va ch¹m h¹t
cøng lµ mét hµm sè cña gãc va ch¹m .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
với lượng vật liệu bị đẩy ra. Trong trường hợp vật liệu dòn, mức độ và sự khốc liệt
của vết nứt phụ thuộc vào độ sắc của các hạt, các hạt sắc gây mòn mạnh hơn so với
hạt cùn.
Đối với vật liệu dẻo, người ta đã quan sát được hai cơ chế mòn cơ bản do va
chạm của hạt cứng đó là cắt (cutting erosion) và cày (ploughing erosion). Tuy nhiên
mức độ mòn gây bởi hai cơ chế này cũng phụ thuộc vào góc va chạm. ở chế độ cắt
mòn xảy ra mạnh nhất theo phương grazing và chế độ cày theo phương vuông góc.
Độ cứng bề mặt và tính dẻo là hai tính chất quan trọng nhất của vật liệu chống lại
mòn do va chạm cắt và biến dạng dẻo của hạt cứng.
Mòn do va chạm của các hạt cứng là một vấn đề quan tâm trong máy móc
như sự va chạm của các hạt cát vào cánh tua bin, cánh máy bay lên thẳng, cánh quạt
máy bay, chắn gió máy bay, đầu phun cát, tua bin than, tua bin thuỷ lực bơm ly tâm
sử dụng bơm bùn than. Tuy nhiên va chạm hạt cứng cũng có nhiều ứng dụng có lợi
trong việc làm sạch các bề mặt của chi tiết máy.
* Phƣơng trình định lƣợng
Xem xét hiện tượng liên quan đến biến dạng dẻo gây ra bởi một hạt cứng va
chạm vào một bề mặt mềm hơn với góc va chạm bằng 90o. Giả thiết hạt cứng không
bị biến dạng và biến dạng của bề mặt là tuyệt đối dẻo với độ cứng không đổi. Tại
thời điểm t sau tiếp xúc ban đầu, hạt cứng với khối lượng dm và vận tốc v sẽ đi vào
bề mặt với chiều sâu là x và diện tích mặt cắt ngang tương ứng là A(x) phụ thuộc
vào hình dạng của hạt cứng chỉ ra trên hình 2.13. Phương trình vi phân chuyển động
của hạt có thể viết như sau:
2
2
)(
dt
xd
dmxHA
Hình 2.13. Sơ đồ mòn va chạm của một hạt cứng va chạm thẳng góc vào một bề
mặt mềm hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Nếu hạt cứng đạt tới vị trí nghỉ ở độ sâu d sau khoảng thời gian to thì tổng
công của lực cản bằng năng lượng động lực ban đầu của hạt
2
0
2
1
)( dmvdxxHA
d
hay
H
dmv
dv
2
2
Trong dv là thể tích của vật liệu bị dồn đẩy khỏi vết va chạm. Nếu m là khối
lượng hạt va chạm thì:
H
mv
v
2
2
Vì không phải tất cả vật liệu bị dồn đẩy đều tạo thành hạt mòn nên nếu k là
hệ số tỷ lệ với lượng vật liệu bị dồn đẩy tạo thành hạt mòn thì.
H
mv
kv
2
2
Phương trình mòn do va chạm của hạt cứng thường được viết dưới dạng tỷ
số va chạm không thứ nguyên E bằng khối lượng vật liệu bị tách ra chia cho khối
lượng các hạt cứng va chạm vào bề mặt.
H
vk
E
2
2
Trong đó: là tỷ trọng của vật liệu bị mòn.
So sánh với phương trình mòn do cào xước, thể tích mòn do va chạm của hạt
cứng cũng tỷ lệ nghịch với độ cứng H. Tải trọng pháp tuyến được thay thế bằng
mv
2. Tuy nhiên đây chỉ là mô hình đơn giản vì trong mô hình không đề cập đến góc
va chạm, hình dáng và kích thước của hạt cứng. Hệ số k biến thiên từ 10-5-10-1.
Mòn do va chạm của hạt cứng do nứt tách vì dòn phụ thuộc vào độ dai va
đập của vật liệu bị mòn do va chạm.
1.2.4.2. Mòn do va chạm của các vật rắn (percussion)
Percussion là va chạm có chu kỳ của vật thể rắn thường gặp ở đầu búa in
trong máy in, các ứng dụng điện cơ cao tốc và trong các nhấp nhô bề mặt nhô cao
trong ổ bôi trơn khí. Trong phần lớn các ứng dụng va chạm liên quan đến trượt
nghĩa là bao gồm cả thành phần pháp và tiếp. Mòn do percussion xảy ra nhờ cơ chế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
hybrid là sự kết hợp của một loạt cơ chế: dính, hạt cứng, mỏi bề mặt, nứt tách và
tribochemical.
Hình 2.14. Sơ đồ va chạm của một đầu va chạm với tấm phẳng
chuyển động ngang.
Mô hình của mòn do va chạm vật rắn chỉ ra trên hình 2.14 bao gồm đầu va
chạm bán kính R hướng vuông góc với chuyển động của một khối có vận tốc u. Đầu
va chạm có thể coi như một chất điểm và được đỡ bằng một lò xo có độ cứng k. Tại
thời điểm ts đầu va chạm gặp khối chuyển động ngang. Sau đó chúng cùng chuyển
động cho tới khi va chạm kết thúc. Sự biến đổi của lực va chạm Hec sau một chu kỳ
của quá trình va chạm chỉ ra trên hình 2.15 có dạng quả chuông. Để đơn giản ta giả
thiết lực va chạm Hec F(t) biến thiên theo quy luật hình sin.
i
o
t
t
FtF
sin)(
Giá trị cực đại Fo phụ thuộc vào hình dạng hình học, vật liệu và các thông số
va chạm pháp tuyến. Đối với một tiếp xúc đàn hồi của đầu va chạm trên trên một
tấm phẳng khối lượng vô hạn có mô đun đàn hồi vô hạn ta có:
5/2
2/1
2
5/3
2
13
4
3
5
R
E
mvF
elastico
Viết phương trình động lượng của tấm khối lượng vô cùng chuyển động theo
phương ngang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Trong đó: là hệ số ma sát. Sử dụng 2 phương trình đầu tính thời gian trượt ts
)1(cos 1 S
t
t is
Trong đó:
iotF
mu
S
S gọi là yếu tố trượt. Nếu S=0, sự va
chạm vuông góc xảy ra. Nếu S lớn sự trượt
xảy ra trong thời gian dài hơn trong quá
trình va chạm. Nếu S 2, sự trượt xảy ra
trong toàn bộ thời gian tiếp xúc.
Mòn do va chạm tỷ lệ thuận với yếu
tố trượt bởi vì mòn chủ yếu xảy ra trong
phần va chạm của trượt tương đối. Va
chạm pháp tuyến trên bề mặt cứng hơn có
thể tạo nên cơ chế mòn do mỏi dưới bề
mặt. Một va chạm xảy ra cùng sự trượt (va
chạm kết hợp) tạo nên mỏi bề mặt và/hoặc
dính, mòn do cào xước. Các cơ chế mòn
riêng biệt phụ thuộc vào hình học, vật liệu và các thông số của quá trình. Với các
vật liệu có độ dai va đập cao, sự tham gia của mỏi bề mặt có thể bỏ qua.
Áp dụng phân tích mòn do va chạm cho va chạm của đầu in với giấy bao phủ
tấm phẳng. Mòn do cào xước đầu in xảy ra trong quá trình trượt (slipping time). Thể
tích mòn v theo khoảng cách trượt x của đầu in với giấy là:
H
tkF
tdx
tdv )(
)(
)(
Trong đó k là hệ số mòn, H là độ cứng của đầu in.
Tổng thể tích mòn sau mỗi chu kỳ va chạm là.
st
oiu
H
SFtk
tdxtF
H
k
v
0
2
)()(
Víi 0 S 2
H×nh 2.15. S¬ ®å chu kú lùc va
ch¹m
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
SH
Fkut
H
kmv
v oi
1
1
2
2
2
Víi S 2
Khi thể tích mòn trong một chu kỳ được xác định, mòn tổng sau N chu kỳ có
thể xác định bằng cách nhân mòn đơn vị với N.
1.2.4. Mòn hoá học
Mòn hoá học xảy ra khi các bề mặt đối tiếp hoạt động trong môi trường có
hoạt tính hoá học. Trong không khí nguyên tố có hoạt tính hoá học nhất là ôxy, do
đó mòn hoá học trong không khí đôi khi gọi là mòn do ôxy hoá. Khi các bề mặt đối
tiếp không có chuyển động tương đối, sản phẩm ăn mòn hoá học là lớp màng bề
mặt có có chiều dày nhỏ hơn 1m có xu hướng cản trở hoặc ngăn quá trình ăn mòn
tiếp tục phát triển. Nhưng khi trượt xảy ra giữa hai bề mặt, lớp màng do ăn mòn hoá
học bị cuốn đi vì thế các phản ứng hoá học lại tiếp tục xảy ra. Mòn hoá học vì vậy
cần hai điều kiện cả phản ứng hoá học và chuyển động trượt tương đối để làm vỡ
lớp màng hoá học. Mòn hoá học là một hiện tượng cần quan tâm, đặc biệt trong các
ngành công nghiệp như mỏ, tuyển khoáng, dây chuyền hoá học, xử lý bùn, nước
thải.
Mòn hoá học xảy ra do sự tương tác hoá học hoặc điện hoá của bề mặt chi
tiết với môi trường. Mòn hoá học xảy ra trong môi trường ăn mòn, nhiệt độ và độ
ẩm cao. Mòn điện hoá xảy ra khi phản ứng hoá học đi kèm theo với tác dụng của
dòng điện xảy ra trong quá trình điện phân.
Sự tồn tại của chất bôi trơn có tác dụng cô lập các bề mặt tiếp xúc khỏi môi
trường ăn mòn hoá học. Tuy nhiên các chất ăn mòn có thể hoà tan vào chất bôi trơn
như nước vào dầu và chất bôi trơn cũng bị phân tích để trở nên có hoạt tính hoá
mạnh hơn.
Khi ăn mòn hoá học là nguyên nhân chính của mòn, một tương tác phức tạp
giữa các cơ chế mòn khác nhau luôn tồn tại. Đầu tiên mòn có thể là do dính hoặc do
cào xước sau đó là sự kết hợp của mòn hoá học và mòn do cào xước. ứng suất tiếp
xúc cao có thể làm tăng ăn mòn cục bộ dẫn đến sự tạo thành các lỗ châm kim trên
bề mặt. ứng suất dư trong lòng kim loại có thể gây ra nứt do kết hợp với sự ăn mòn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
trong môi trường hoạt tính cao. Hiên tượng này kết hợp với sự trượt bề mặt có thể
gây ra mòn mạnh giống như sự ăn mòn của một pha trong hợp kim ổ hai pha.
Hiện tượng ăn mòn đôi khi cũng có lợi, lớp màng ôxy hoá và các sản phẩm
của sự ăn mòn có thể ngăn cản dính giữa đỉnh các nhấp nhô và giảm mòn kim loại
trong chân không.
1.2.5. Mòn Tribochemical
Ma sát làm thay đổi động lực học của các tương tác hoá học giữa các bề mặt
trượt và với khí hoặc chất lỏng trong môi trường do tác dụng sinh nhiệt trên bề mặt
tiếp xúc. Ngành hoá học nghiên cứu tác dụng thay đổi các phản ứng hoá học bằng
ma sát hoặc năng lượng cơ học gọi là tribochemistry, mòn bị kiểm soát bởi các phản
ứng này gọi là mòn hoá học.
Nhiệt sinh ra do tương tác ma sát ở đỉnh các nhấp nhô làm tăng tốc độ của
phản ứng hoá học là cơ chế đặc trưng nhất của mòn tribochemical. Ngoài nhiệt do
ma sát các cơ chế khác bao gồm: sự hình thành các bề mặt sạch do hiện tượng phá
huỷ các lớp màng bề mặt, tăng tốc hiện tượng khuyếch tán và kích thích cơ hoá trực
tiếp liên kết bề mặt. Các phản ứng tribochemical là nguyên nhân mòn ôxy hoá kim
loại, mòn tribochemical của ceramics, và sự hình thành các lớp màng chất dẻo ma
sát trên bề mặt trượt khi có sự tồn tại của chất hữu cơ, sự hoà tan của Nitrit Silic
trong nước khi trượt mà không bị nứt tách. ứng dụng của tribochemistry bao gồm sự
hình thành sự hình thành lớp màng ma sát polymer, mòn và đánh bóng bề mặt
không gây nứt tách (chemomechanical polishing).
2.2.6. Mòn fretting
Hiện tượng fretting xảy ra khi chuyển động dao động với tần số thấp (trong
khoảng vài chục nanômét đến vài chục micrômét) xảy ra trên bề mặt tiếp xúc chung
của các bề mặt (về danh nghĩa là đứng yên). Đây là hiện tượng phổ biến bởi vì phần
lớn các máy móc đều bị dao động, cả khi vận chuyển lẫn khi hoạt động.
Thực chất fretting là một dạng của mòn do dính và do hạt cứng mà ở đó tải
trọng pháp tuyến gây nên hiện tượng dính ở đỉnh các nhấp nhô và chuyển động dao
động gây nên sự cắt đứt tạo nên các mảnh mòn. Fretting kết hợp với ăn mòn hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
học là hiện tượng phổ biến nhất gọi là fretting hoá. Ví dụ các hạt mòn thép sạch
được tạo ra giữa hai bề mặt sẽ bị ôxy hoá tạo thành ôxuýt Fe2O3 sẽ là nguồn các hạt
cứng trên mặt tiếp xúc chung. Bởi vì các bề mặt được ép sát với nhau và dao động
với biên độ rất nhỏ nên các bề mặt không bao giờ tách rời nhau và như thế sẽ không
có cơ hội để các mảnh mòn này lọt ra ngoài. Dao động tiếp tục xảy ra tạo ra các
mảnh mòn mới và tiếp tục bị ôxy hoá và cứ thế. Do vậy mòn trên một đơn vị chiều
dài trượt do fretting có thể lớn hơn so với mòn do dính và do cào xước thông
thường. Dao động trong mòn fretting chủ yếu do kích động từ bên ngoài, nhưng
trong nhiều trường hợp đó là kết quả của một trong những chi tiết chịu ứng suất
thay đổi chu kỳ. Các vết nứt sẽ được tạo ra và dạng mòn đó gọi là mỏi fretting.
Mòn do fretting sẽ tăng đột ngột khi biên độ dao động trượt vượt qua dải
biên độ giới hạn. Với một biên độ dao động nhất định, khối lượng mòn trên một đơn
vị chiều dài trượt của một đơn vị tải trọng pháp tuyến sẽ tăng tuyến tính theo số chu
kỳ dao động tới biên độ dao động đến 100 m. Khi vượt qua biên độ giới hạn này,
tốc độ mòn sẽ đạt tới hằng số giống như tốc độ mòn trong trượt liên tục và trượt khứ
hồi. Điều này cho phép đưa ra một giới hạn trên có thể của biên độ trượt cho
fretting. ở biên độ nhỏ, đặc trưng của fretting, vận tốc trượt tương đối nhỏ hơn rất
nhiều so với trượt thông thường mặc dù biên độ dao động có thể cao. Tốc độ mòn
do fretting tỷ lệ thuận với tải trọng pháp tuyến với biên độ trượt cho trước. Trong
trượt bộ phận, tần số dao động ít ảnh hưởng tới tốc độ mòn trên một đơn vị chiều
dài trượt trong dải tần số thấp. Tăng tốc độ biến dạng ở tần số cao dẫn đến tăng phá
huỷ do mỏi và ăn mòn hoá học do nhiệt độ tăng. Tuy nhiên trong trượt toàn phần
tần số ít có ảnh hưởng.
Để giảm đến mức thấp nhất mòn do fretting, máy móc thiết kế phải giảm đến
tối thiểu dao động, giảm ứng suất hoặc loại trừ việc thiết kế hai phần cùng nhau.
1.2. Mòn vật liệu
Quá trình mòn nói chung được định lượng bằng tốc độ mòn là thể tích hay
khối lượng vật liệu bị tách ra khỏi bề mặt trong một đơn vị thời gian hay một đơn vị
chiều dài trượt. Các dạng khác có thể không có thứ nguyên như tỷ số chiều sâu vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
liệu mòn trên một đơn vị chiều dài trượt hoặc tỷ số thể tích vật liệu tách ra trên một
đơn vị chiều dài trượt hoặc tỷ số thể tích vật liệu tách ra trên một đơn vị diện tích
tiếp xúc và một đơn vị chiều dài trượt.[4]
Từ đồ thị tốc độ mòn có thể thấy rằng tốc độ mòn giữ hằng số trong một giai
đoạn nào đó sau sau đó có thể thay đổi nếu có sự thay đổi về cơ chế mòn. Mòn
trong quá trình chạy rà phụ thuộc vào tính chất và cấu trúc vật liệu ban đầu cũng
như trạng thái bề mặt như độ nhẵn, sự tồn tại của lớp màng bề mặt. Trong giai đoạn
chuyển cơ chế mòn, độ nhám bề mặt bị biến đổi do biến dạng dẻo. Tuy nhiên các
điều kiện đầu có ảnh hưởng tới sự phá huỷ trong giai đoạn chuyển đổi và thời lượng
của nó.
Giống như ma sát, tốc độ mòn của một vật liệu phụ thuộc vào vật liệu đối
tiếp hoặc cặp vật liệu, trạng thái bề mặt và điều kiện làm việc, ý nghĩa của các hệ số
mòn hoặc dữ liệu mòn trong các công trình công bố thường nằm ở các giá trị tương
đối hơn là các giá trị tuyệt đối.
Mòn là một hàm số phức tạp theo thời gian. Tốc độ mòn ban đầu có thể thấp
sau đó tăng hoặc ngược lại (hình 2.16). Sau một khoảng thời gian nhất định tốc độ
mòn giữ hằng số trong một giai đoạn sau đó có thể thay đổi nếu có sự thay đổi về cơ
chế mòn trong quá trình thí nghiệm về mòn. Quá trình chạy rà phụ thuộc vào cấu
Hình 2.16. Ba trường hợp giả thuyết về thể tích
mòn là hàm số của khoảng cách trượt chỉ ra các
giai đoạn chạy rà, ổn định và khốc liệt
- 60 -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trúc, tính chất ban đầu của vật liệu và các trạng thái bề mặt. Trong giai đoạn chuyển
tiếp này độ nhám bề mặt bị biến đổi do biến dạng dẻo ở đỉnh các nhấp nhô bề mặt.
Điều kiện ban đầu ảnh hưởng đáng kể đến tốc dộ mòn bề mặt trong quá trình chạy
rà và khoảng thời gian chạy rà.
Một cặp đôi ma sát cùng loại thép cho ma sát và mòn cao còn các cặp kim
loại khác nhau cho ma sát và mòn trung bình trong trường hợp có bôi trơn. Khác
với thép và kim loại ceramics trượt so với lim loại hoặc với chính nó hoặc với
ceramics khác loai cho hệ số ma sát trung bình nhưng mòn lại rất thấp. Polymers và
chất bôi trơn rắn trượt với bề mặt cứng cho hệ số ma sát rất thấp nhưng mòn lại khá
cao.
1.2.1.Mòn kim loại và hợp kim [4]
CẶP KIM LOẠI
ĐỘ CỨNG
VICKERS
(Kg/mm
2
)
HỆ SỐ MÕN k
(x10
4
)
Cadmium trượt trên Cadmium 20 57
Kẽm trượt trên kẽm 38 530
Bạc trượt trên bạc 43 40
Đồng trượt trên đồng 95 110
Platin trượt trên Platin 138 130
Thép C thấp trượt trên thép C thấp 158 150
Thép trắng trượt trên thép trắng 217 70
Cadmium trượt trên thép C thấp 20 0,3
Đồng trượt trên thép cácbon thấp 95 5
Platin trượt trên thép các bon thấp 138 5
Thép cácbon thấp trượt trên đồng 95 1,7
Platin trượt trên bạc 43 0,3
Bảng 2.1. Hệ số mòn của vật liệu mềm cho các cặp lim loại - kim loại khác nhau
Các bề mặt kim loại và hợp kim sạch ở các tiếp xúc rắn biểu hiện tính dính
cao do đó ma sát và mòn cao, đặc biệt tiếp xúc của các bề mặt sạch trong chân
không cho tốc độ mòn rất cao. Các lớp màng hóa học mỏnh nhất hình thành trên các
mặt tiếp xúc đều có khả năng giảm dính dẫn đến giảm ma sát và mòn. Trong trường
- 61 -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hợp kim loại mền như In, Pb, Sn tiếp xúc ở đỉnh các nhấp nhô rất rộng và thậm chí
khi tải trọng khi tải trọng nhỏ nên tốc độ mòn cao. Các kim loại có cấu trúc lục giác
xếp chặt như Co và Mg cũng như các kim loại khong có cấu trúc này như Mo, Cr
đều biều hiện ma sát và mòn thấp. Do đó Co, Mo và Cr là các nguyên tố hợp kim
thông dụng trong thép để giảm ma sát và mòn đồng thời tăng khả năng chống ăn
mòn. Nói chung mòn của hợp kim thấp hơn các nguyên tố nguyên chất. Hệ số mòn
k cho một loại các kim loại giống và khác nhau cho trong bảng 2.1.
Thép là loại vật liệu thông dụng nhất sử dụng trong cả ứng dụng cấu trúc và
tribological. Trên cơ sở của thành phần hóa học (tỷ lệ % của nguyên tố hợp kim và
cácbon) và đặc điểm của quá trình gia công, một loạt các tính chất vật lý và cấu trúc
tế vi khác nhau được hình thành. Khả năng chống mòn của thép có cấu trúc khác
nhau chỉ ra trên hình 2.17
Hình 2.17. Khả năng chống mòn tương đối như là một hàm số của độ cứng theo
cấu trúc tế vi khác nhau.
a. Ảnh hƣởng của nhiệt độ đến mòn ôxy hóa
Sự hình thành lớp màng ôxy hóa bề mặt có thể giảm tốc độ mòn tới hai lần
so với làm việc trong môi trường khí trơ. Ở nhiệt độ thấp, sản phẩm của quá trình
ôxy hóa bề mặt chỉ hình thành ở đỉnh các nhấp nhô tiếp xúc. Ở nhiệt độ cao hơn,
- 62 -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ôxy hóa xảy ra trên toàn bề mặt và ảnh hưởng tới mòn. Khi sử dụng thép làm đôi
ma sát sản phẩm ôxy hóa của các hạt mòn chủ yếu là - Fe2O3, còn ở tốc độ trung
bình chủ yếu là Fe3O4, ở tốc độ cao là FeO. [4]
Ôxy và các phần tử của các nguyên tố khác hấp thụ trên bề mặt của kim loại
và ceramics sạch tạo nên liên kết hóa học mạnh với các bề mặt này. Sự khuếch tán
của các nguyên tố có hoạt tính qua lớp này bị chậm dần theo thời gian. Tốc độ ôxy
hóa của sắt và nhiều kim loại tuân theo quy luật parabôn. [4]
2/1Cth
Trong đó: h là chiều dày của lớp màng ôxy hóa, t là giá trị tăng trung bình
của thời gian, C là hằng số của parabôn.
Bởi vì hiện tượng khuếch tán phụ thuộc vào tác động của nhiệt, tốc độ dày
lên của lớp màng ôxy hoá trong quá trình trượt là một hàm số của nhiệt độ tương tự
như ôxy hoá ở điều kiện tĩnh.
RTQeK /
K là hằng số cảu parabôn mô tả tốc độ dày lên cảu lớp màng ôxy hoá, A là
hằng số Arrhenius (kg/(m4s)) của phản ứng ôxy hoá, Q là năng lượng hoạt tính của
paraboon liên quan đến ôxuyt (KJ/mole), là hằng số khí Arrhenius trong trường hợp
trượt. Hằng số này gấp khoảng vài lần hằng số trong điều kiện tĩnh. Điều này có
nghĩa là tốc độ ôxy hoá trong điều kiện trượt xảy ra nhanh hơn điều kiện tĩnh nhiều
do tốc độ khuếch tán của sắt qua lớp màng ôxy hoá tăng.
b. Ảnh hƣởng của điều kiện vận hành
- 63 -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hình 2.18 Bản đồ vùng mòn của đầu thép trượt khô trên đĩa thép (pin on disk)
trong không khí ở nhiệt độ trong phòng.
Bản đồ mòn loại trừ ảnh hưởng của môi trường đến các cơ chế mòn. Không
có một cơ chế mòn đơn nào xảy ra trong một dải rộng các điều kiện vận hành, thực
tế luôn tồn tại một vài cơ chế mòn mà vai trò của chúng đối với mòn thay đổi khi
điều kiện vận hành thay đổi. Sự chuyển tiếp của các cơ chế mòn chính gây nên sự
thay đổi về tốc độ mòn, điều này thường xảy ra khi tải trọng và tốc độ trượt thay
đổi. Trong một vài trường hợp sự thay đổi xảy ra theo hàm số của thời gian. Sự
thống trị của các cơ chế mòn tuỳ theo sức bền cơ học và mức độ dính ở chỗ tiếp
xúc. Tăng tải trọng pháp tuyến dẫn đến sự phá huỷ cơ học bề mặt do ứng suất tiếp
xúc cao. Tăng tải trọng pháp tuyến và vận tốc trượt dẫn đến tăng nhiệt độ trên các
lớp bề mặt là nguyên nhân tạo thành các lớp màng hóa học bề mặt (chủ yếu là màng
ôxy hoá) đồng thời giảm sức bền cơ học và đôi khi thay đổi cả cấu trúc tế vi bề mặt.
Trong điều kiện tích PV lớn, có thể xảy ra hiện tượng chảy cục bộ vùng gần bề
mặt.
Các vùng mòn cơ học (biến dạng dẻo là chủ yếu) và hoá học (ôxy hoá) cho
các cặp vật liệu trượt vẽ trên một bản đồ mòn đơn (chế độ mòn hay cơ chế mòn)
- 64 -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
theo áp suất và vận tốc trượt đặc trưng. Áp suất đặc trưng là tỷ số giữa áp suất danh
nghĩa và độ cứng bề mặt (p/H) và vận tốc trượt đặc trưng là tỷ số giữa vận tốc trượt
trên vận tốc của dòng nhiệt (là bán kính của diện tích tiếp xúc danh nghĩa tròn chia
cho hệ số thấm nhiệt). Hình 2.18 là bản đồ các vùng mòn của thép trượt trên thép
trong không khí trên thiết bị pin-on-disk. Bản đồ này chia thành các vùng tương ứng
với các chế độ mòn khác nhau với các biên là áp suất tiếp xúc và vận tốc trượt giới
hạn. Bên ngoài các giới hạn này mòn do ôxy hoá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 14LV09_CN_CTMTranThiThanhHuyen.pdf