LỜI CAM ĐOAN. i
LỜI CẢM ƠN .iii
MỤC LỤC. iv
DANH MỤC HÌNH ẢNH . vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU . x
DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT . xi
MỞ ĐẦU. 1
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Mục đích, nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài . 2
2.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài . 2
2.2 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu . 2
2.3 Phương pháp nghiên cứu . 2
2.4 Nội dung nghiên cứu. 2
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. 4
1.1 Tổng quan về hệ thống truyền lực . 4
1.2 Tổng quan các hộp số trên ô tô . 5
1.2.1 Hộp số thường (MT). 5
1.2.2 Hộp số tự động (AT). 7
1.2.3 Hộp số vô cấp (CVT). 9
1.3 Tổng quan hộp số ly hợp kép (DCT) . 11
1.3.1 Giới thiệu . 11
1.3.2 Phân loại hộp số DCT. 13
1.4 Các nghiên cứu trong và ngoài nước . 19
1.4.1 Các nghiên cứu trong nước. 19
1.4.2 Các nghiên cứu ngoài nước . 21
1.5 Kết luận chương 1. 22
79 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 26/02/2022 | Lượt xem: 656 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc tính động lực học ô tô với hệ thống truyền lực cơ khí kiểu ly hợp kép, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
a) Nguyên lý b) Sơ đồ cấu tạo
Hình 1.7 Sơ đồ nguyên lý của hộp số với ly hợp kép [10]
Tuy nhiên, nếu thiết kế hộp số theo nguyên tắc trên thì kết cấu sẽ cồng kềnh,
hộp số chiếm nhiều không gian, nên trong thực tế người ta ghép 2 hộp số trong
một khối chung bằng cách sử dụng 2 trục lồng vào nhau như trên hình 1.7b.
Hộp số trên hình 1.7b gồm có 6 cấp: 3 số lẻ (1, 3, 5) được điều khiển bởi ly
hợp 1, còn các số chẵn 2, 4, 6 được điều khiển bởi ly hợp 2. Hộp số ly hợp, quá
trình chuyển số xảy ra liên tục, không gây ngắt dòng công suất như trong các hộp
số cơ khí thường (chỉ có một ly hợp).
Bộ phận chính trong hộp số ly hợp kép chính là bộ ly hợp kép. Các ly hợp
này có thể là loại ma sát khô hoặc ma sát ướt. Ly hợp ma sát ướt thường sử dụng
hệ thống thủy lực để điều khiển đóng mở và đồng thời làm mát các đĩa ma sát.
Nhờ có cơ chế làm mát nên ly hợp ma sát ướt có khả năng truyền mô men lớn hơn
so với ly hợp ma sát khô. Vì vậy, người ta thường sử dụng ly hợp ma sát khô cho
các ô tô loại nhỏ, còn đối với các loại ô tô lớn thì phải sử dụng ly hợp ma sát ướt.
1.3.2 Phân loại hộp số DCT
Ly hợp kép là một trong những bộ phận quan trọng của DCT, tính năng
công tác của nó trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng của việc khởi động và sang
số của ô tô. Để đảm bảo độ tin cậy của việc truyền lực, cắt dứt khoát, đóng êm
dịu, sang số nhanh, thể tích bé, khối lượng nhẹ, tuổi thọ dài thì cho dù nhìn từ
góc độ tính năng kết cấu hay là chế tạo sản xuất và điều khiển thao tác thì yêu cầu
đối với ly hợp kép trong hệ thống truyền lực có DCT đều rất cao.
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Theo loại ly hợp được sử dụng
Hiện nay, ly hợp trên DCT thường sử dụng 2 dạng là ly hợp 1 đĩa dạng khô
và ly hợp nhiều đĩa dạng ướt.
a. Hộp số sử dụng ly hợp ma sát khô
Hệ thống ly hợp kép ma sát khô (hình 1.8) được đánh giá có hiệu suất cao
hơn và có tính điều khiển tốt hơn. Hơn nữa ly hợp kép khô có thể được điều khiển
bằng điện nên có công suất cao hơn, không đòi hỏi phải bảo dưỡng nhiều, thân
thiện với môi trường.
Hình 1.8 Hộp số DCT sử dụng ly hợp ma sát khô
b. Hộp số sử dụng ly hợp ma sát ướt
Ly hợp kép ướt là một bộ phận rất quan trọng trong hộp số tự động có ly
hợp kép, nó liên kết động cơ và hộp số tự động, thực hiện việc truyền mô men.
+ Hai ly hợp lồng vào nhau (một ly hợp ở trong và một ly hợp ở ngoài)
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Hình 1.9 Hộp số DCT ma sát ướt có 2 ly hợp lồng nhau
+ Hai ly hợp đặt song song với nhau:
Hình 1.10 Hộp số DCT ma sát ướt có 2 ly hợp song song
Theo số trục sơ cấp của hộp số
a. Hộp số sử dụng 2 trục thứ cấp
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Hình 1.11 Hộp số DCT sử dụng 2 trục thứ cấp
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
b. Hộp số sử dụng 1 trục thứ cấp:
Hình 1.12 Hộp số DCT sử dụng 1 trục thứ cấp
Ưu điểm:
- Giúp cho người lái cảm thấy thuận tiện, thoải mái khi lái xe
- Đường truyền công suất từ động cơ xuống hộp số gần như không bị ngắt
quãng khi chuyển số, do đó làm tăng tính tiết kiệm nhiên liệu.
- Chuyển số nhẹ nhàng, êm dịu.
Nhược điểm:
- Cấu tạo phức tạp.
Theo sơ đồ và số cấp
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Hình 1.13 Hộp số DCT sử dụng các cấp số khác nhau
DCT kết hợp lợi thế của hộp số cơ khí MT(có hiệu suất cao) với hộp số tự
động ATs (có thể thay đổi công suất). Do trong hộp số sử dụng ly hợp kép không
có biến mô men thủy lực nên tỉ số truyền ở số 1 cần cao hơn để đảm bảo khời
hành xe.
Hình 1.14 trình bày một số sơ đồ hệ thống truyền lực kiểu ly hợp kép. DCT
đầu tiên cho xe khách, DQ250 của hãng Volkswagen được sản xuất năm 2003[23].
Một mô-đun ly hợp kép nhiều đĩa kiểu ướt của được áp dụng để chia bánh răng
thành bánh răng lẻ và bánh răng số chẵn. Một ưu điểm của DCT so với AT là chỉ
có một ly hợp gây ra tổn thất kéo. Vào năm 2007, hãng Volkswagen đã giới thiệu
DCT bảy cấp của mình với một mô-đun ly hợp kép khô từ LuK[24]. So với
DQ250, DQ200 hộp số này có hiệu suất cao hơn nhưng mô-men xoắn thấp hơn.
DQ500 xuất hiện trên thị trường vào năm 2009[25] và là một hộp số ly hợp kép
bảy tốc độ với mô-đun ly hợp kép kiểu nhiểu đĩa ướt. VW sử dụng DCT này với
sản lượng lớn hơn và cao hơn phương tiện. Thành công của VW DCT đặt ra một
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
chuẩn mực về mặtcủa tốc độ thay đổi, hiệu suất thể thao và hiệu quả. Thành công
của VW DCT đặt ra một chuẩn mực về mặt của tốc độ thay đổi, hiệu suất thể thao
và hiệu quả. Các nhà sản xuất xe hoặc truyền dẫn khác, chẳng hạn như GETRAG,
Great Wall và Geely, đã bắt đầu phát triển riêng hộp số ly hợp kép của hãng.
Honda đã phát triển DCT tám tốc độ vào năm 2014 với một bộ biến mô men thủy
lực siêu phẳng, việc áp dụng giúp xe khởi động mạnh mẽ và trơn tru. Ngoài ra,
thay để thay thế mô-đun ly hợp kép tích hợp trong DCT thông thường, bộ ly hợp
kép được bố trí riêng biệt trên các trục song song để giảm quán tính[26].
DCT chủ yếu được áp dụng cho xe dẫn động cầu trước FWD. Để đạt được
tốc độ cao hơn, DCT phải có nhiều bộ truyền hành tinh. Do đó, số cấp của DCT
hiện tại ít hơn số lượng AT.
1.4 Các nghiên cứu trong và ngoài nước
Với những ưu điểm của ly hợp kép là ít bị tổn thất công suất và không bị
ngắt quãng khi chuyển số, tăng tính tiết kiệm nhiên liệu, chuyển số nhẹ nhàng và
êm dịu, giúp người lái có cảm giác thoải mái khi lái xe. Vì vậy, các nhà nghiên
cứu, thiết kế tập trung nghiên cứu để hoàn thiện, tối ưu và điều khiển để ngày
càng hoàn thiện trang bị cho các hãng xe sử dụng ly hợp kép trở nên phổ biến.
Dưới đây là tóm tắt các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về lĩnh vực
nghiên cứu của luận văn.
1.4.1 Các nghiên cứu trong nước
- Công trình của Nguyễn Lương Huy luận văn thạc sĩ kỹ thuật trường Đại
học Nông Nghiệp Hà Nội, 2010 “Nghiên cứu đặc tính động lực học quá trình
chuyển số của ô tô có hộp số tự động AT”. Trong luận văn tác giả đưa ra một
phương pháp xây dựng đường đặc tính động lực học của quá trình sang số của ô
tô có hộp số tự động AT bằng phần mềm Matlab-simulink, kết quả khảo sát lý
thuyết cơ bản phù hợp với quy luật của các xe có hệ thống truyền lực tự động.[1]
- Công trình của Chu Thành Khải luận văn thạc sĩ trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, 2015 “Nghiên cứu động học và động lực học
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
hộp số tự động- mô phỏng hộp số”. Tác giả nghiên cứu và sử dụng matlab mô
phỏng đưa ra kết quả về mối quan hệ động học và động lực học của bộ truyền
bánh tinh trong hộp số tự động,[2]
- Công trình của Vũ Anh Sơn luận văn thạc sĩ, 2010 “Nghiên cứu đặc tính
động lực học của ôtô với hệ thống truyền lực cơ khí và hệ thống truyền lực thủy
cơ”. Tác giả sử dụng phần mềm matlab để tính toán và mô phỏng một số thông số
động lực học, nhân tố động lực học, gia tốc, tình trạng mặt đường, đặc tính động
cơ làm cơ sở so sánh sự phụ thuộc của ô tô có hộp số cơ khí khi chuyển động với
ô tô có hộp số thuỷ cơ khi chuyển động trong các trường hợp được khảonghiệm.[3]
- Công trình của Phạm Trung Dũng luận văn thạc sĩ trường Đại học Giao
thông vận tải Hà Nội, 2014.trong luận văn cao học: “Nghiên cứu hệ thống truyền
lực với ly hợp kép trên xe con”, tác giả dùng ứng dụng Matlab mô phỏng hệ thống
truyền lực ly hợp kép DCT trên xe con. Phân tích ảnh hưởng của ly hợp kép đến
động lực học, đưa ra tối ưu hóa quá trình khởi hành và chuyển số.[4]
- Tác giả Hồ Hữu Hải, Trần Văn Nghĩa Tuyển tập hội nghị quốc tế về kỹ
thuật ô tô 10/1999 đã trình bày nghiên cứu đặc tính động lực học của hệ thống
truyền lực ô tô với sự trợ giúp của ALASKA.[5]
- Một số bài báo nghiên cứu về hệ thống truyền lực đăng trên các tạp chí
chuyên ngành như tác giả Nguyễn Trọng Hoan tạp chí Công nghiệp số 6, 04-2003
đã mô phỏng và tính toán tải trọng cực đại tác dụng lên hệ thống truyền lực ô
tô.[6]
Công trình của Khiếu Hữu Hùng trong luận văn cao học trường Đại học
Bách khoa Hà Nội, 2005. Trong luận văn: "Khảo sát dao động xoắn của trục
khuỷu động cơ và ảnh hưởng của nó đến hệ thống truyền lực ôtô",tác giả đã nghiên
cứu dao động xoắn cưỡng bức của trục khuỷu động cơ và xét ảnh hưởng của nó
đến hệ thống truyền lực. Trong đó tác giả đã xây dựng mô hình của hệ thống
truyền lực gồm 5 khối lượng chỉ đặc trưng bởi một thông số là mô men quán tính
và tác giả đã coi cụm hộp số, cụm cầu xe, cụm ly hợp là các cụm chỉ là 1 khối
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
lượng, nhưng trong thực tế, các cụm đó bao gồm nhiều chi tiết, các chi tiết ấy có
những đặc tính riêng ảnh hưởng đến sự làm việc chung của hệ thống truyền lực.[8]
Trong các tài liệu[10] các tác giả đã trình bày một số nghiên cứu về chế độ
tải trọng trong hệ thống truyền lực nói chung và phân tích kết cấu của các hộp số
tự động, hộp số ly hợp kép.
Ngoài ra, còn có một số các công trình khác Trần Văn Như và một số tác
giả khác[12,13] nghiên cứu về xây dựng các mô hình mô phỏng động lực học hệ
thống truyền lực kiểu CVT.
1.4.2 Các nghiên cứu ngoài nước
Năm 1940 giáo sư Rudolph Franke, trường đại học Darmstadt là người đầu
tiên đăng ký sở hữu trí tuệ về hộp số DCT. Cuối thập niên 90, đầu thế kỷ 20, công
ty BorgWarner kết hợp với một hãng xe của Trung quốc đã lần đầu tiên hợp tác
sản xuất hàng loạt hộp sô DCT cho các dạng xe phổ biến.[9]
Năm 2002, Thomas C.Bowen, người mỹ phát minh ra một loại ly hợp kép
có trục trung gian trên hộp số tự động. Năm 2005, Andres Hegerath và Bergheim
đã phát minh ra một loại ly hợp kép loại ướt dạng trục song song. Năm 2006, gần
10 xe Audi A3, Audi TT của một công ty ô tô Đức đã lắp đặt hộp số DCT.
Nhóm tác giả Chunsheng Ni, Tongli Lu, Jianwu Zhang năm 2009 trong bài
báo ‘’Gearshift control for dry dual-clutch transmissions’’ trên tạp chí WSEAS
Transactions on Systems, 8(11), 1177-1186. Tác giả mô phỏng tổng thể truyền
động ly hợp kép khô (DCT) khi xem xét các quy tắc tham gia ly hợp kép để chuyển
số dựa trên tốc độ động cơ và tốc độ ly hợp, và ước tính mô-men xoắn ly hợp
kép.[15]
Các tác giả Marius-Valentin BAȚAUS, Nicolae VASILIU trong bài báo “
Modelling of a dual clutch tranmission for real - time simulation” tạp chí
scientificbulletin.upb.ro U.P.B. Sci. Bull., Series D, ISSN 1454-2358 ,Vol. 74, Iss.
2, 2012[16] đã mô phỏng trong thời gian thực hệ thống truyền lực với hộp số tự
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
động ly hợp kép đồng thời phát triển hệ thống điều khiển thủy lực ly hợp. Ngoài
ra các tác giả E.Galvagno, M.Velardocchia, A. Vigliani trong bài báo “Dynamic
and kinematic model of a dual clutch transmission” tạp chí Mechanism and
Machine Theory, Volume 46, Issue 6, June 2011[17] đã đưa ra các phương trình
toán học mô tả động học và động lực học hệ thống truyền lực ly hợp kép DCT.
Tác giả Lıu Fei trong luận văn cao học “Research and design structure of
Dual clutch automatic transmission” Chongqing University, 2010 đã tính toán
thiết kế kết cấu của ly hợp kép hệ thống truyền lực với hộp số tự động ly hợp
kép.[18]
Các tác giả Zhu Lei, Zhu Hua Bing, He Chun Hua, Zhang Lei, Wang Shao
Jie trong bài báo “ Transmission scheme and structural design of a new type of
DCT” tạp chí Journal of Hefei University of 20 technology, Vol.34 No.6, Jun 2011
đã đưa ra một loại phương án chuyền động của một mô hình DCT mới, qua phân
tích đặc điểm kết cấu và nguyên lý dựa trên tham số xe cơ sở tiến hành xác định
tỷ số truyền động hợp lý và thiết kế kết cấu của hộp số tự động ly hợp kép.[19]
Bài báo ‘’Predicting the launch feel of automatic and dual clutch
transmissions’’. In Proceedings of the 9th International MODELICA Conference;
September 3-5; 2012; Munich; Germany (No. 076, pp. 295-302). Linköping
University Electronic Press của nhóm tác giả Roberts, N., & Dempsey, M. (2012,
November) mô tả hiệu quả nhiệt độ dầu khi khởi động xe trang bị ly hợp kép ướt
đến trạng thái ổn định và chuyển đổi mô men xoắn động.[20]
Nhóm tác giả Goetz, M., Levesley, M. C., & Crolla, D. A. (2003). Có bài
’’Dynamic modelling of a twin clutch transmission for controller design.
In Materials Science Forum (Vol. 440, pp. 253-260). Trans Tech Publications’’.
Dùng mô hình động mô tả sự ảnh hưởng hệ số ma sát của ly hợp kép đến việc
thiết kế bộ điều khiển sang số.[21]
1.5 Kết luận chương 1
Qua nghiên cứu chương 1 tác giả đưa ra một số kết luận như sau:
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
- Phân tích tổng quan về hệ thống truyền lực,
- Phân tích cấu tạo và nguyên lý hoạt động, đánh giá ưu nhược điểm của
các hộp số trên ô tô, đặc biệt là hộp số cơ khí với ly hợp kép DCT mà tác giả đi
sâu nghiên cứu trong luận văn này.
- Phân tích quá trình ra đời của hệ thống truyền lực ly hợp kép với những
khó khăn, sự phát triển và thành tựu đạt được của các hãng xe sử dụng loại ly hợp
kép.
- Phân tích được các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên
quan, từ đó đưa ra điểm mới trong luận văn này.
Các kết quả trong chương này là cơ sở lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu
trong chương tiếp theo.
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Chương 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 Cấu tạo của hệ thống truyền lực cơ khí với ly hợp kép
2.1.1 Cấu tạo và hoạt động
Sự khác biệt đầu tiên của hộp số DCT so với các loại hộp số khác đó là có
sử dụng bộ đôi ly hợp ma sát ướt. Hai ly hợp được lồng vào nhau, một ly hợp nằm
trong và một ly hợp nằm phía ngoài. Bộ đôi ly hợp ở đây thuộc loại ly hợp ma sát
ướt, nghĩa là các đĩa ma sát được ngâm trong dầu và sự tách, nối của nó được điều
khiển bằng cơ cấu chấp hành: thủy lực - điện từ. Hai ly hợp này hoạt động hoàn
toàn độc lập với nhau.
1: Bánh răng xoắn ăn khớp với bộ vi sai; 2: bánh răng thuộc bộ vi sai; 3:
trục sơ cấp số1; 4: trục khuỷu động cơ; 5: trục sơ cấp số 2; 6: Ly hợp 2; 7: Ly
hợp 1; 8: bánh răng xoắn ăn khớp với bộ vi sai; 9: bánh răng ăn khớp với bộ
đồng tốc;BR: Cặp bánh răng số
Hình 2.1 Sơ đồ hộp số DCT
Sự khác biệt thứ hai của DCT đó chính là hệ thống trục sơ cấp gồm hai trục
đồng trục lồng nhau. Trục thứ nhất (màu đỏ): một đầu (bên trái) liên kết với ly
hợp thứ nhất (màu đỏ) bằng then hoa, trên thân trục bao gồm 3 bánh răng có kích
thước khác nhau ăn khớp với các bánh răng trên trục thứ cấp, tạo ra các cấp số: 1,
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
3, 5. Trục còn lại (màu xanh) được chế tạo rỗng để bao bọc gọn hệ thống trục thứ
nhất, một đầu lắp với ly hợp thứ hai (màu xanh), trên thân trục gồm 2 bánh răng
trên trục thứ cấp thứ hai tạo ra 3 cấp số 2, 4, 6 và thêm một số lùi.
Hình 2.2 Hoạt động của một hộp số ly hợp kép khi sang số
Nguyên lý hoạt động: Hộp số DCT có thể chuyển số nhanh chóng và êm
dịu. Khi chuyển số, hệ thống điều khiển mở ly hợp ứng với số truyền hiện tại đồng
thời đóng ly hợp ứng với số truyền được chọn tiếp theo. Giả sử nếu xe đang chạy
với số 2, ly hợp của số chẵn số đóng, mô men của động cơ được truyền tới bánh
chủ động (hình 2.2a) trong khi vận tốc của xe tăng lên, máy tính sẽ xác định thời
điểm chuyển số tiếp theo (số 3), số 3 sẽ được lựa chọn trước, ô tô vẫn chuyển
động ở số 2 (hình 2.2b), ly hợp tương ứng với tay số 3 vẫn mở vào thời điểm quyết
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
định chuyển số, ly hợp của số 2 sẽ mở và đồng thời ly hợp số 3 sẽ đóng. Mô men
của động cơ truyền đến bánh chủ động là tổng mô men truyền qua 2 ly hợp, 2 ly
hợp này ở trạng thái trượt (hình 2.2c) đến khi ly hợp của số 2 được mở hoàn toàn,
mô men của động cơ được truyền đến bánh chủ động bằng ly hợp của số 3 (hình
2.2d). Thời gian chuyển số là khoảng 0.8s.
Hộp số DCT được sử dụng theo cách hoàn toàn tự động, tuy nhiên cũng có
thể điều khiển theo cách bán tự động. Cách điều khiển này cho phép người lái xe
chọn tay số và quyết định thời điểm chuyển số nhờ vào nút bấm. Việc gài số và
đóng mở ly hợp được máy tính kiểm soát và ra lệnh cho bộ phận chấp hành điện
hoặc thuỷ lực thực hiện. Hộp số DCT cho phép giảm thời gian sang số, bởi vì các
bánh răng cho số được chọn tiếp theo được cài sẵn khi đang chuyển động ở tay số
hiện thời. Nhược điểm của hộp số DCT là không thể chuyển trực tiếp giữa hai tay
số cùng một ly hợp quản lý mà phải chuyển tiếp qua số trung gian.
DCT kết hợp những ưu điểm của hộp số tự động (chuyển số êm dịu, và
nhanh chóng) với hiệu suất truyền lực và tính kinh tế nhiên liệu của hộp số cơ khí.
DCT mang lại tính tiện nghi điều khiển của một hộp số tự động, đồng thời kết cấu
tiên tiến của nó thì đem đến tính động lực học cao, loại bỏ sự ngắt quãng khi
chuyển số của hộp số cơ khí.
Hình 2.3 Cấu tạo của ly hợp kép ma sát khô hãng Ford
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
1. Trục khuỷu; 2. Bánh đà; 3. Đĩa trung tâm; 4. ổ bi đỡ; 5. Đĩa ép ly hợp 1; 6. Đĩa
ma sát ly hợp 1; 7. Đĩa ép ly hợp 2; 8. Đĩa ma sát ly hợp 2; 9. Ổ bi mở ly hợp số
1; 10; Ổ bi mở ly hợp số 2; 11. Vòng giữ; 12. Trục sơ cấp số 1 hộp số ( trục đặc);
13. Trục sơ cấp ly hợp số 2 ( trục rỗng); 14. Lò xo ép ly hợp 1; 15. Lò xo ép ly
hợp số 2
Cụm ly hợp kép
Bộ phận chính của hộp số ly hợp kép đó chính là cụm ly hợp kép. Ngoài ly
hợp kép kiểu ma sát ướt trình bày trên hình 2.1 còn sử dụng ly hợp kép kiểu ma
sát khô như trên hình 2.3. Do ly hợp ma sát ướt có cơ chế làm mát nên có khả
năng truyền mô men lớn hơn ly hợp ma sát khô. Vì vậy, người ta thường sử dụng
ly hợp ma sát khô cho các ô tô loại nhỏ, còn các ô tô lớn phải sử dụng ly hợp ma
sát ướt.
Hình 2.4 Cơ cấu điều khiển đóng ngắt ly hợp
Để điều khiển đóng ngắt ly hợp trên hình 2.3, người ta sử dụng hai càng
mở 2 và 5 (hình 2.4) được điều khiển bởi hai động cơ servo độc lập. Trên hình 2.5
trình bày trạng thái làm việc của hai ly hợp.
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
a) Ly hợp số lẻ b) Ly hợp số chẵn
Hình 2.5 Trạng thái làm việc của các ly hợp
Khi làm việc ở các số lẻ 1, 3 hoặc 5, mô tơ servo của ly hợp số 1 kích hoạt
bằng điện. Lúc này đòn mở lớn và ổ bị mở được điều khiển chuyển động về phía
trước. Lò so ép bên ngoài truyền chuyển động này tới vòng giữ làm cho hướng
chuyển động ngược với chiều tác dụng của lực. Do đó, đĩa ép của ly hợp 1 được
kéo về phía đĩa ép trung gian để đóng ly hợp. Đĩa ma sát truyền mô men từ động
cơ đến trục đặc.
Trong trường hợp một trong các số chẵn 2, 4, 6 hoặc số lùi được sử dụng
thì mô tơ servo điều khiển ly hợp số 2 được kích hoạt. Lò so ép số 2 được tác động
thông qua ổ bi mở làm cho đĩa ép của ly hợp số 2 chuyển động về phía đĩa ép
trung gian và truyền chuyển động cho đĩa ma sát. Mô men của động cơ được
truyền tới trục rỗng đồng thời ly hợp số 1 được mở ra.
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Khối điều khiển
Dựa vào thông tin từ các cảm biến: cảm biến vị trí số, cảm biến tốc độ xe,
cảm biến vị trí bướm ga, cảm biến tốc độ động cơ đưa về, máy tính sẽ ra lệnh
điều khiển thông qua cơ cấu chấp hành.
Cơ cấu chấp hành
Trong DCT van điều khiển điện từ đóng vai trò là cơ cấu chấp hành, thực
hiện việc đóng mở các đường dầu. Van điều khiển từ bao gồm lõi thép từ, cuộn
dây.
2.1.2 Điều khiển hệ thống truyền lực với ly hợp kép
Nguyên tắc của việc điều khiển chuyển số
Về cơ bản việc chuyển cấp số trên ô tô trong quá trình hoạt động là tự động
hoặc không tự động đều tuân theo nguyên tắc lực kéo của ô tô phải đảm bảo lớn
hơn lực cản chuyển động để đảm bảo ô tô có thể hoạt động được trong các điều
kiện khai thác khác nhau. Với hộp số có cấp điều khiển sang số tự động, việc lựa
chọn thời điểm chuyến số cần phải tính toán sao cho phù hợp với điều kiện khai
thác cụ thể. Thời điểm chuyển số sẽ phụ thuộc vào các thông số đầu vào sau đây:
vị trí của bướm ga, tốc độ của động cơ, tốc độ trục thứ cấp của hộp số (tốc độ của
ô tô), vị trí của cấp số truyền hiện tại và chế độ đi số hiện tại.
Điều khiển thời điểm chuyển số
Việc thay đổi cấp số truyền của hộp số kết hợp với ly hợp kép (DCT) do bộ
điều khiển ECT đảm nhận với các thông số đầu vào là tín hiệu của bàn đạp ga, tốc
độ chuyển động của ô tô (tốc độ trục thứ cấp của hộp số), vị trí của cần số, vị trí
số truyền hiện tại,Việc điều khiển dựa trên nguyên tắc ô tô có thể chuyển động
một cách hợp lý ở các chế độ khác nhau phụ thuộc điều kiện khai thác hay mong
muốn của người lái.
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Dựa vào nguyên tắc đã nêu ở trên, ECT sẽ tính toán và điều khiển việc đóng
hay mở ly hợp 1 hoặc ly hợp 2 đồng thời chọn tay số tiếp theo dựa trên điều kiện
khai thác cụ thể.
Hình 2.6 Sơ đồ điều khiển thời điểm chuyển số
Sơ đồ chuyển số: ECT được lập trình để lựa chọn sơ đồ chuyển số theo
chế độ lái xe và vị trí cần số.
Bảng 2. 1 Sơ đồ chuyển số theo chế độ lái xe và vị trí cần số
Sơ đồ chuyển số ở chế độ bình thường
Tương ứng với chế độ lái xe trong thành phố, ngoại ô hay đường cao tốc.
Phù hợpvới tiêu hao nhiên liệu thấp và tính năng tăng tốc tốt.
Ví dụ: Hộp số sẽ chuyển lên số tại thời điểm khi bướm ga mở 50% theo sơ đồ trên
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
hình 2.7. Để đảm bảo cho ô tô hoạt động bình thường , việc chuyển từ số 1 lên số
2 xảy ra khi tốc độ trục thứ cấp hộp số là 1.500 v/p, từ số 2 lên số 3 xảy ra tại
2.500 v/p và từ số 3 lên số truyền tăng xảy ra tại 4000 v/p.
Hình 2.7 Sơ đồ chuyển số ở chế độ thường
Sơ đồ chuyển số ở chế độ tải nặng
Cũng tương tự như đã phân tích ở trên, khi ô tô hoạt động ở chế độ tải nặng,
việc sang số của ô tô cũng thay đổi, khi đó tốc độ động cơ khi chuyển số lên và
xuống cao hơn so với khi ở chế độ bình thường.
Ví dụ: Như sơ đồ sau khi bướm ga mở 50%, việc chuyển từ số 1 lên số 2
xảy ra khi tốc độ trục thứ cấp hộp số là 1.800 v/p, từ số 2 lên số 3 xảy ra tại 3.100
v/p và từ số 3 lên số truyền tăng xảy ra tại 4500 v/p.
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Hình 2.8 Sơ đồ chuyển số ở chế độ tải nặng
Chế độ khi tay số ở vị trí R hoặc N
Khi tay số ở vị trí R, Hộp số sẽ được điều khiển để hoạt động ở tay số có tỷ
số truyền cao nhất giống như các hộp số cơ khí có cấp thông thường.Còn tại vị trí
N thì các ly hợp sẽ không làm việc và động cơ không truyền mômen đến hộp số
đồng thời cơ cấu gài số trong hộp số cũng ở vị trí trung gian.
2.2. Mô phỏng ô tô trang bị hệ thống truyền lực kiểu ly hợp kép
2.2.1. Phương pháp mô phỏng
Thông thường, để nghiên cứu quá trình động học và động lực học của một
hệ thống bất kỳ có thể thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm hoặc
phương pháp mô phỏng []. Ngày nay, do sự phát triển của công cụ và các phần
mềm mô phỏng chuyên dụng, việc nghiên cứu các hệ thống thông qua mô phỏng
càng được sử dụng phổ biến do những ưu điểm nổi bật như: tiết kiệm chi phí
nghiên cứu, kết quả nghiên cứu thu được nhanh chóng, trực quanCũng như các
hệ thống kỹ thuật khác, việc nghiên cứu mô phỏng xác định các thông số động
học động lực học của ô tô sẽ làm cơ sở lý thuyết ban đầu cho việc thiết kế tính
toán và hoàn thiện kết cấu của ô tô nói chung.
Có thể phân biệt thành hai phương pháp mô phỏng như trên hình 2.9:
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
- Phương pháp 1:Mô phỏng thông qua thiết lập hệ phương trình vi phân liên kết
giữa các vật trong hệ;
- Phương pháp 2: Mô phỏng thông qua mô tả các vật và liên kết.
Đối với phương pháp thứ nhất, việc mô phỏng được thực hiện theo 5 bước.
Đầu tiên, trên cơ sở hệ thống thực cần nghiên cứu xây dựng mô hình tính toán
trên cơ sở đơn giản hóa hệ thống bằng các giả thiết phù hợp với mục đích và yêu
cầu nghiên cứu. Bước tiếp theo, dựa trên mô hình tính toán sẽ xây dựng mô hình
toán học mô tả hoạt động của hệ thống. Với các hệ thống đơn giản, việc giải các
mô hình toán học không quá khó khăn và tốn nhiều thời gian. Tuy nhiên, trên thực
tế mô hình toán học mô tả hoạt động của các hệ thống kỹ thuật thường rất phức
tạp do vậy, người ta thường phải sử dụng các phần mềm hỗ trợ tính toán như
Matlab, Maple, Mathcad... Bước cuối cùng đó là phân tích đánh giá kết quả thu
được[10].
a) b)
Hình 2.9 Sơ đồ các phương pháp mô phỏng
a. Mô phỏng thông qua xây dựng hệ phương trình vi phân
b. Mô phỏng thông qua mô tả vật và liên kết
2.2.1.1 Phương pháp mô phỏng thông qua thiết lập hệ phương trình vi phân
liên kết giữa các vật trong hệ
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Đây là cách thức truyền thống đã được sử dụng trong nhiều năm qua, khi
mô phỏng theo phương pháp này trước tiên ta phải phân tích mô hình thành cơ hệ
nhiều vật và xây dựng các hệ phương trì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nghien_cuu_dac_tinh_dong_luc_hoc_o_to_voi_he_thong.pdf